VIỆT-NAM VĂN HIẾN
NĂM THỨ 4870
(TÂY LỊCH NĂM 1991 )
BẠCH
THƯ
VIỄN ẢNH
NƯỚC VIỆT-NAM
VÀ
KHÁT
VỌNG NGƯỜI DÂN VIỆT
LỜI MỞ ĐẦU
Bản Bạch-Thư này được viết với công tâm và
chân tình của những người dân Việt. Nó công bố những sự thật về hiện
tình nước Việt-Nam, về những viễn ảnh của đất nước và về
những giải pháp cho đất nước trong giai đoạn hiện tại.
Nó cũng nói lên những khát vọng của người
dân, đồng thời thể hiện mối quan tâm và sự hiểu biết
của người dân bình thường học hỏi được từ những kinh
nghiệm của đời sống thực tế, từ những vinh nhục, thành bại của
tiền nhân trong suốt dòng lịch sử.
Xin trân
trọng gởi tới:
.
Toàn thể đồng bào Việt-Nam, các nhà
lãnh đạo trong và ngoài nước,
· Chính quyền và nhân dân các
nước yêu chuộng tự do nhân bản.
Một bản Bạch-thư do người dân viết và công bố
có thể là một sự khác thường nhưng không
phải là một điều nghịch lý.
Từ
ngàn xưa người Đông phương đã có quan niệm "Dân vi quý"
dân vốn là gốc rễ của quốc gia. Dân
như dòng nước, chế độ như con thuyền ngự trị trên nước.
Nước nâng thuyền và không
phải tự nhiên nước làm đắm thuyền; dân thường
tôn trọng chính quyền và những người lãnh
đạo quốc gia, nhưng dân không phải là nô bộc
của chế độ.
Từ ngàn xưa trong nếp sống văn hiến của dân tộc Việt cũng
đã lưu truyền quan niệm tôn trọng dân ý: "Ý dân là ý
trời". Nhưng ý dân
có thường được tôn trọng hay không? và ngược lại sự thể hiện ý
có chính đáng và phù hợp với quyền
lợi tối hậu của cả dân tộc hay không? Đó
là câu hỏi cần phải được đặt ra cho các nhà
lãnh đạo, cho những nhà văn hóa giáo dục
và cho toàn dân.
Dân ý liên hệ vô cùng đến sự hưng vong
của đất nước, vì nó được kết thành bởi Dân
tâm, Dân trí và
Dân khí - những yếu tố sinh tồn chủ yếu của dân tộc.
Theo lẽ thường, Dân tâm có thuần hậu thì
dân tộc mới có hòa bình an lạc, Dân
trí có sáng suốt thì quốc gia mới tiến bộ
văn minh, Dân khí có quật cường thì giống
nòi mới hưng thịnh bền vững. Ngược lại nếu
Dân tâm điên đảo, Dân trí u mê,
Dân khí rụt rè sợ sệt thì dân tộc phải
suy vong.
Nội dung bản Bạch-thư gồm có 5 phần:
– Phần I : Thực
trạng đất nước.
– Phần II : Những bài
học lịch sử.
– Phần III : Viễn ảnh của đất
nước.
– Phần IV : Khát vọng
người dân Việt.
– Phần V : Giải pháp
đề nghị.
Bản Bạch-thư này xin giữ tính khách quan, vô
tư, đồng thời thể hiện sự thẳng thắn, trung thực và tinh thần
thuận thảo bao dung nhưng bất khuất của người bình dân
trong truyền thống Việt.
Trân trọng,
I. THỰC TRẠNG ĐẤT NƯỚC.
Thế giới vừa bước vào thập niên 90 với những biểu hiện
sáng ngời của tinh thần Tự-do Dân-chủ, với sự tan
rã của khối Cộng-sản Đông-Âu và
Liên-Sô, với những thành tích kỷ thuật vượt
bực để chuẩn bị bước sang thế kỷ 21. Trước bậc
thềm của kỷ thuật cao độ và của nền văn minh mới, Viêt-Nam
đã được nhìn thấy như thế nào?
- MỘT ĐẤT NƯỚC TAN NÁT:
Sau thế chiến thứ hai, Việt-Nam đã bỏ lỡ một cơ hội hiếm hoi
giành lại tự do và tự chủ, để lại bị
xô đẩy vào cuộc chiến tranh ý thức hệ cốt nhục
tương tàn kéo dài suốt 30 năm. Đây
chính là sự sai lầm lớn nhất thế kỷ. Trong vinh
quang vội vã của một
nền độc lập chưa có tự chủ, người dân Việt
đã phải trả giá cho lỗi lầm lãnh đạo của thập
niên 40 ấy bằng sinh mạng, bằng oan khiên, uất hận, bằng
tù đầy, xiềng xích, bằng sự nghèo đói, lầm
than, thất học...Đất nước bị cầy nát bởi bom đạn. Môi sinh bị tàn phá bởi thuốc khai
quang. Nguồn tài nguyên
thiên nhiên bị phá hoại trầm trọng. Nguồn nhân lực bị lãng phí oan uổng.
không những thế, cả dân
tộc còn phải trả giá bằng sự khánh kiệt niềm tin ở
lãnh đạo, ở sự mất mát những giá trị tinh thần
truyền thống và sự hoài nghi hoặc chối bỏ lương tri con
người. Kết quả, một đất
nước tan nát đã gây nên sự phá sản
toàn bộ xã hội và con người, sự sai lầm về
lãnh đạo đã chặn đứng đà tiến hóa của
dân tộc ít nhất nửa thế kỷ.
- MỘT DÂN TỘC CHIA LÌA:
Chiến tranh, tàn phá, nghèo đói, chậm tiến,
người bóc lột người, người hành hạ người... hiển
nhiên là những thảm họa đau thương nhất của dân tộc;
cho nên trong thời chiến người dân Việt cả hai miền Nam Bắc
đều mong mỏi đất nước sớm thanh bình và đều nuôi
một niềm hy vọng rằng sau khi chiến tranh chấm dứt và một nền
hòa bình được vãn hồi, cả nước sẽ xóa
nhòa được những dị biệt, sẽ hàn gắn được tình
người, sẽ chung sức tái thiết quốc gia, phát triển kinh
tế, văn học, kỷ thuật... để trước hết có cơm no áo ấm
và một đời sống yên vui trong tình tự dân
tộc; sau, có thể đuổi kịp đà tiến hóa của thế giới.
Chiến tranh đã chấm đứt vào
tháng tư năm 1975 sau khi Bắc-Việt hoàn tất cuộc giải
phóng miền Nam
bằng võ lực. Nền Đệ Nhị
Cộng-Hòa sụp đổ. Quân đội miền Nam
buông súng. Cuộc chiến 30 năm
đã chấm dứt nhưng tiếc thay nền hòa bình mong đợi
đã không bao giờ được vãn hồi;
vì ngay khi tiếng súng chấm dứt thì cả nước biến
thành một trại giam khổng lồ; một nền thống trị khắc nghiệt
tàn bạo được thiết lập bởi kẻ chiến thắng. Huyền thoại
“giải phóng” đã tan tành trong sự đau xót,
tủi nhục, uất ức, khốn quẫn của người dân cả hai miền Nam Bắc.
Làn sóng người vuợt biển vượt biên tìm tự do
chưa từng thấy đã xẩy ra ngoài sức bao dung của
các nước có truyền thống nhân đạo trên thế
giới. Những con số thống kê với hàng trăm ngàn
người chết đuối hoặc bị hải tặc sát hại trên biển
Đông chưa đủ để nói lên nỗi đau thương thống khổ của
những người mất nước, cũng không đủ để làm nản lòng
những người trong nước còn đang hướng về những bến bờ tự do
vô định. Một dân tộc đã bị chia lìa giữa hai
chiến tuyến suốt 30 năm, ngày nay lại bị xé vụn ra từng
mảnh trong bàn tay cứu vớt của thế
giới bao dung.
- MỘT XÃ HỘI NGHÈO ĐÓI, LẠC HẬU:
"Cái nhục của
sự nghèo đói lạc hậu cũng không thua kém
cái nhục của sự mất nứơc"; sự thật này
đã được nói lên bởi chính người dân
trong nước. Cả nước nghèo đói tả tơi mặc dầu những
thành tích lao động vượt chỉ
tiêu luôn luôn được tuyên dương, mặc dầu một số
mặt hàng như gạo, dầu thô đã được ghi thêm
vào trong danh sách hàng xuất khẩu... Những điều
chỉnh vĩ mô về cơ cấu đầu tư
và kinh tế luôn luôn được nói đến nhưng
tình hình kinh tế càng ngày càng suy
sụp. Nạn lạm phát không thể kiềm chế.
Những vụ vỡ nợ tín dụng tràn lan.
Xu hướng thương mại hóa xâm nhập vào cả các
cơ quan văn hóa, y tế, giáo dục, nội chính, ngoại
giao... Bất công xã hội gia tăng.
Thầy giáo bỏ trường vì
túng thiếu, học sinh bỏ trường vì nghèo đói.
Trong bản sắp hạng quốc tế, Việt-Nam
là một trong năm nước nghèo đói nhất thế giới.
Nhìn xa hơn nữa, sự nghèo
đói lầm than cơ cực chẳng phải chỉ là một cơn bịnh thời
tiết; giới y học cho rằng tình trạng thiếu dinh dưỡng và
sợ sệt lo lắng triền miên đang làm suy thoái
nòi giống trầm trọng.
Phẫn uất chán chường về những ảo ảnh
của một thiên đường không có đủ cơm gạo, của một thế
giới thiếu thành thật và thiếu tình người, giới
trí thức trong nước nổi dậy đòi hỏi sự ngay thẳng của
nhà cầm quyền. Ngay cả các tầng lớp cán bộ
trung kiên cũng biểu lộ sự bất mãn cùng cực,
các thành phần kháng chiến cũ ra mặt chống đối.
Với đời sống kinh tế suy sụp, những tệ nạn
xã hội như cướp bóc, mãi dâm, gian
dâm, ma túy, tham nhũng, hối lộ, người hành hạ
người... càng ngày càng gia tăng trầm trọng.
