Việt Nam Văn Hiến
Năm
Thứ 4888
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.net
CUỘC CHIẾN ĐẤU
CHO MỘT NƯỚC
VIỆT-NAM VĂN-HIẾN
Kính
dâng:
Liệt vị Quốc Tổ,
Minh quân, Văn
Thánh,
Anh hùng,
Nghĩa sĩ.
Kính Tặng:
Đồng bào đang
chiến đấu
cho Tự do và
Tự chủ.
Nội Dung
Phần
I:
Lời
Mở Đầu
Chương I - Một
Nước Việt Nam
Văn Hiến Cho Dân Tộc Việt Nam Văn Hiến
Chương II - Gánh Nặng Đường Xa...
Phần
II:Tâm
Vấn
Chương I -
Xác
Tín
Chương II - Quan Niệm Hành Động
Chương III - PHỤC VĂN: Đạo sống Vịêt
Chương IV - PHỤC HIẾN: Dân Tộc Văn Hiến
Chương V - PHỤC CHÍNH: Văn trị hòa đối, kinh tế an vi
Chương VI - PHỤC NHÂN: Xã hội Nhân chủ
PHỤ
LỤC:
BÌNH
NGÔ ĐẠI
CÁO- Nguyên bản Hán văn của danh thần Nguyễn
Trãi triều Lê. Bản dịch của cụ Bùi Kỷ.
|
Phần I
LỜI MỞ ĐẦU
Năm 1428, sau cuộc chiến thắng oanh liệt của dân tộc ta
dưới
ngọn cờ đại nghĩa của Ðức Lê Lợi đánh đuổi quân
xâm lược nhà Minh ra khỏi bờ cõi, người anh
hùng áo vải đất Lam-sơn được tôn lên
làm vua tức vua Lê Thái-Tổ. Ngài bèn
cử ông Nguyễn Trải (138O- 1442) làm bài "Bình Ngô Ðại cáo"
để
nêu
cao
chính
nghĩa Tự chủ của dân-tộc.
Bài Ðại cáo ấy là một áng văn tuyệt
tác, được coi là bản "thiên cổ hùng văn" của
nước ta, là một trong những bản Tuyên-ngôn Tự chủ,
và cũng là một tài liệu lịch sử vô
cùng quý giá. Ðoạn mở đầu bài Đại
cáo viết:
Như ngã Đại Việt
chi
quốc.
Thực duy Văn Hiến chi
bang.
Sơn xuyên chi phong vực ký thù.
Nam Bắc chi phong tục dịch dị...
Ðược dịch ra quốc văn như sau :
Như nước Việt ta từ trước
Vốn xưng Văn Hiến
đã lâu
Sơn hà cương vực đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác….
(Bản dịch của Bùi Kỷ)
Chữ "Văn hiến"
vốn
có từ ngàn xưa trong ngôn ngữ của các
Dân tộc Á đông, nhưng ngoài dân tộc
Việt nam chúng ta, dường như chưa có một quốc gia
nào đê xướng nó như một thứ Hiến
chương
lập
quốc. Thật vậy, người Việt Nam vốn tự tin ở
nền văn-hiến lâu đời của dân-tộc mình. Niềm tự tin
ấy đã biến "Bốn ngàn năm văn hiến"
thành
tiếng
reo
vui
rạng rỡ nhất, trong sáng nhất
và vinh quang nhất của cả một dân tộc.
Chữ "Văn hiến" có nghĩa
là gì ?
Theo nghĩa cổ, một nước văn-hiến (Văn-hiến chi bang) là
một
quốc gia có pháp chế, kỷ cương, có thuần phong mỹ
tục (văn) và có những người hiền đức (hiến). Chữ Văn-hiến
như vậy bao gồm cả người và nếp sống con người. Nếp sống Văn
hiến vốn là nếp sống Văn minh; nhưng xét kỹ mới thấy nếp
văn minh ấy đã được thể hiện cả ở ngoài con người
(pháp chế, kỷ cương, thuần phong mỹ tục... ) lẫn ở trong con
người (người hiền đức) . Nói khác đi, văn hiến bao gồm cả
nền văn minh ứng dụng (ngoài con người) lẫn nền văn minh đạo học
(trong con người) . Thuật ứng dụng thuộc về kỹ thuật, thì
ngày một tiến bộ và phát triển nhưng "đạo" thì từ cổ chí kim vốn
không khác; cho nên nền văn minh văn hiến
không phải chỉ được biểu trưng bằng sự tiến bộ của kỷ thuật,
nó còn có những giá trị không bao giờ
biến đổi. Hiểu theo nghĩa ấy thì "văn-hiến"
chính
là
một
nền
văn minh tổng hợp và trọn vẹn của
loài người xưa cũng như nay, nghĩa là trong mọi thời đại.
