Việt Nam Văn Hiến
Năm
Thứ 4888
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.net
Bình Ngô Đại Cáo
Nguyễn Trãi
Đức
Nguyễn
Trãi
TRÍCH LỤC
Bản
dịch của BÙI KỶ (* )
Tượng
mảng:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên
dân,
Quân
điếu phạt chỉ vì khử bạo,
Như nước Việt
ta từ trước,
Vốn xưng văn
hiến đã lâu,
Sơn hà
cương vực đã chia,
Phong tục bắc
nam cũng khác.
Từ Đinh,
Lê, Lý, Trần, gây nền độc lập,
Cùng
Hán, Ðường, Tống, Nguyên, hùng cứ
một phương,
Dẫu cường
nhược có lúc khác nhau,
Song
hào kiệt đời nào cũng có.
Vậy nên
Lưu Cung sợ uy mất vía,
Triệu Tiết
nghe tiếng giật mình,
Cửa Hàm
Tử giết tươi Toa Đô,
Sông
Bạch-Đằng bắt sống Ô-Mã,
Xét xem
cổ tích,
Ðã
có minh trưng,
Vừa rồi
Vì họ Hồ chính sự phiền
hà,
Ðể trong
nước nhân dân óan hận,
Quân
cường Minh đã thừa cơ tứ ngược,
Bọn gian
tà còn bán nước cầu vinh,
Nướng
dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con
đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Chước đối đủ
muôn nghìn khoé,
Ác chứa
ngót hai mươi năm.
Bại nhân
nghĩa nát cả càn khôn,
Nặng
khóa liễm vét không sơn trạch,
Nào
lên rừng đào mỏ, nào xuống biển
mò châu,
Nào hố
bẫy hươu đen, nào lưới dò chim trả,
Tàn hại
cả côn trùng thảo mộc,
Nheo
nhóc thay! quan quả diên liên,
Kẻ há
miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy! no nê chưa
chán,
Nay xây
nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục
dịch cho vừa,
Nặng nề về
những nỗi phu phen,
Bắt bớ mất cả
nghề canh cửi.
Ðộc
ác thay! trúc rừng không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay!
nước bể khôn rửa sạch mùi,
Lẽ nào
trời đất tha cho,
Ai bảo thần
nhân nhịn được.
Ta đây:
Núi Lam-Sơn dấy nghĩa,
Chốn hoang
dã nương mình,
Ngắm non
sông căm nỗi thế thù,
Thề sống chết
cùng quân nghịch tặc,
Ðau
lòng nhức óc, chốc đà mười mấy nắng mưa,
Nếm mật nằm
gai, há phải một hai sớm tối,
Quên ăn
vì giận, sách lược thao suy xét
đã tinh,
Ngẫm trước đến
nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.
Những trằn
trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn
một nỗi đồ hồi,
Vừa khi cờ
nghĩa dấy lên,
Chính
lúc quân thù đang thịnh,
Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân
tài như lá mùa thu,
Việc bôn
tẩu thiếu kẻ đỡ đần,
Nơi duy
ác hiếm người bàn bạc,
Ðôi
phen vùng vẫy, vẫn đăm đăm con mắt dục đông,
Mấy thuở đợi
chờ, luống đằng đẵng cỗ xe hư tả.
Thế mà
trông người, người càng vắng ngắt, vẫn mịt
mà như kẻ
vọng dương,
Thế mà
tự ta, ta phải lo toan, thêm vội vã như khi
chửng nịch.
Phần
thì giận hung đồ ngang dọc,
Phần
thì lo quốc bộ khó khăn,
Khi Linh sơn
lương hết mấy tuần,
Khi Khôi
huyện quân không một đội,
Có lẽ
trời muốn trao ta gánh nặng, bắt trải qua
bách chiết thiên ma,
Cho nên
ta cố gắng gan bền,chấp hết cả nhất sinh thập tử.
Thể giặc mạnh,
ta yếu mà địch nổi,
Quân
giặc nhiều, ta ít mà được luôn.
Dọn hay:
Ðem đại nghĩa để thắng hung
tàn,
Lấy chí
nhân mà thay cường bạo.
Trận Bồ Đằng
sấm vang sét dậy,
Miền
Trà-Lân trúc phá tro bay,
Sĩ khí
đã hăng,
Quân
thanh càng mạnh,
Trần-Trí,
Sơn-Thọ,
mất
vía
chạy tan.
Phương-Chính,
Quý-An
tìm
đường
trốn tránh.
Ðánh
Tây-kinh
phá
tan
thế giặc.
Lấy
Ðông-đô thu lại cõi xưa,
Dưới Ninh-kiều
máu chảy thành sông,
Bến Tụy-Động
xác đầy ngoài nội,
Trần-Hiệp
đã thiệt mạng,
Lý-
Lương lại phơi thây.
Vương-Thông
hết
cấp
lo
lường,
Mã-Anh
khôn đường cứu đỡ.