Thêm vào đó đời sống tinh thần cả nước đang
lún sâu trong vũng bùn: lòng người ly
tán, chán nản, hoài nghi, thiếu thật thà,
tham lam, ganh ghét, đố kỵ; tầm hiểu biết của người dân bị
thu hẹp; phản ứng của dân chúng từ sợ hãi, rụt
rè, biến thành thờ ơ, phản kháng tiêu cực.
Trong tình trạng suy sụp chung của
các nước Xã-hội Chủ-nghĩa anh em, nhà nước
lúng túng không tìm ra lối thoát; mọi
kế hoạch, sách lược chỉ nhằm mục đích duy trì chế
độ.
- MỘT DI SẢN KHÔNG
CÓ KẾ THỪA:
* Ở trong nước, hơn 60 triệu người dân đang sống nghèo
đói tả tơi trên mảnh gia sản được gọi là tiền rừng
bạc bể. Nửa thế kỷ gian lao, những người
mang trách nhiệm trước lịch sử vẫn chưa tìm ra đâu
là nền tảng vững chắc để xây dựng nước nhà.
Hãy tự hỏi người dân Việt còn có thể vững
tin ở quê hương gấm vóc, ở truyền thống ưu tú, ở
nền văn hiến lâu đời, ở hơn bốn ngàn năm lịch sử đầy thử
thách và đầy dấu vết nhân bản của dân tộc
mình hay không?
- Sự phá sản toàn bộ xã hội và con người
như đã nêu trên là bằng chứng rõ rệt
nhất của sự mất niềm tin và mất kế thừa.
* Nhìn ra hải ngoại, từ những mất mát về vật chất lẫn
tinh thần khi bỏ nước ra đi, sự hội nhập văn hóa Tây
phương và đời sống sung túc ở các nước tự do
có thể chứng minh cho sự thăng tiến con người hoặc biện minh cho
những suy thoái tâm lý hay không?
- Trong những xã hội mà cơ hội phát triển lợi tức
được tôn trọng và khuyến khích, phần lớn người Việt
ở hải ngoại đã bước vào đời sống hoặc với sự đam mê
làm giàu, tôn sùng những giá trị vật
chất; hoặc với sự khuất phục của con người trong guồng máy khai
thác trục lợi của kinh tế tư bản.Thế hệ cha mẹ và con
cái dần dần cách biệt do sự hội nhập quá nhanh
chóng của lớp trẻ đang lớn lên trong những nền văn
hóa Tây phương xa lạ. Những thảm cảnh
gia đình cùng với những vết thương xã hội bắt đầu
xuất hiện. Mặc dầu giới trẻ đã đạt được nhiều
thành tựu, nhưng sự khủng hoảng niềm tin, mất định hướng, mất
đối tượng xây dựng, mất truyền thống văn hóa và mất
sự kế thừa là thực trạng đầy ưu tư của người dân Việt ở
hải ngoại.
*****
NGƯỜI DÂN VIỆT
NGHĨ GÌ TRƯỚC THỰC TRẠNG ĐẤT NƯỚC?
Trong thực trạng của một đất nước tan nát, một
dân tộc chia lìa, một xã hội suy đồi, một di sản
ngàn năm không được thừa kế; người hải ngoại nhìn
về đất nước chỉ thấy một trời u ám cách biệt; người trong
nước nhìn về tương lai chỉ thấy sự nghèo đói hẩm
hiu.
Đất nước Việt-Nam, dù trải qua 30 năm
chiến tranh tàn phá vẫn không đến nỗi thiếu thốn
tài nguyên, nghèo nàn nhân lực.
Người Việt-Nam
dù trăm ngàn thử thách dập vùi, vẫn chưa
mất khả năng sáng tạo và phát triển. Sự suy sụp
toàn diện xã hội và con người tất phải có
nguyên nhân. Nhìn lại thực trạng thê thảm của
nước nhà trong lúc thế giới đang dũng mãnh bước
vào kỷ nguyên văn minh mới, những ai là người
có lòng với quê hương dân tộc không
khỏi đau lòng! Thời gian cùng nguồn
tài nguyên thiên nhiên, nhân năng,
nhân lực và cả nhân tâm đang bị lãng
phí một cách trầm trọng và oan uổng.
Hàng triệu khối óc ở trong nước đang bị tê liệt
trong nguồn máy lao động rỉ sét và quá lỗi
thời; hàng trăm ngàn chuyên viên, sinh
viên kỹ thuật ở hải ngoại – một con số du học sinh chưa từng thấy
trên thế giới – được trang bị những kiến thức cấp tiến
không tìm được đối tượng phục vụ đích thực.
Nếu thẳng thắn nhìn vào những nguyên nhân
đã gây nên thực trạng suy sụp của đất nước hôm
nay, có những sự thật hiển nhiên không thể
không nói đến:
- Đó là
những sự thật về một nền văn hóa mất gốc. Nó đã mất gốc ngay từ những biến cố đầu
thế kỷ, khi cơn cuồng phong của nền văn hóa duy lý
và tinh thần duy vật Tây-phương đã đánh bật
và cuốn phăng đi những lũy tre già kiên nhẫn nhất
thể hiện cho tinh thần văn hiến ngàn đời của dân tộc
Việt-Nam.
- Đó là
những sự thật về những nền giáo dục ngu dân, hủy diệt
tình người, hủy diệt tính quật cường cần thiết của con
người, làm cho dân tâm ly
tán, dân trí u mê và làm cho
con người chỉ còn biết một sự khôn ngoan duy nhất
và biết khuất phục cường quyền và thế lực kẻ mạnh để được
yên thân phục vụ cho tư lợi.
- Đó là những sự thật về
một chính sách kinh tế lạc hậu, một đường lối quản trị
thấp kém. Những điều đó nói
lên một cách rõ rệt sự hẹp hòi u tối của
những quan niệm quản trị đã trở thành định kiến,
gò bó trong công thức tư duy, không được sự
soi sáng của trí tuệ con người.
- Đó là sự thật về những
quan niệm chính trị cố chấp lỗi thời và sự lãng
phí của những chế độ độc tài chuyên chính.
Từ xưa đến nay, các chế độ độc tài trong lịch sử chưa
từng làm nên những sự nghiệp hữu ích cho dân
tộc và nhân loại, Với những thăng tiến của tư tưởng
loài người và sự mở mang dân trí,
chính trị phải được quan niệm khác hơn là những
tham vọng chuyên chính hoặc những thủ đoạn nắm
chính quyền; một nền Dân chủ phải được nhìn nhận
khác hơn là sự nhìn nhận người dân được
quyền làm chủ cái vai cầy của mình, cho dù
cái vai cầy ấy có được coi là phương tiện sản xuất
chân chính.
II. NHỮNG BÀI HỌC LỊCH SỬ.
Trứơc hiện trạng suy vi của đất nước, sự
lắng tâm suy nghiệm những bài học lịch sử để học hỏi những
kinh nghiệm của tiền nhân là điều tối ư cần thiết. Trải
qua những cơn thăng trầm của đất nước với những kinh nghiệm tích
lũy từ ngàn đời, người dân Việt ngày nay có
thể vững tin ở những giá trị truyền thống của dân tộc
mình. Chữ Việt có ý
nghĩa bình dị nhất là vượt. Người dân Việt
đã hơn bốn ngàn năm chân cứng đá mềm, vượt
núi rừng, vượt gian lao, từ
Động-Đình Ngũ-Lĩnh tiến về miền đồng bằng sông Hồng
sông Cửu lập quốc. Đất nước Việt chẳng phải chỉ trải qua
đôi ba cơn bể dâu nghiêng ngửa; trên bước đường
sinh tồn và tiến hóa, tiền nhân đã vượt qua
biết bao nhiêu thử thách để bảo tồn quốc gia dân tộc
mà những chứng tích cụ thể của một nền văn hiến lâu
đời cộng thêm với ý chí tự chủ bất khuất của người
dân bình thường đã chứng tỏ nó phải
là đất nẩy mầm của một nền nhân bản đích thật.
1- NHỮNG ĐIỂM SON CỦA DÂN TỘC.
— Trong sự suy nghiệm về những giá trị truyền thống, trước hết
phải nhắc nhở tới tinh
thần tự chủ ngàn đời với truyền thống quật cường bất khuất
của dân tộc ta. Tinh thần ấy đã được thể hiện đầy ý
nghĩa từ thời họ Hồng-Bàng mở nước với cái vươn vai của
cậu bé làng Phù-Đổng nhổ tre thay roi sắt
đánh đuổi giặc ngoại xâm. Tinh thần ấy đã được biểu
lộ vô cùng oanh liệt vào thời Bắc thuộc với
các cuộc khởi nghĩa của hai Bà Trưng, Bà Triệu mở
đầu cho các cuộc quật khởi của các bậc nghĩa sĩ anh
hùng và của toàn dân trong suốt dòng
lịch sử. Tinh thần ấy đã được lưu truyền cho hậu thế bằng ba bản
Tuyên-cáo
Tự-chủ lừng danh: Bản tuyên cáo thứ nhất
là bốn câu thơ khích lệ tinh thần quân sĩ của
lão tướng Lý Thường-Kiệt đời nhà Lý; thứ
hai là bản thiên cổ hùng văn "Bình Ngô
Đại Cáo" của Nguyễn-Trãi đời hậu Lê; thứ ba
là bài văn nôm khích lệ tướng sĩ trước khi
xuất trận đại phá quân Thanh của vua Quang-Trung
vào mùa xuân năm Kỷ dậu 1789.
— Tiếp đến phải nói đến ý thức hợp quần
kết thành sức mạnh đồng tâm của dân tộc Việt.
Ý thức ấy hiển nhiên đã chận đứng được đoàn
quân bách chiến bách thắng của Nguyên chủ
Hốt-Tất-Liệt trong thời nhà Trần chống quân Mông-Cổ.