Trong thời buổi suy vi điên đảo, người ta thường chỉ nhận thức
nếp sống văn minh là một nếp sống tiến bộ, vô tình
đã lãng quên những giá trị bất biến của cuộc
sống.
Theo một vài tác giả. chữ "Hiến"
còn
có
nghĩa
là
hiến dâng, nghĩa rất
bình thường và có lẽ chẳng có gì
sâu sắc lắm. Nếu ta tạm hiểu chữ "Hiến"
theo
nghĩa
ấy
thì
nền "Văn-hiến"
của một dân tộc chắc hẳn phải có ý nghĩa gì
khác hơn là một nếp sống, ở đấy con người chỉ biết
mòn đời hiến dâng cho văn-chương chữ nghĩa. Vậy phải chăng
" hiến " ấy là hiến dâng cho văn-minh loài người?
Có như thế thì "Bốn ngàn năm
văn-hiến" mới là niềm hãnh diện lớn lao nhất,
là tiếng reo vui vinh quang nhất của dân tộc Việt Nam. Cả
một dân-tộc biết hiến dâng bao nhiêu thế kỷ nỗ lực
cho lẽ sống văn minh; cho nên nếp sống văn hiến ấy đã trở
thành gốc nền chính trị minh triết của dân tộc Việt
chúng ta.
Dù hiểu theo nghĩa nào thì "văn hiến" cũng là nền tảng sinh tồn
đã có từ mấy ngàn năm trong nếp sống Việt-nam .
Chúng ta thường gọi đó là "Nền
văn
hiến" tức là nền văn trị làm sáng tỏ
đạo Nhân, để phân biệt với các nền võ trị lấy
sức mạnh làm lẽ sinh tồn, lấy gông cùm chuồng cũi
làm phương tiện thống trị; hoặc cũng để phân biệt với
các nền pháp trị cực đoan lấy những phán quyết
lạnh lùng của lẽ công bằng về quyền và lợi
rèn lưỡi gươm công lý.
Về phương diện chính trị, thế giới ngày nay lấy
tinh
thần dân chủ pháp trị làm nền tảng xây dựng
quốc gia. Trong khi đó nhiều chế độ lạc hậu vẫn bảo thủ
và phát triển nền độc tài võ trị và
lại có những quốc gia trong tình trạng chậm tiến vẫn phải
chấp nhận một sự hoà trộn giữa tinh thần pháp trị
và những phương tiện võ trị . Ðiêu đáng
tiếc là đạo văn trị sáng ngời nhân tính
thì dường như không còn ai biết đến hoặc nói
đến.
Trong cuộc sống văn hóa, nhân loại đề cao nếp
sống văn
minh , nhưng như trên đã đề cập, nếp sống văn minh ấy chưa
được nhận thức một cách chính xác, chữ "Văn hiến" không có trong
ngôn ngữ phổ thông, nên có thể nói
thế-giới chưa có "mô thức"
rõ rệt cho một nền văn minh trọn vẹn. Văn hoá được định
nghĩa tòan bộ những gia sản thừa kế của một dân tộc
và được cả dân tộc cùng tự ý thừa nhận
nên đã trở thành nếp sống. Còn văn minh
thì được coi như sự phát triển văn hoá của những
dân tộc tiến bộ nhất. Nếu hỏi rằng thế nào là một
dân tộc tiến bộ ? chắc hẳn mỗi người sẽ có thể hiểu theo
một cách.
Chữ "Nền văn minh" tiếng Anh viết
là "civilization" (chữ civil ở
đây gốc ở chữ civis có nghĩa là thị dân, tức
là dân chúng sống nơi đô thị có những
phương tiện sinh sống tiến bộ hơn dân chúng sống ở
thôn quê). Chữ "văn minh" của
Tây phương chỉ rõ nếp sống thị thành. Ai cũng biết
phương tiện sống nơi đô thị chắc chắn tiến bộ hơn ở thôn
quê, nhưng cách sống thì chưa hẳn đã
hoàn toàn tốt đẹp.