Nó
đã trí cùng lực kiệt, bó tay
không biết tính sao,
Ta đây
mưu phạt tâm công, chẳng đánh mà
người chịu khuất.
Tưởng
nó đã thay lòng đổi dạ, biết lẽ tới lui,
Ngờ đâu
còn kiếm kế tìm phương, gây mầm tội
nghiệt,
Cậy
mình là phải, chỉ quen đổ vạ cho người,
Tham
công một thời, chẳng bỏ bày trò dở duốc.
Ðến nỗi
đứa trẻ con như Tuyên Ðức, nhàm võ
không thôi
Lại sai đồ
nhút nhát như Thạch, Thăng đem dầu chữa
cháy,
Năm
Ðinh-Mùi tháng chín,
Liễu-Thăng từ
Khâu-Ôn tiến sang
Mộc-Thạch từ
Vân-Nam kéo đến.
Ta đã
điều binh thủ hiểm, để ngăn lối Bắc quân,
Ta lại sai
tướng chẹn ngang, để tuyệt đường lương đạo.
Mười
tám, Liễu- Thăng thua ở Chi-Lăng
Hai mươi,
Liễu-Thăng chết ở Mã-Yên,
Hai mươi lăm,
Lương-Minh trận vong,
Hai mươi
tám, Lý-Khánh tự vận,
Lưỡi đao ta
đang sắc,
Ngọn
giáo gặc phải lùi,
Lại thêm
quân bốn mặt vây thành
Hẹn đến rằm
tháng mười diệt tặc.
Sĩ tốt ra oai
tì hổ
Thần thứ đủ
mặt trảo nha.
Gươm
mài đá, đá núi cũng mòn,
Voi uống nước,
nước sông phải cạn.
Ðánh
một
trận
sạch
không kình ngạc,
Ðánh
hai
trận
tan
tác chim muông
Cơn gió
to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng
sụt toang đê cũ.
Thôi-Tụ
phải quỳ mà xin lỗi
Hoàng-Phúc
tự
trói
để
hàng.
Lạng-Giang,
Lạng-Sơn, thây chất đầy đồng,
Xương-giang,
Bình-Than, máu trôi đỏ nước.
Ghê gớm
thay! sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay!
sáng nhật nguyệt phải mờ.
Binh
Vân-Nam nghẽn ở Lê-Hoa, sợ mà mất mật.
Quân
Mộc-Thạch tan chưng Cần- Trạm, chạy để thoát
thân,
Suối
máu Lãnh-Câu, nước sông rền rĩ,
Thành
xương Ðan-Xá, cỏ nội đầm đìa.
Hai mặt cứu
binh, cắm đầu trốn chạy,
Các
thành cùng khấu, cởi giáp xuống đầu.
Bắt tướng giặc
mang về, nó đã vẫy đuôi phục tội,
Thể
lòng trời bất sát, ta cũng mở đường hiếu sinh.
Mã-Kỳ,
Phương-Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền ra đến
bể chưa
thôi trống ngực,
Vương-
Thông, Mã-Anh, phát cho vài
nghìn cỗ ngựa, về đến Tàu
còn đổ
mồ hôi.
Nó
đã sợ chết cầu hòa, mở lòng thú
phục,
Ta muốn
toàn quân làm cốt, cả nước nghỉ ngơi.
Thế mới
là mưu kế thật khôn,
Vả lại suốt
xưa nay chưa có.
Giang san từ
đây mở mặt,
Xã tắc
từ đây vững bền.
Nhật nguyệt
hối mà lại minh,
Kiền,
Khôn, Bỉ mà lại Thái.
Nền vạn thế
xây nên chăn chắn.
Thẹn
nghìn thu rủi sạch làu làu.
Thế là
nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng
giúp đỡ cho nước ta vậy.
Than ôi!
Vẫy vùng một mảnh nhung y,
nên công đại định.
Phẳng lặng bốn
bề thái vũ, mở hội vĩnh thanh,
Bá
cáo xa gần,
Ngỏ
cùng nghe biết./.
(*) Bình Ngô
Ðại Cáo nguyên bản
Hán văn và bản dịch của cụ Bùi
Kỷ, được trích lại
trong Lam Sơn Thực Lục (trang 50, 51
và 64, 70) .
Sưu Tầm
Lấy Nhân Tâm làm phương
tiện, dụng Dân Tâm làm chiến lược quốc phòng
và quốc sách : An Dân - Lạc Quốc
Trang mạng Việt Nam Văn Hiến
Trang Bình Ngô Đại Cáo
www.vietnamvanhien.net
email: thuky@vietnamvanhien.net
Trang
mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi lưu trữ và phổ biến
những biên khảo, sáng tác và ý kiến
của quý vị và các bạn nhằm mục
đích bảo tồn di sản văn hóa và phục hồi nền An Lạc
& Tự Chủ của Việt tộc.
|