Hội nghị Diên-Hồng giữa vua cùng dân thể hiện trọn
vẹn tinh thần đồng tâm hiệp lực của dân tộc trước nguy cơ
quốc phá dân nô. Sức mạnh của sự "Đồng tâm hiệp
lực" ấy chứng tỏ sự thăng hoa của trí tuệ con người; nó
khác với sức mạnh sắt máu được tạo thành dưới
mô thức "Đoàn kết nhất trí ", ở đấy cái
trí khôn của hàng triệu con người bị san bằng dưới
cái trí ngu của kẻ lộng quyền bạo ngược.
— Thứ ba, trong cơn bể dâu của dân tộc ngày nay, cần
phải nhắc lại tinh thần cuộc khởi nghĩa Lam-Sơn: "Lấy chí nhân thay cường
bạo, đem đại nghĩa thắng hung tàn". Sau mười năm
gian lao thử thách, tình
người và nghĩa cả đã kết hợp được toàn dân
và giải cứu được đất nước.
— Lại rất cần phải nói tới tinh thần văn-hiến của
dân tộc ta. "Bốn ngàn năm văn hiến"
là niềm reo vui vinh quang nhất của dân tộc. Người dân Việt từ ngàn xưa vốn quen ngồi
trên mình trâu hơn lưng chiến mã, nhưng trước
bạo lực áp bức, biết quật cường để bảo vệ lẽ sống tự chủ.
Ý niệm văn-hiến thể hiện ở tinh thần tự chủ: không cam
tâm làm nô lệ kẻ khác nhưng cũng không
đang tâm bắt kẻ khác làm nô lệ cho
chính mình. Ý niệm văn hiến còn thể hiện ở
ý thức bao dung, ở sự tỏa sáng của nhân tính
và trí tuệ con người trong những qui ước sống chung của xã hội.
— Những điểm son của dân tộc còn phải được nêu
lên ở truyền thống dân chủ "Phép vua thua lệ
làng" với nếp sống trọng đức tôn hiền, ở tinh thần
bình đẳng trách nhiệm và tình yêu
thương ruột thịt "bọc mẹ
trăm con".
Những giá trị truyền thống đương nhiên không phải
chỉ có ngần ấy, nhưng ngần ấy đã đủ để nói
lên cái bản sắc thủy chung của
một dân tộc tự chủ bất khuất, dân tộc "vốn xưng văn
hiến đã lâu"
2- NHỮNG BÀI HỌC ĐAU THƯƠNG TRONG LỊCH SỬ.
– Bài học vỡ lòng chính là bài học Cổ-Loa, bài học
về một nền độc lập trong vỏ ốc của vua Thục An-Dương-Vương.
Thành Cổ-Loa là kiến trúc vĩ đại của dòng
Việt được xây dựng đồng thời với Vạn-Lý
Trường-Thành ở phương Bắc. Nhờ sự trợ giúp của thần
Kim-Quy ở giẫy Hồng-Lĩnh, nó đã vươn cao lên ngạo
nghễ như một thách thức trước những mưu đồ xâm lăng của dị
tộc. Vua Thục An-Dương-Vương đã xây dựng nền độc lập trong
vỏ ốc của mình trên những ưu thế vật chất của lũy cao
thành chắc, của vủ khí vay mượn và bằng kế hoạch
thần phục đế quốc nhà Tần, dâng người hiền cho ngoại tộc. Thế nhưng thành Cổ-Loa dù vô
cùng kiên cố, cũng vẫn phải tan tành trước những
âm mưu và sức công phá của họ Triệu. Nó phải sụp đổ vì nó chỉ là
một khối vật chất vô tri. Không những thế nó
còn là cái cớ cho nàng Mỵ-Châu chung
thủy vô tình phản quốc hại nhà, dứt áo
lông ngỗng, tức là dứt bỏ cái biểu tượng cao
quý của văn hóa dân tộc mình, trải
trên đường bôn tẩu để dẫn đường cho kẻ thù theo sau
lưng truy diệt.
– Bài học kế tiếp, bài học đau thương nhất, ngàn
năm không thể quên là bài học mất tự-chủ: một
ngàn năm làm thân trâu ngựa cho giặc
thù phương Bắc; một trăm năm rên siết dưới ách
đô hộ tham tàn của thực dân phương Tây; gần
đây nhất là mấy chục năm dân tộc bị mất tự chủ văn
hóa trước sức bành trướng của ý-thức hệ duy vật.
Không kể những thảm họa đau thương nhục nhã mà
người dân lành phải gánh chịu, cái hiểm họa chung cho dân tộc, cái di hại cho
muôn đời chính là thảm trạng mất văn hóa. Một
đất nước mất chủ quyền kinh tế có thể được cứu vãn bằng
những kế hoạch sáng suốt của nhà cầm quyền và sự
cần cù nhẫn nại của người dân; một quốc gia mất chủ quyền
chính trị có thể phục hồi bằng một cuộc đồng tâm
quật khởi; nhưng một
dân tộc đã mất tự chủ văn hóa thì
không một giá trị truyền thống nào, không một
sức mạnh quật khởi nào có thể tồn tại; chỉ còn
có bạo lực và sự dối trá ngự trị mà
thôi. Đó chính là nguy
cơ diệt vong của dân tộc.
– Bài học đau thương không kém là bài
học mất tình nghĩa
đồng bào: bài học Sông Gianh với
hơn một thế kỷ huynh đệ tương tàn. Giở lại trang lịch sử đau
thương ô nhục đó, người ta không tìm thấy dấu
vết của tính hiếu chiến và mối hận thù nào
ở người dân Việt hiền hòa, mà chỉ thấy ở kẻ
lãnh đạo thiễn cận những tham lam, cố chấp, bạo ngược, độc
tài...
– Người ta cũng không thể quên những bài học
Trần-Thiễm-Bình, Lê-Chiêu-Thống, mang thân qụy
lụy ngoại bang để mong cũng cố địa vị và quyền lực; bài
học Hồ-Quý-Ly lộng quyền để lụy đến muôn dân. Trong lúc quốc gia suy vi,
lòng người ly tán, nếu như có kẻ hiền tài
đứng lên lãnh đạo, thu được nhân tâm về một
mối thì hẳn là điều muôn vàn may mắn vẻ vang
cho dân tộc; nhưng nếu chỉ có quyền lực bị thu về một mối,
thì chắc chắn đó chỉ là điều đại bất hạnh, chỉ
là một mối đại họa cho dân tộc mà thôi.
– Bài học gần đây nhất là bài học mất niềm tin: sự khủng
hoảng niềm tin bắt đầu khi có sự va
chạm với văn minh Tây phương. Bản điều trần của ông Nguyễn
Trường-Tộ đời vua Tự-Đức nhà Nguyễn đã như một
trái bom làm choàng tỉnh những người đang say ngủ,
nhưng đồng thời cũng làm lung lay sự tin tưởng vào những
giá trị văn hóa nhân bản đã có từ
ngàn xưa. Sự khủng hoãng niềm tin ấy được cảnh
giác kể từ cụ Phan-Bội-Châu, người đã khởi xướng
phong trào Đông-du, và cũng là người
đã ý thức cái giá trị đích thật của
văn hóa dân tộc:
“Trong túi mình có bảo châu mà
lại đi ngữa tay xin người từng hạt gạo, đó chẳng phải là
điều hết sức kỳ quái hay sao?”.
Sự khủng hoảng niềm tin ấy trở nên trầm trọng hơn nữa khi những
chủ nghĩa văn hóa ngoại lai được du nhập vào Việt-Nam,
xé nát dân tộc thành từng mảnh vụn, hủy diệt
những giá trị nhân bản, biến con người thành những
con thú hoang say máu sẵn sàng tàn
sát đồng loại không chút nương tình.
– Từ cơn khủng hoảng niềm tin ấy, bài học thực tế là sự phá sản toàn bộ
xã hội và con người:
Đã có một thời người dân Việt, trước các
áp lực của các nền văn hóa ngoại tộc, từng
hiên ngang đứng lên đâu lưng với nhau, muôn
người như một, đồng loạt chĩa những mũi dáo sắc bén ra
bên ngoài để bảo vệ những giá trị thiêng
liêng, bảo vệ lẽ sống tự chủ hòa bình của dân
tộc.
Không may lại cũng đã có một thời, khi lẽ sống của
người dân bị tước đoạt và những giá trị truyền
thống không còn được nói đến nữa, cùng một
lúc những áp lực bên ngoài trở nên
mạnh mẽ hơn; những mũi dáo sáng quắc đã quay
vào nhau. Người ta nghe thấy tiếng
cãi vã thay cũ đổi mới. Người
ta nghe thấy tiếng thét đứt ruột của kẻ lâm nạn. Người ta nghe thấy tiếng reo mừng của kẻ chiến thắng.
Người ta nghe thấy tiếng bước chân vội
vã của kẻ tháo chạy. Người ta nghe thấy tiếng vặn
mình đau đớn của một xã hội Việt-Nam sụp đổ!
Những điều trông thấy, kể từ khi cuộc chiến Đông Dương
bùng nổ, là một xã hội Việt-Nam ly tán, hận
thù, độc ác, bất công, tham lam, sa đọa, thiếu thật
thà, thiếu bao dung, thiếu tình người và thiếu
nghĩa làm người. Còn gì để mà dấu giếm nữa
khi những bất công và những tệ nạn xã hội đã
càng ngày càng phơi bầy theo
cái nghèo đói và lòng tham lam của
con người. Còn để che đậy nữa, khi
lòng căm thù được đưa vào việc giáo dục ở
học đường từ thuở ấu thơ. Ở trong một xã hội đầy rẫy
những giành giật, bất công, con người không thể
phát triển được tính bao dung, thương yêu, tha thứ;
trái lại càng ngày càng trở nên hẹp
hòi, ích kỷ, cố chấp, ganh ghét, bới móc,
oán hận... Trong một xã hội rã rời bị đè
nặng bởi bóng đen của sự khủng bố, dân trí
càng ngày càng trở nên u mê thụ động;
người dân cũng không thể bảo tồn được tính quật
cường, tự chủ và tinh thần liên đới, trách nhiệm để
vươn lên trong lẽ sống văn minh của trí tuệ loài
người.
Khi lẽ sáng
của trí tuệ mất đi thì chỉ còn có dối
trá và bạo lực ngự trị.