Văn minh hay "Lẽ sáng"
là
vốn liếng sinh tồn của loài người. Ai cũng chuộng cái văn
minh, thế nhưng trong cái vốn văn minh ấy cũng có thứ văn
minh được gọi là "nhân bản"
và cũng có thứ văn minh nên gọi là "vật bản". Loài người nếu biết hiến
dâng những công lao và thành qủa của cuộc
sinh tồn cho nền văn minh nhân bản thì mới đáng gọi
là "văn hiến"; còn nếu chỉ
biết hiến dâng đời mình cho nếp sống tiện nghi vật chất
thì chỉ đáng gọi là "vật hiến"
mà
thôi.
Vậy
văn
hiến chính là một nền văn
minh tổng hợp và trọn vẹn: văn minh kỹ thuật lưu hành
ngoài con người và văn minh đạo học thể hiện trong con
người.
Vì những lợi ích thiết thực, chữ "văn-hiến"
và
danh
xưng "Nước Việt-Nam Văn-hiến"
có nên và có thể dịch ra Anh ngữ hoặc những
ngôn ngữ khác được không? Chúng tôi
thành thật xin được các bậc cao minh chỉ giáo.
Thế kỷ 20 là thế kỷ vượt tiến của nền văn minh kỹ
thuật,
là thế kỷ ưu thắng của nền dân chủ pháp trị theo
quan niệm và lề lối Tây phương; chúng ta học hỏi
và được thừa hưởng những tiến bộ vượt bực của thế giới; nhưng
trong cuộc hành trình ấy người Việt Nam vẫn cần phải giữ
lấy cái gốc nhân bản cổ truyền; nền văn minh Việt Nam cũng
như nền chính trị Việt cần phải được soi sáng dưới tinh
thần văn hiến Việt, ta mới không biến thành một thứ chư
hầu lệ thuộc văn hoá duy lý Tây phương, mà
dựng cờ Tự chủ.
Nhân nói tới hai chữ "văn
hiến"
chúng
ta
hãy lắng tâm để hoà mình với
những âm hưởng xa xưa của nền văn hiến vẻ vang ấy… Huyền sử thuật
rằng khoảng trên dưới năm ngàn năm xưa, vua Ðế Minh
là cháu ba đời vua Thần Nông, nhân đi tuần
thú phương Nam, đến núi Ngũ Lĩnh gặp bà Vụ
tiên, hai người kết duyên sinh ra Lộc Tục. Lộc Tục sau
làm vua ở phương Nam, tức là về phía nam
sông Dương Tử, lấy sông Kinh và sông Dương
làm ranh giới với phương Bắc; nhân đó xưng hiệu
là Kinh Dương Vương, đặt tên nước là Xích
Quỷ (là tên một vì sao trong nhị thập bát
tú, đóng ở phương Nam, hành hoả, sắc đỏ). Vua Kinh
Dương Vương kết duyên cùng bà Long Nữ ở Ðộng
Đình Hồ, sinh ra Sùng Lãm tức là Ðức
Lạc Long Quân, ông tổ của Bách Việt.
Lạc Long Quân là con bà Rồng (Bà
Long Nữ
ở Ðộng Đình Hồ) và là cháu bà
Tiên (Bà Vụ Tiên ở núi Ngũ Lĩnh). Thời xưa
theo mẫu hệ nên con cháu vua Lạc Long tự nhận mình
là con Rồng cháu Tiên để dễ ghi nhớ nguồn gốc.
Lạc Long Quân sáng lập Bách Việt; Trăm
Việt phải
liên miên đương đầu với các thế lực du mục võ
trị từ phương Bắc tràn xuống xâm lăng, gây cảnh
cá lớn nuốt cá bé. Dòng Lạc Việt lập nước
Văn Lang ở phương Nam, là phương hướng tác hành
của Hoả đức, lấy họ là Hồng Bàng, đổi mẫu hệ thành
phụ hệ (gọi là phụ đạo) để lấy sức nam nhi chống giặc ngoại
xâm; nhưng dựng nền văn hiến để giử gìn đạo Nhân,
khởi xướng văn-trị. Các vị Lạc Vương dòng Lạc Việt đều
xưng vương hiệu là Hùng Vương, truy hiệu Tổ Kinh Dương
Vương là Hùng Dương, Tổ Lạc Long Quân là
Hùng Hiền. Người Việt thờ cúng Tổ tiên, tôn
xưng mười tám vị Thánh vương đời Hùng là
Tộc tổ và Quốc tổ, lại nhận mình là con Hồng
cháu Lạc (tức là con họ Hồng Bàng, cháu nội
họ Lạc Long).