*****
Qua sự suy nghiệm những bài học
lịch sử trên đây, bây giờ trở về với chữ "Việt" ở những dòng đầu: trở về với
ý thức vượt thắng của truyền thống Việt.
Câu hỏi cho thế hệ chúng ta là những người đang
gánh vác trọng trách lãnh đạo có đủ
can đảm vượt qua những chông gai thử thách, những cố chấp
tham vọng, những bóng tối của hận thù, những ma lực của
ý thức hệ và những lôi cuốn của các nền văn
minh ngoài con người để xây dựng lại một nếp sống an lạc,
một nền chính trị quân bình hòa hợp trong lẽ
sống tự chủ cho toàn dân tộc hay không?
III. VIỄN ẢNH CỦA ĐẤT NƯỚC.
– Không ai tiên đoán được một cách
chính xác những gì sẽ xẩy ra ở một tương lai
quá xa; nhưng căn cứ vào những hiện tượng đang xẩy ra
người ta có thể tiên liệu không sai lạc lắm những
gì đã gần tới.
– Từ những viễn ảnh của đất nước, có những giải pháp
đã được đề nghị hoặc đã được áp dụng. Những giải
pháp ấy có thể đưa đến một đáp án
cho những vấn đề của đất nước hay không?
– Những biến chuyển về tâm lý và nhận thức của
người dân có ảnh hưởng gì đến việc đi tìm
một giải pháp cho đất nước?
A-NHỮNG VIỄN ẢNH CỦA VIỆT-NAM.
Vào năm 1975 ở Việt-Nam có lẽ
không ai nghĩ rằng các nước Xã-hội Chủ-nghĩa
Đông-Âu sẽ sụp đổ, hoặc ít nhất không ai tin
rằng nó có thể sụp đổ một cách nhanh chóng
đến như thế. Cho đến năm 1989 sau khi các dân tộc
Đông-Âu tự lực đứng lên đòi quyền sống
và bức tường Bá-Linh bị đập nát để mở đường cho
các nước Xã-hội Chủ-nghĩa hòa nhập vào nếp
sống dân chủ và nền kinh tế thị trường Tây phương,
thì các chính biến dây chuyền đã xẩy
ra ở các nước Xã-hội Chủ-nghĩa Á châu. Ở
Mông Cổ, sau 70 năm cô lập với thế giới bên
ngoài, Mông Cổ đã từ bỏ chế độ độc tài đảng
trị, tổ chức bầu cử tự do để mở đầu việc xây dựng dân chủ.
Ở Cao-Ly, hai miền Nam Bắc Hàn đang tìm những căn bản hợp
lý để thống nhất. Ở Trung-Hoa, hàng triệu sinh viên
học sinh tại hầu hết các thành phố lớn đã nổi dậy
tranh đấu cho quyền sống tự do dân chủ. Vụ đàn áp
đẫm máu ở Thiên-An môn Bắc-Kinh làm
xúc động lương tâm toàn thế giới có thể
nói là những hành động sắt máu cuối
mùa của tư tưởng bạo lực, đồng thời là dấu hiệu mở đầu
những viễn ảnh mới cho một miền Đông-Nam-Á hồi sinh.
Ngày nay người ta tin rằng những diễn biến tương tự những
gì đã xẩy ra ở Đông-Âu sẽ xẩy ra trong nay
mai ở Việt-Nam và toàn miền Đông-Dương. Sự tin
tưởng này có thể không quá sớm, tuy
nhiên viễn ảnh ấy sẽ trở nên tốt hay xấu còn
tùy thuộc ở ý chí của toàn dân
và ở sự sáng suốt của nhà cầm quyền đương thời. Một mặt khác, trong tình thế suy sụp hiện
tại về kinh tế, chính trị và tư tưởng, Nhà nước
Xã-hội Chủ-nghĩa Việt-Nam đang tìm sự trợ giúp
hoặc ít nhất tìm cách giải tỏa những mối mâu
thuẫn đối với các cường quốc có liên hệ nhiều nhất
với vận mệnh đất nước là Hoa-kỳ, Liên-sô và
Trung-quốc. Viễn ảnh của Việt-Nam do đó cũng tùy
thuộc vào tình hình chính trị và
thái độ, chính sách của các nước này.
1- Viễn ảnh Việt-Nam do tình hình đột biến
ở Liên-Sô:
Khi công bố chính sách “Đổi mới”,
Liên-sô hiển nhiên đã từ bỏ đường lối
cách mạng bạo lực, khước từ địa vị lãnh đạo khối Cộng-sản
Quốc-tế để dồn nổ lực vào việc củng cố nội bộ đang càng
ngày càng trở nên khó khăn phức tạp. Trong
cơn khủng hoảng mãnh liệt về đường lối chủ nghĩa phát
xuất từ thành trì lãnh đạo, không những khối
Cộng-sản Đông-âu xụp đổ và các nước
Xã-hội Chủ-nghĩa khắp nơi trên thế giới bị sa xút
nặng nề, mà nội tình Liên-bang Sô-Viết cũng
không thoát khỏi cơn sóng gió: các
mâu thuẫn nội tại bùng nổ; nhiều nước Cộng-hòa
trong Liên-bang Sô-viết lần lượt đứng lên tuyên
bố độc lập. Cuộc chính biến tháng 8
năm 1991 đã chấm dứt cơn ác mộng của hơn 70 năm
Cách-mạng Nga-Sô. Giờ
đây Nga phải xin viện trợ khẩn cấp từ các nước phát
triển về kinh tế để củng cố nền dân chủ đến muộn.
Từ những diễn biến của tình
hình nước Nga, người ta có thể kết luận rằng Karl-Marx
đã chết thật rồi và chủ nghĩa Cộng-sản đã
khô héo từ gốc rể. Sự tan rã của những
cành lá còn sót lại chỉ còn
là vấn đề thời gian.
2- Viễn ảnh Việt-Nam do tình hình bất trắc
ở Trung quốc
Sau khi khối Đông-Âu và Liên-Sô tan
rã, ở Á-châu và trên thế giới chỉ
còn lại hai quốc gia thực sự tiêu biểu cho thành
trì của chủ nghĩa Cộng-sản là Trung quốc và
Việt-Nam. Vì những lý do sống còn, hai nước
đã phải tìm lại những mối liên hệ hỗ tương.
Tuy nhiên viễn ảnh mà người ta
có thể trông thấy là sự sụp đổ có thể xẩy ra
bất ngờ của chế độ cầm quyền ở Trung quốc. Do đó hy vọng
vào khoản viện trợ có điều kiện của Trung quốc cho
Việt-Nam để kéo dài cơn hấp hối kinh tế là một dự
tính thiếu căn bản. Lập lại liên hệ
hỗ tương quân sự với Trung-Hoa là điều hoàn
toàn vô ích. Sau vụ Thiên-An
Môn, nhân dân Trung-Hoa đã đo lường được mức
độ thiện chí và phương thức hành động của những
lãnh tụ già ở Bắc-Kinh. Vì thế, biến cố
Thiên-An Môn chỉ có thể nói là diễn
biến cuối cùng của giai đoạn mở đầu trong cuộc chiến đấu của
nhân dân Trung quốc, nếu không muốn nói
là biến cố mở đầu của một giai đoạn kết thúc. Tính cách phi nhân của cuộc
đàn áp đẫm máu ở Thiên-An Môn đang bị
đả kích nặng nề bởi chính những nhân vật trong
nhóm cầm quyền Trung-Hoa. Sóng
gió đang xẩy ra ngay trong nội tình lãnh đạo.
Trường hợp chế độ hiện tại ở Trung quốc sụp đổ, người ta tin rằng
Việt-Nam sẽ có cơ hội thật sự đổi mới.
3- Viễn ảnh Việt-Nam với chính sách của
Hoa-Kỳ:
Dưới mắt các nhà lãnh đạo Việt-Nam hiện nay,
Hoa-Kỳ vốn là đế quốc tư bản phản động đã bị đánh
đuổi khỏi Việt-Nam một cách nhục nhã vào năm 1975.
Nhưng Hoa-Kỳ nắm trong tay hầu hết những
quyền năng phát triển về kinh tế kỹ thuật trên thế giới.
Chỉ riêng việc ban hành lệnh cấm vận như một biện
pháp trừng trị đối với các vụ vi
phạm nhân quyền trầm trọng ở các nước kém
phát triển đủ làm lung lay các chế độ đang tại vị.
Việc lập được các bang giao với Hoa-Kỳ có vẻ là
một viễn ảnh rất sáng sủa, vì Hoa-Kỳ ngoài khả
năng kinh tế và kỹ thuật, dường như không có tham
vọng đế quốc và không bị ràng buộc vào một
kết ước chính trị nào có tính cách
bất lợi cho Việt-Nam. Tuy nhiên, sách
lược của Hoa-Kỳ không phải chỉ là mở túi chi viện
cho các nước kém mở mang; Hoa-Kỳ biết xử dụng những ưu
thế của mình vào những mục tiêu lâu
dài và ngắn hạn. Trong
chính sách có vẻ mã thượng của một
dân tộc giàu mạnh mang niềm kiêu hãnh chưa
từng biết thua trận, những mục tiêu trước mắt không
có gí khác hơn là bắt những kẻ làm
nhục mình phải quỳ gối. Tóm
lại, đối với Việt-Nam ngày nay, việc thiết lập bang giao với
Hoa-Kỳ là món hàng cực quý, có thể
phải mua bằng giá cắt cổ.
4- Viễn ảnh Việt-Nam do cuộc tranh đấu dân chủ ở
trong và ngoài nước:
Thời điểm hiện tại là một cơ hội ngàn năm để cho
dân tộc Việt-Nam khôi phục lại nền tự chủ đã vắng
bóng từ hơn một thế kỷ. Đây là
lúc mà những biến chuyển về tâm lý, về quan
niệm ở trong và ngoài nước đã đến gần nhau hơn
và đã trở nên thuận tiện hon cho một cuộc đổi mới
thực sự. Đây cũng là lúc trình độ
dân trí đã đủ chín chắn để có thể tự
lực xây dựng một đất nước tự chủ, một xã hội tự do
công bằng trong tình người và nghĩa làm
người.
Đất nước cần sự thay đổi và
không thể không có sự thay đổi.
Tuy nhiên một
cuộc đổi mới nếu không phải là những thay đổi thực sự,
đúng với khát vọng của toàn dân thì
sẽ trở nên vô cùng tai hại, vì nó sẽ
vĩnh viễn mang đất nước xuống vực thẳm và đưa toàn
dân tộc đến hoàn cảnh bị lường gạt thách thức.
Ngược lại, nếu người Việt-Nam biết đồng tâm quật khởi cứu nguy
đất nước, hải ngoại và quốc nội là một, thành
tâm giải quyết mọi vấn đề, tự lực xóa bỏ định kiến
và phá bỏ những thành trì trở ngại để dựng
lại niềm tin, thì từ đó người ta có thể dựng lại
một đất nước mới trên những hoang tàn đổ vở cũ, mà
không cần phải cầu cứu khẩn nài một siêu cường
nào giúp đở. Một nền chính trị tự chủ, một
xã hội nghèo nàn nhưng ổn định và một
dân tộc biết đồng tâm vượt gian lao
là những yếu tố mạnh mẽ nhất thu hút sự đầu tư
phát triển của tất cả các nước tư bản giầu mạnh
trên thế giới.
B-NHỮNG GIẢI PHẢP ĐÃ ĐƯỢC
NÓI TỚI.
Những viễn ảnh của đất nước có thể
tùy thuộc vào những biến chuyển trên thế giới,
nhưng những giải pháp cho Việt-Nam là vấn đề của người
Việt-Nam. Do đó có rất nhiều giải pháp
đã được nói tới, ở trong nước cũng như hải ngoại, bao gồm
từ những biện pháp mạnh cho đến những giải pháp ôn
hòa, từ những giải pháp chính trị đến những vận
động kinh tế, ngoại giao.
1- Các giải pháp mạnh:
Ở một nước mà chính quyền không được xây dựng
trên những căn bản dân chủ, những biện pháp mạnh
luôn luôn được đề cập. Một cuộc tổng
khởi nghĩa, tổng nổi dậy của các lực lượng vỏ trang và
nhân dân để xóa bỏ chế độ độc tài là
giải pháp được cổ võ mạnh mẽ bởi các khuynh hướng
chống đối chế độ một cách quyết liệt. Ngược lại, sử dụng
những phương tiện của chế độ và bạo lực cách mạng để bảo
vệ an ninh chính trị, bảo vệ chế độ
một cách triệt để là biện pháp của nhà cầm
quyền đương thời ở Việt-Nam.
2- Các giải pháp ôn hòa:
Các giải pháp ôn hòa nẩy nở từ quan niệm
"Cởi mở" và "Đổi mới". Trong khi nhà nước chỉ sẳn
sàng đổi mới Tư duy kinh tế để có thể lợi dụng sự trợ
giúp và lôi kéo sự đầu tư của khối kinh tế
tư bản, thì dân chúng muốn mượn đà cởi mỏ để
đổi mới chế độ; xóa bỏ cơ cấu chính trị độc đảng để
xây dựng các cơ chế dân chủ. Một
nền chính trị đa dảng, đa nguyên là giải
pháp được đề nghị bởi nhiều nhân sĩ có tiếng tăm
trong và ngoài nước.
3- Các giải pháp kinh tế:
Giải pháp của nhà nước Xã-hội Chủ-nghĩa là
đổi mới kinh tế, bổ xung hệ thống pháp luật kinh tế, chuyển từ
kinh tế tập trung sang kinh tế thị trường để thu hút sự đầu tư
của nước ngoài và để khắc phục các vấn đề
chính trị.
Giải pháp do một số khuynh hướng không chấp nhận chế độ
chủ trương là mượn sức mạnh của kinh tế tư bản, dùng kinh
tế để chuyễn hóa chinh trị nhằm thay đổi chế độ chính trị
trong nước.
4- Các giải pháp chính trị:
Giải pháp được một số nhân sĩ mệnh danh là
thành phần thứ ba cổ võ là thành lập một
chế độ trung lập, không liên kết, được quốc tế công
nhận.
Giải pháp được đa số trí thức trong và
ngoài nước kêu gọi là bãi bỏ chế độ độc
quyền độc đảng, tổ chức bầu cử tự do để tiến đến một nền dân chủ
thực sự.
5- Các giải pháp ngoại giao:
Khuynh hướng ngoại giao chủ trương dùng ngoại giao để chuyển
hóa tình hình chính trị trong nước; vận
động một giải pháp quốc tế, trên căn bản hiệp định
Genève năm 1954 và hiệp định Paris năm 1973 để đưa ra một
cách giải quyết hợp lý và hợp pháp cho vấn
đề Việt-Nam. Trong khi đó, Nhà nước
Xã-hội Chủ-nghĩa cũng tiến hành những giải pháp
ngoại giao nhằm kết thân với các nước Tây phương để
giải tỏa những áp lực kinh tế và chính trị.
C-NHẬN ĐỊNH VỀ NHỮNG BIẾN CHUYỂN
TÂM LÝ VÀ QUAN NIỆM Ở TRONG VÀ NGOÀI
NƯỚC.
Tìm ra một giải pháp vẹn toàn cho đất nước trong
những điều kiện chính trị hiện tại và trong tình
trạng ly tán của lòng người là một điều gần như
không thể có được:
— Những biện pháp bạo động dường như không phải là
giải pháp thực tế trong tình thế hiện tại và
không có gì chắc chắn nó sẽ đưa đến một viễn
ảnh tốt đẹp cho đất nước.
— Những giải pháp ôn hòa khó đạt được những
căn bản vững chắc để có thể đáp ứng những khát
vọng thực sự của người dân.
— Hy vọng vào sự trợ giúp của các siêu cường
để giải tỏa hoặc chuyển hóa những vấn đề kinh tế và
chính trị có thể chỉ là những ảo tưởng nguy hại,
làm cho đất nước càng ngày càng bị thao
túng bởi các thế lực siêu cường.
— Trông cậy vào thế lực quốc tế để tìm một giải
pháp ngoại giao chỉ là sự mong đợi quá nhiều ở
người ngoại cuộc.
— Cuối cùng sự kêu gọi "hòa hợp hòa giải"
dân tộc lại không phải là điều thiết thực vì
giữa nhân dân Việt-Nam vốn không có mối bất
hòa nào cả. Người dân đều nhìn thấy như nhau
thực trạng của một đất nước tan nát rã rời. Người dân đều hiểu rõ như nhau những
nguyên nhân đã đưa dân tộc tới tình
trạng bi thảm. Kêu gọi mọi người "hòa hợp
hòa giải" mà không thẳng thắn pha vỡ những yếu tố
đã đưa dân tộc tới thảm họa suy vong, đã kềm
hãm người dân trong vòng nô lệ, thì
không thể có ý nghĩa gì khác
ngoài sự lừa gạt.
Xét như vậy thì dường như tất
cả các giải pháp đã được nói tới đều
không mấy thỏa đáng. Tuy nhiên nhận
xét về những biến chuyển đồng bộ về tâm lý
và quan niệm đang xẩy ra ở trong và ngoài nước,
người ta tin rằng một giải pháp cho Việt-Nam đang có cơ
hội khai thông.
Trước hết, từ tâm lý bi quan rất phổ quát của thập
niên 70, ngày nay người ta tin tưởng một cách chắc
chắn rằng các nước Cộng-sản trên thế giới đương
nhiên sẽ phải sụp đổ, tất cả chỉ còn là vấn đề thời
gian. Từ tâm lý chủ quan ấy, nhận
thức đã thay đổi ngược hẳn lại với lúc trước.
Những biến chuyển nhận thức và chính trị cũng trở
nên rõ rệt theo những biến
chuyển của tình hình thế giới.
Trước hết, khi nhu cầu đổi mới trở thành chính
sách của nhà nước, chế độ đã nhận thấy sự cần
thiết phải đổi mới mọi cơ cấu kinh tế theo
nền kinh tế thị trường Tây phương, nới rộng tự do đi lại để Việt
kiều hải ngoại về thăm đất nước tìm cơ hội kinh doanh. Cùng lúc đó, về phía chống
đối chế độ, người ta nhận thấy biện pháp võ lực dường như
đã không còn thích hợp nữa; những giải
pháp ngoại giao và kinh tế được nói tới.
Giai đoạn kế tiếp, giải pháp vận động ngoại giao được nhận thấy
không còn thích hợp nữa khi những biến chuyển
trên bàn cờ quốc tế đã đưa tới tình trạng
các siêu cường có thái độ thờ ơ trước những
tranh chấp cục bộ, không còn coi Đông-Dương
là điểm nóng cần phải nổ lực giải quyết.
Khi những giải pháp chính trị đã được nói
tới, thái độ của người Việt hải ngoại cũng không
còn tính cách tiêu cực, người ta sẳn
sàng nghe và đối thoại với chế độ. Quan
niệm "Giải trừ Cộng-sản" từ phía chống đối chế độ được chuyển
vào những ý niệm then chốt là giải trừ bạo lực
và dối trá. Trong khi ấy,
tiếng nói người dân trong nước càng ngày
càng trở nên mạnh mẽ hơn với sự đòi hỏi chế độ phải
từ bỏ cách mạng bạo lực và độc quyền chính trị.
Các thành phần nhân sĩ
có thế lực trong nước lên tiếng yêu cầu sửa đổi hiến
pháp, thành lập các cơ cấu dân chủ. Những quan niệm về dân chủ được bình luận
một cách rộng rãi, những kế hoạch đổi mới chính
trị được đề nghị một cách công khai. Đồng thời ở
hải ngoại cũng đưa ra những quan điểm về xây dựng dân chủ,
về chính sách kinh tế hậu Cộng-sản...
Những
biến chuyển nhận thức nêu trên cho thấy chưa bao giờ quan
điểm của người dân trong nước và hải ngoại gần nhau đến
thế.
Đây là một dấu hiệu đáng
lạc quan khi người dân Việt cả trong và ngoài nước
đang cùng nhìn về một viễn ảnh mới.
*****
Viễn ảnh của một nước Việt-Nam thật sự đổi
mới đúng với khát vọng của toàn dân
là chuyện không thể xảy ra trong một sớm một chiều, nhưng
cũng không phải là chuyện không thể làm được.
Người dân đang khao khát dân chủ, tự do và
một đời sống ấm no trong tình tự dân tộc. Nhìn sang
Trung-quốc, vụ Thiên-An Môn bùng nổ không phải
vì chế độ không muốn cải thiện nền kinh tế để cho
dân chúng được ấm no hơn, mà chỉ khát vọng
chân chính về một nền tự do dân chủ của nhân
dân Trung-quốc bị miệt thị do sự thiếu sáng suốt của kẻ
lãnh đạo. Như vậy, ngoài những mục
tiêu xã hội và kinh tế, những đổi mới về
chính trị là điều tối ư cần thiết. Nhưng trong
viễn ảnh của một cuộc đổi mới, không hẳn chỉ cần có những
hình thức dân chủ, một chế độ đa đảng đa nguyên được
giải thích theo cách này hay cách
khác, là đạt được mục tiêu dân chủ, là
thỏa mãn được những khát vọng của nhân dân
và giải quyết được mọi vấn đề phức tạp của đất nước. Chế độ dân chủ và các cơ cấu
dân chủ như hiến pháp, quốc hội, phổ thông đầu
phiếu, chế độ đa đảng...trên thế giới đã cho ta thấy
nó cũng không phải là cây đủa thần vạn năng
có thể giải quyết tất cả mọi vấn đề của xã hội
loài người. Hiến pháp chỉ
là một bản khế ước giửa các phần tử trong một quốc gia.
Một khế ước sẽ không có
giá trị hơn một tờ giấy lộn bao nhiêu nếu các
thành phần liên hệ đang rắp tâm lừa dối lường gạt
lẫn nhau. Điều cần xác tín
là phải dứt bỏ mọi ảo tưởng. Trời
không giúp ta, đất không giúp ta, chủ nghĩa
Xã-hội, chủ nghĩa Tư-bản không giúp ta, cả
Chuyên-chính Vô-sản lẫn Dân chủ Đa
nguyên cũng không giúp ta, các cường quốc anh
em, từ anh em Xã-hội Chủ-nghĩa đến anh em Dân-chủ Tự-do
cũng không giúp ta nếu chính ta không tự
giúp ta. Chỉ
có sức mạnh của toàn dân, sự sáng suốt của
toàn dân, nổ lực bền bỉ của toàn dân mới đủ
sức đưa đất nước ra khỏi tình trạng phân hóa,
rã rời, nghèo đói suy đồi, lạc hậu...
IV. KHÁT VỌNG NGƯỜI
DÂN VIỆT.
Vấn đề đang được nói đến nhiều nhất ở
Việt-Nam ngày nay là việc đổi mới chính trị để
xây dựng dân chủ, hay để tiến đến một nền dân chủ
thật sự. Đây chính là
bước tiến có tính cách quyết định trong sự nghiệp
làm hồi sinh đất nước của người Việt-Nam.
Dân
chủ là gì?
Người dân bình thường nghỉ rằng nếu đã có sự
định nghĩa dân chủ theo kiểu mẫu
này thì tất sẽ phải có sự giải thích theo
khuôn khổ kia.
Người dân bình thường hiểu rằng chữ "Dân chủ"
có một ý nghĩa rất bình dị là người
dân được quyền làm chủ; "Tinh thần dân chủ"
được thể hiện ở sự xử dụng cái
nhiều, nhưng cũng trân trọng cái ít để
có sự kế thừa tiếp nối; và "Chế độ dân chủ" được
nhận thấy ở sự kiện rất tự nhiên là người dân,
ngoài quyền làm chủ phương tiện sinh sống của
mình, còn có quyền công khai làm chủ
những ý nghỉ của mình, tức là có thể
nói lên hoặc viết ra những ý nghỉ của mình
một cách công khai, ngay cả những ý kiến phê
bình chỉ trích chế độ để góp phần xây dựng
quốc gia chung mà không sợ bị ai khủng bố, bắt bớ, giam
cầm, tra vấn. Hiểu biết về tinh thần dân chủ và chế độ
dân chủ như thế thì quá thô sơ thiếu
sót; nhưng nếu không được như thế thì chế độ
dù có được gọi là dân chủ theo khuôn
thước này hay kiểu mẩu kia, cũng chỉ là dân chủ
hình thức, dân chủ giả hiệu, hoặc là chế độ chủ
dân đã được nói ngược đi cho dễ nghe mà
thôi.
Trong sự nghiệp làm hồi sinh đất nước, câu hỏi sinh tử cần
được nêu lên là: "Người dân muốn gì? Người
dân đang mơ ước gì?".
Cùng một câu hỏi như thế, ở những xã hội
bình thường người ta hỏi dân chúng một cách
vui vẻ lễ độ rằng: "Các bạn muốn những gì phải được
chính phủ thực hiện? Các bạn có những mơ ước
gì không?" và ở trong trại tập trung
các cai tù hỏi nhau một
cách khẩn trương rằng: "Chúng nó muốn
gì? Chúng nó đang âm mưu gì?".
Cho dù đang ở trong nhà tù hay đang sống trong một
xã hội văn minh, những khát vọng tột cùng của
người dân cũng không khác xa nhau mấy. Những
khát vọng đó là những phát biểu tự
nhiên của bản năng sinh tồn và của trí tuệ con
người, liên hệ đến các phạm vi rộng hẹp khác nhau
của đời sống:
– Ở phạm vi cá nhân, khát vọng đó là một cuộc sống no ấm, an vui, có
ý nghĩa;
– Ở phạm vi ngoài cá nhân, niềm khao khát
đó là một
xã hội đáng sống;
– Ở tầm mức dân tộc và nhân loại, niềm mơ ước
đó là một
quốc gia tự chủ và phát triển, sánh vai
cùng các nước anh em trên thế giới.
1- THẾ NÀO LÀ MỘT CUỘC SỐNG ẤM NO, AN VUI VÀ CÓ Ý NGHĨA?
Phương tiện sống, Quyền sống, Lẽ sống
là ba ý niệm căn bản của đời sống cá nhân.
Một cuộc sống ấm no, an vui và
có ý nghĩa chỉ có thể có được nếu Phương
tiện sống được đầy đủ, nếu Quyền sống người dân được bảo đảm
và nếu lẽ sống con người được tôn trọng.
– Phương tiện sống
được đầy đủ:
Nước ta tuy chưa phải là một nước giàu có
và phát triển, nhưng cũng không phải không
có những ưu đải của thiên nhiên: Ba miền đồng bằng
sông Hồng, sông Mã, sông Cửu; rừng núi
trùng trùng điệp điệp từ Bắc xuống Nam cung ứng nguồn
tài nguyên thiên nhiên; một giải duyên
hải dài gần 4 ngàn cây số với vùng thềm lục
địa chưa khai thác. Trước chiến tranh
Đông-Dương, Việt-Nam là nước xuất cảng lúa gạo đứng
hàng thứ ba ở Á-châu. Ngày nay
dân số có gia tăng gấp bội, nhưng với những phương tiện kỹ
thuật tiến bộ hơn, với sức bền bỉ biết hòa mình để khắc
phục con người, chắc chắn dân chúng Việt-Nam không
thể lâm vào tình trạng đói kém. Với truyền thống nông nghiệp, đa số dân
chúng Việt-Nam sống về nghề làm ruộng và tiểu
công nghệ. Người dân tin rằng bao giờ ruộng đất trả
lại cho nông dân thì đồng sẽ xanh, lúa sẽ tốt
và ước vọng về một đời sống ấm no chắc chắn sẽ thành tựu
được ít nhất trên những bước căn bản. Người dân tin
rằng bao giờ người lao động - dù lao động trí thức hay
lao động chân tay - được hưởng những thành quả lao động
của chính mình một cách xứng đáng và
hợp lý, thì mọi người sẽ ra sức làm việc, năng
xuất sẽ tăng, xã hội sẽ ổn định trù phú, mang lại
đời sống ấm no cho tất cả mọi người.
* Người dân được làm chủ phương tiện sinh sống của
mình là điều kiện căn bản để xây dựng đời sống an
lạc cho toàn dân.
– Quyền sống người
dân được bảo đảm:
Một đời sống ấm no là điều kiện cần để con người được an vui,
nhưng niềm an vui thực sự chỉ có thể nẩy nở nếu quyền sống của
người dân được bảo đảm.
- Hãy đập tan những nhà tù trại giam ô nhục
để mở đầu cho sự nghiệp làm hồi sinh đất nước, vì
đó không phải là sản phẩm của trí tuệ
loài người.
- Hãy quét sạch những tư tưởng bạo hành khủng bố
để làm tươi sáng lại một bầu trời đất nước đã
quá ngộp thở vì khói của bom đạn và chất
độc của thuốc khai quang.
* Sự khôi phục và bảo đảm quyền làm người là
điều kiện thiết yếu để gây dựng niềm an
vui của mỗi cá nhân trong tình tự dân tộc.
– Lẽ sống con người
được tôn trọng:
Con người đội trời đạp đất vốn có sẵn cái lẽ sống tự chủ
bất khuất nẩy nở trong tâm thức bao dung bình đẳng. Con
người không sinh ra để làm nô lệ. Con người
không sinh ra trong bản chất căm thù. Con người sinh ra
có quyền hưởng không khí trong lành của tự
do, hòa đồng, bác ái. Con người sống sạch
thác trong, không ai có quyền bắt nó phải
sống kiếp trâu cầy ngựa cưỡi. Con người cầu tiến biết vươn
lên trong ánh sáng của trí tuệ, biết chan
hòa trong tâm thức yêu thương; không ai
có quyền bắt kẻ viết văn phải bẻ cong ngòi bút
viết đen thành trắng, bắt người cô thế phải uốn lưỡi
nói trắng thành đen.
* Sự tôn trọng lẽ sống con người là biểu lộ tinh thần
nhân bản trong nếp sống loài người.
2- THẾ NÀO LÀ MỘT
XÃ HỘI ĐÁNG SỐNG?
Từ những tương quan giữa Người và
Người, Người với thiên nhiên, Người với khoa học kỹ thuật,
khát vọng của người dân về một xã hội đáng
sống là những mơ ước rất tự nhiên.
– Trong tương quan
giữa Người và Người:
* Người dân muốn thấy một xã hội công bằng,
không còn áp bức khủng bố; không còn
dối trá lọc lừa; không còn cảnh người bóc
lột người, người phải làm nô lệ cho người.
* Người dân muốn có một xã hội văn minh, trong
đó con người được quý trọng, con người có đầy đủ
quyền làm người bao gồm cả dân quyền và nhân
quyền.
* Người dân muốn xây dựng một xã hội chan hòa
tình dân tộc, đằm thắm nghĩa đồng bào, một
xã hội mà nếp sống thể hiện những nét đặc
thù cao quý của văn hóa Đông phương: một
xã hội mà người không bóc lột người, người
không hành hạ người, người được làm người.
– Trong tương quan
Người với thiên nhiên:
* Người dân mong muốn một xã hội mà người biết sống
hòa hợp với thiên nhiên: đất nuôi ta, ta
nuôi đất; người biết thích ứng với thiên
nhiên; bảo vệ môi sinh và bồi đắp thiên
nhiên.
* Người biết xử dụng tài nguyên thiên nhiên
một cách hợp lý, không nô lệ cho phương tiện,
không lạm dụng vật chất, đồng thời không bị kẻ khác
xử dụng năng lực vật chất để khống chế.
– Trong tương quan
Người với khoa-học kỹ-thuật:
* Người biết sống thích ứng với thiên lý, tức
là biết mở rộng kiến thức, học hỏi và áp dụng khoa
học kỷ thuật để làm phong phú đời sống.
* Nhưng người không cúi đầu sùng bái nền văn
minh kỹ thuật, không làm nô lệ cho phương tiện kỹ
thuật, cũng không lạm dụng những phát minh kỹ thuật.
* Sau hết, người không xử dụng khoa học kỹ thuật để khống chế
người.
3- THẾ NÀO LÀ MỘT QUỐC GIA TỰ CHỦ
VÀ PHÁT TRIỂN?
Trong tương quan thế giới, ở thế kỷ vượt tiến của nền văn minh kỹ thuật
cao độ, loài người vẫn còn nguyên vẹn những
ám ảnh của những dân tộc bị trị đối diện với những đế quốc
chinh phục, của nhược tiểu đối diện với siêu cường. Trong
ánh sáng của nền văn minh vật chất hiện đại, bản năng
sinh tồn của thời xa xưa vẫn còn xuất hiện trong tiếng reo mừng
chiến thắng trên đống xương khô của đồng bào
và đồng loại.
– Thoát khỏi cảnh tang thương nhục nhã của một thời
nô lệ, xa dần những ám ảnh tàn phá của chiến
tranh, người dân cảm thấy không còn cần thiết những
chiến tích lẫy lừng, mà chỉ mong muốn được dựng cao ngọn
cờ tự chủ trên quê hương đất nước như đại nghĩa dân
tộc, như dấu vết văn hiến ngàn năm của giống nòi. Ý niệm quốc gia tự chủ sẽ
xóa tan những ám ảnh về siêu cường và nhược
tiểu, về dân tộc bị trị và đế quốc xâm lăng.
– Người dân không mong muốn một nền văn minh thuần vật chất
biến con người thành nô lệ cho kỹ thuật và
thành nạn nhân của nhu cầu. Khát vọng về một quốc gia
phát triển là khát vọng về một nền văn minh trọn
vẹn, hòa hợp sự tiến bộ kỹ thuật hiện đại với những giá
trị bất biến của nền văn minh tinh thần đã có từ
ngàn xưa.
*****
Một quốc gia tự chủ và phát triển sẽ có
thể an nhiên sánh vai
cùng tất cả các nước trên thế giới, không
phân biệt lớn nhỏ, mạnh yếu trên căn bản bình đẳng,
tương kính, tương trợ để cùng nhau bước vào kỷ
nguyên văn hiến mới của nhân loại. Nhưng
niềm khát vọng cao nhất của người dân về một quốc gia tự
chủ và một dân tộc tiến bộ chỉ có thể thực hiện
được nếu những ước vọng bình thường hơn được thực hiện.
Nếu như sẽ có một giải pháp
trọn vẹn cho đất nước thì giải pháp ấy tất không
thể không nói đến những khát vọng bình
thường và tha thiết của người dân.
V. GIẢI PHÁP ĐỀ NGHỊ:
PHÁ CHƯỚNG
NGẠI, DỰNG LẠI NIỀM TIN, HỢP TÁC TOÀN DÂN ĐỂ
LÀM HỒI SINH ĐẤT NƯỚC.
Từ thực trạng một đất nước tan nát, một dân tộc chia
lìa hơn nửa thế kỷ, Việt-Nam ngày nay là một trong
những nước nghèo đói và chậm tiến nhất trên
thế giới. Không những xã hội Việt-Nam đầy rẫy những
áp bức, bất công, tranh giành, đồi trụy, dân
tộc Việt-Nam còn bị phân hóa rã rời
thành từng mảnh vụn khiến lòng người càng
ngày càng ly tán.
Trong giai đoạn lịch sử cận đại, mọi sinh
hoạt chính trị đều không có sự bao dung hợp
tác, khiến cho dân tộc mất đi những ngẫu lực tiến hóa
cần thiết. Định kiến và ý
thức hệ che kín tầm mắt. Nghi kỵ,
hận thù bóp nghẹt tiếng nói của lương tri. Không những thế, những vết hằn sâu của bạo
lực khủng bố đã làm cho người dân trở nên sợ
sệt hèn yếu, không dám đứng dậy đòi hỏi
quyền làm người trong một thế giới văn minh và quyền
làm dân trong một quốc gia tự chủ.
Trong nếp sống văn hóa, những
giá trị ngàn đời của dân tộc không còn
được quý trọng, khiến cho tinh thần vọng ngoại trở thành
căn bệnh trầm kha.
Tình
trạng phá sản toàn bộ đó đòi hỏi phải
có một giải pháp toàn bộ vì mọi giải
pháp nửa vời trước sau đều sẽ chỉ đưa đến bế tắc.
Thế nào là một giải pháp
toàn bộ?
Một giải pháp được gọi là toàn bộ cần đưa đến việc
giải quyết từ căn bản toàn bộ những vấn đề then chốt:
- Phá huỷ được toàn bộ những chướng ngại cho việc hợp
tác;
- Vận dụng được toàn bộ sự hợp tác của toàn
dân;
- Đáp ứng được toàn bộ những khát vọng căn bản của
người dân.
Dù muốn hay không, một giải
pháp toàn bộ cho đất nước cũng cần phải quy được
nhân tâm về một mối, dù có phải vì thế
mà phá hủy đi những chướng ngại đắt giá nhất.
Dù muốn hay không, một kế hoạch toàn bộ làm
hồi sinh đất nước cũng cần phải kết hợp được toàn dân,
vì chỉ có sức mạnh của toàn dân, sự
sáng suốt của toàn dân, nỗ lực bền bỉ của
toàn dân mới đủ sức đưa đất nước ra khỏi tình trạng
phân hóa, rã rời, nghèo đói, suy đồi
và tủi nhục.
Với những lý do nêu trên, giải pháp sau
đây được đề nghị với ba kế hoạch liên tục:
1- Phá chướng
ngại để dựng lại niềm tin;
2- Đặt một căn bản cho cuộc hợp tác toàn
dân;
3- Hợp tác toàn dân để xây dựng
lại đất nước.
1- PHÁ CHƯỚNG NGẠI ĐỂ DỰNG LẠI NIỀM TIN:
Để có được sự đồng tâm hiệp lực nơi toàn dân,
điều cần phải làm được là gây dựng lại niềm tin
đã mất trong lòng người.
Cần phải khẳng định rằng niềm tin không thể có được nếu
con người còn đối xử với nhau bằng thủ đoạn lọc lừa, bằng hận
thù khủng bố. Niềm tin chỉ thực sự trở lại
khi những chướng ngại về tư tưởng, về chính trị... đã
được phá hủy. Niềm tin chỉ thực sự hồi sinh khi mọi người
cùng thức tỉnh trong tinh thần bình đẳng, tự chủ, bất
khuất.
Vậy điều cần thiết là phải công
khai phá hủy những chướng ngại để dựng lại niềm tin nơi
toàn dân. Nhưng đâu
là những chướng ngại cần phá hủy?
Những chướng ngại có thể rất nhiều,
thí dụ như danh xưng, hình thức, nhân sự; tuy
nhiên những điều đó chưa phải là những trở ngại
quan trọng. Kế hoạch “Phá chướng ngại”
chỉ đề nghị phá hủy toàn bộ những chướng ngại căn bản:
- Hủy bỏ mọi chủ
nghĩa dựa trên bạo lực và dối trá;
- Hủy bỏ mọi chủ nghĩa khai thác hận thù
giữa các thành phần trong xã hội;
- Giải tán tất cả các đảng phái chủ
trương bạo lực và giành độc quyền lãnh đạo quốc
gia cho một cá nhân, một đoàn thể, một đảng
phái, một giai cấp hoặc một thành phần nào trong
xã hội;
- Loại bỏ mọi chủ thuyết văn hóa phi nhân
hủy diệt tình người để đặt lại những căn bản cần thiết cho việc
xây dựng lại xã hội và con người.
- Phá bỏ các trại tập trung, thả tất cả
tù chính trị, các nhà văn, các tu sĩ
đang bị giam cầm vì lý do bất đồng tư tưởng, phản
kháng văn hóa...
2- ĐẶT MỘT CĂN BẢN CHO CUỘC HỢP TÁC TOÀN
DÂN:
Trước khi có thể tiến hành công cuộc dựng lại đất
nước, dựng lại một xã hội công bằng, nhân ái,
tự do... bằng sức mạnh của toàn dân, điều tối cần
là phải thiết lập được một căn bản vững chắc cho cuộc hợp
tác toàn dân. Căn bản ấy không thể được lập
bằng sự chia chác những đặc lợi, trái lại nó cần
phải được lập bằng sự xóa bỏ những dấu vết đã có
sẵn, để từ đấy xóa bỏ hận thù, chia rẽ, nghi kỵ,
làm cho mọi người có thể xích lại gần nhau hơn
trong tình dân tộc, nghĩa đồng bào.
Trong những năm vừa qua, hai khối Tự-do và Cộng-sản trên
thế giới đã xích lại gần nhau, xóa dần những mối
hận thù nghi kỵ để chấm dứt cuộc chiến tranh lạnh triền
miên và thiết lập trật tự mới cho nhân loại, ấy
là nhờ vào một giải pháp được mệnh danh là “Giải pháp số không”:
không chạy đua võ trang, không nhìn nhau bằng
cặp mắt thù địch.
Dân tộc Việt-Nam hiện nay đang cần một giải pháp tương tự
như vậy: một “Giải
pháp không người thắng kẻ thua”.
Đây là giải pháp đơn giản nhất để toàn
dân có thể cùng nhau hợp tác từ số
không, gồm 4 điểm:
1- Không bạo
lực.
2- Không dối trá.
3- Không chủ nghĩa.
4- Không hận thù.
Bốn điểm bao gồm trong một điểm: Không kẻ thắng người thua.
Lý do nào khiến người dân dễ chấp nhận cái
Không hơn là cái Có?
Vì có bạo lực, con người ta đã có tất cả sự
độc ác, đớn hèn; vì có Dối trá, con
người đã có tất cả những u mê tăm tối; vì
có Chủ-nghĩa, con người đã có đủ xiềng xích
để tự trói mình vào những khuôn mẫu tư tưởng
tù túng chật hẹp; vì có Hận thù, con
người đã có trọn vẹn những lý do để từ chối lẽ
sáng của trí tuệ và tiếng nói của lương
tâm.
“Không
bạo lực, Không dối trá, Không chủ nghĩa, Không
hận thù” phải là nội dung của một bản
Tuyên ngôn Hợp tác Dân-tộc trong thế kỷ của
Bạo lực, Dối trá, Chủ nghĩa, Hận thù.
Từ bốn điều “Không” ấy đất
nước sẽ bừng lên niềm hy vọng.
Giải pháp “Không kẻ thắng người thua”
như trên không nhằm mang lại chiến thắng cho bất cứ một ai.
Chỉ có
Tình người thắng Bạo lực; chỉ có lòng thành
thực thắng sự dối trá; chỉ có Lương tâm con người
thắng sự độc ác; chỉ có Trí sáng suốt thắng
những định kiến u mê. Đây chính
là tinh thần “Tã
trắng thắng cờ hồng” của ngục sĩ
Nguyễn-chí-Thiện và cũng chính là giải
pháp đã được Thủ-tướng Kohl nước Đức áp dụng để
hàn gắn dân tộc Đức sau gần nữa thế kỷ hận thù chia
cắt hai bên lằn ranh ý thức hệ.
3- HỢP TÁC TOÀN DÂN ĐỂ XÂY
DỰNG LẠI ĐẤT NƯỚC:
Sau khi những chướng ngại làm mất niềm tin nơi toàn
dân đã được công khai phá hủy, sau khi Giải pháp không người
thắng kẻ thua đã được đặt làm căn bản cho
cuộc hợp tác toàn dân, công cuộc xây
dựng lại đất nước cần phải được trao lại cho toàn dân
trên những nguyên tắc sau đây:
a) Lập diễn đàn tự do:
Chính quyền đương thời cam kết bảo đảm các quyền tự do
ngôn luận, tự do tư tưởng, tự do báo chí, tự do đi
lại, tự do cư trú, tự do hội họp... của người dân.
- Công khai và thẳng thắn đón nhận tất cả những
ý kiến độc lập cũng như đối lập ở trong nước và hải ngoại
về việc xây dựng lại đất nước qua các Diễn đàn Tự
do.
b) Đặt lại những nguyên tắc chính trị căn bản:
- Nhìn nhận những quyền căn bản của con người theo tinh thần Bản
Tuyên ngôn Quốc tế Nhân-Quyền.
- Công bố việc trao trả lại chủ quyền quốc-gia cho toàn
dân.
- Đón nhận và công bố
những ý kiến của toàn dân trong việc xây dựng
thể chế tương lai cho đất nước.
- Trưng cầu dân ý về thể chế chính trị và
đường lối kinh tế quốc gia.
c) Đặt lại những căn bản cần thiết cho việc dựng lại
xã hội và con người:
- Đồng thời với sự hồi sinh về chính trị, kinh tế, một xã
hội nhân bản phải được hồi sinh trên căn bản
Tình-người và nghĩa-làm-người.
- Việc dựng lại xã hội và con người cần phải được thực
hiện bằng một chính sách văn hóa giáo dục
tự chủ và bao dung được thăm dò qua ý kiến người
dân và được toàn dân đồng chấp thuận.
*****
Hoàn cảnh lịch sử đầy thuận tiện
cho một cuộc hợp tác dân tộc để xây dựng lại đất
nước đang đặt những nhà lãnh đạo, những nhân sĩ
trong và ngoài nước trước những trách nhiệm
không thể chối từ. Sau 30 năm đối diện trên chiến
trường, thời gian của hơn 15 năm suy nghiệm về những nguyên
nhân đưa dân tộc tới tình trạng lạc hậu và
phân hóa cùng cực ngày nay đã đủ để
rút tỉa được một đôi điều hữu ích. Đây chính là lúc để
các nhà lãnh đạo chứng tỏ lòng yêu
nước và tình thương đồng bào của mình.
Đây cũng chính là
lúc để toàn dân chứng tỏ sự quyết tâm
xây dựng lại một quê hương tự chủ, một dân tộc văn
hiến, bất khuất.
Trong khi
toàn thế giới đang dũng mãnh bước vào kỷ
nguyên văn minh mới, lịch sử sẽ không tha thứ cho bất cứ
một ai còn cố ý dìm chết tương lai dân tộc
trong những vũng lầy của định kiến và ý thức hệ.
Đất nước đang cần sự hợp tác của
toàn dân và không thể không có
sự hợp tác của toàn dân.
Một giải pháp
cho cuộc hợp tác toàn dân đòi hỏi những
người có trách nhiệm phải tự phá tan những chướng
ngại đã gây nên sự mất niềm tin nơi người dân.
Giải pháp ấy cũng đòi hỏi mọi người phải can đảm đặt một
khởi điểm cho sự hợp tác. Khởi
điểm được đề nghị là một Giải pháp không người
thắng kẻ thua.
Khi niềm tin đã trở lại với lòng người và khi
người dân đã có đầy đủ lý do để cùng
bắt tay vào việc xây dựng lại đất nước, thì mọi
khó khăn trong các lãnh vực chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội... sẽ chẳng còn là
những nan đề không thể giải quyết.
KẾT TỪ
Trong cơn bể dâu của dân tộc đã kéo
dài non nửa thế kỷ làm đảo lộn mọi nếp sống an vui, người
dân luôn luôn nghĩ đến một điều rất bình
thường trong đạo sống tự nhiên của muôn loài:
Cây có gốc mới nẩy cành xanh ngọn,
Nước có nguồn mới biển cả sông sâu.
Người dân Việt vẫn thường tin tưởng rất sâu xa ở những
giá trị ngàn đời đã nuôi lớn dân tộc
mình, ở nền
Văn-hiến, ở ý thức tự chủ đã từng bao
nhiêu lần làm chùn vó ngựa chinh phục của
Bắc phương. Vậy mà cho đến nay đôi khi cũng có
những nghi vấn được nêu lên như: "Làm sao tìm
được một chủ thuyết làm nền tảng cho việc xây dựng đất
nước?".
Người dân nghĩ rằng có lẽ chưa có một nền triết
lý chính trị nào đã thể hiện được
tính nhân bản tự nhiên như nền Văn-hiến của tiền
nhân ta; vì Văn-hiến vốn thật là một nền
chính trị nhân bản, là nền tảng của một nếp sống
văn minh trọn vẹn ở đấy sự tỏa sáng của trí tuệ con người
đã hòa cùng sự tiến bộ văn hóa kỷ thuật qua
từng thời đại. Văn hiến thể hiện ở những tinh hoa
của các nền dân chủ Đông Tây. Văn hiến nẩy nở ở giấc mơ nhân bản của thế giới.
Văn hiến tiềm tàng trong từng bước tiến nhỏ bé của con
người.
Vì vững tin
vào bước tiến con người, người dân Việt
đã có thể chia xẻ quan niệm tiến hóa của
nhà vật lý học Einstein: "Không có một tiến
trình cách mạng nào đối với loài người cả".
Cho nên nếu như sẽ có một mùa đổi mới trên
quê hương yêu dấu, người dân Việt hằng mong ước rằng
nó sẽ không phải là một mùa lá đổ,
trút sạch những tinh hoa của dân tộc xuống những vũng lầy
ý thức hệ; nó cũng sẽ chẳng phải là một mùa
xuân xứ lạ đầy rẫy những sắc cũ hương thừa. Nó phải
là những thăng hoa của Tình người và Nghĩa
làm người, của đạo sống muôn loài được thể hiện
trong nếp sống dân chủ, trong tinh thần tự chủ muôn đời của
dòng giống Việt bất khuất.
Trong ánh sáng vinh quang, an lạc của Tình người
và Nghĩa làm người, một nước Việt-Nam Văn-hiến đang
chờ đợi những khối óc sáng tạo, những bàn tay xây dựng của toàn dân.
Bản Bạch thư xin được chấm dứt nơi đây, nhưng những điều
tâm huyết chứa đựng xin được toàn thể đồng bào
Việt-Nam trong và ngoài nước chia xẻ, hưởng ứng, để
cùng nhau quyết tâm san bằng những trở ngại, xây
dựng lại một nước Việt-Nam ngàn đời an lạc tự chủ.
Thành kính - Trân trọng,
Vũ T. T
Nguồn: http://www.taphopdongtam.org
Trở
Lại Trang Mặt
|