Huyền thoại kể rằng : Lạc Long Quân kết duyên với
bà Âu Cơ, sinh ra một bọc trăm trứng, nở ra trăm con,
nhân đó mới sáng lập Bách Việt . Ngài
đem thuần phong mỹ tục dạy dân, trăm họ được yên ổn. Lạc
Long Quân lại thường hay du ngoạn thuỷ phủ, nhưng dân hễ
có việc nguy biến thì gọi " Bố ơi ! đi đàng
nào không về cứu chúng con! " tức thì uy
linh cảm ứng, Lạc Long Quân lập tức về ngay. Ngày kia,
nhân luận bàn về nghĩa hợp tan, Lạc Long Quân bảo
bà Âu Cơ rằng:
- Ta là loài Rồng, sinh trưởng ở Thuỷ phủ;
nàng
là giống Tiên, người ở trên núi; thủy hoả
phân biệt, khó mà cùng nhau trường cửu. Nay
nàng hãy đem 50 con lên núi, còn 50
con theo ta xuống biển…Lại dặn rằng tuy vậy khi có việc
gì thì cùng nghe không được bỏ nhau
(nhân đó truyền đạo sống Tiên Rồng) và dặn
các con khi gặp nguy biến thì gọi to lên:
- Bố ơi ! ở đâu về cứu chúng con !
Ðời Hùng Vương thứ sáu, giặc Ân từ
phương
Bắc xâm lăng nước Văn Lang ta. Dân tình lầm than
tàn hại. Quân triều chống không nổi giặc, thế
cùng vua Hùng mới lập đàn cầu Tổ Lạc Long về cứu.
Ðức Quốc Tổ liền hiện thân thành một cụ già
áo đỏ (tượng trưng hoả đức) chơi đùa cùng
đám con nít bên đường. Vua ngự qua, biết chẳng phải
người thường, bèn xuống ngựa bước tới đảnh lễ thỉnh cầu
Ngài dậy việc cứu nước. Ðức Quốc Tổ dậy nhà vua
hãy sai sứ đi khắp nơi tìm người hiền giúp nước…
Sứ giả một ngày kia đi đến làng Phù Đổng
thì có một cậu bé lên ba từ lúc sinh
ra chưa biết nói chưa biết cười, bỗng mở lời xin vua ban cho
ngựa sắt roi sắt để đi đánh giặc. Sứ kinh dị nhưng cũng y lời
trở về tâu vua. Vua sai đúc ngựa sắt roi sắt ban cho. Cậu
bé Phù Đổng bèn vươn vai nhảy lên ngựa sắt,
cầm roi sắt xông vào trận giặc. Ðánh mãi
roi sắt phải gẫy, người bèn nhổ những khóm tre sẵn mọc
bên đường thay khí giới mà đánh tan giặc
Ân. Từ đấy nước lại thanh bình.
Lại kể rằng: Dân Văn Lang ở rừng núi xuống
sông
ngòi đánh cá thường bị thuỷ quái làm
hại. Vua Hùng dạy:
- Ta là giống Rồng, cùng với loài thuỷ
tộc
có khác. Bọn chúng ưa đồng mà ghét
dị nên mới xâm hại…
Nhân đó dạy dân tục vẽ mình. Nhờ
hiểu lời
dạy vẽ mình nên dân ta mới không bị hoạ
cá lớn phương Bắc nuốt sống, đồng hoá tiêu diệt
trong suốt một ngàn năm Bắc thuộc
Thế kỷ 19, 20 nước ta lại bị giặc phương Tây xâm
lăng,
ngót một trăm năm chịu cảnh đô hộ nhục nhả. Con
cháu vì lâu ngày quên mất lời Tổ dạy;
có người cầu Tổ Mác Lê về cứu nước, có người
lại giao nước cho ngoại bang giữ hộ. Do đó nước mất nhà
tan, dân phải bỏ nước mà đi, còn lại 50 triệu người
phải vẽ mình sống với loài thuỷ quái ưa đồng
ghét dị.
- Sao không ai nhớ lời Quốc Tổ mà gọi to
lên : Bố
ơi! ở đâu về cứu chúng con!
Việt
lịch
Văn hiến năm thứ 4864
Ngày Rằm tháng Bảy năm Giáp-tý
(Tháng 9 năm 1985).
Người ghi chép: Vũ T.T
CHÚ
THÍCH:
* Chữ Văn hiến có lẽ đã xuất hiện đầu tiên
trong
sách Luận Ngữ Thiên "bát dật"
(chương
tám)
của
sách
này viết:
"Thầy nói: Lễ nghi
của triều Hạ, ta
có thể nói được; (lễ nghi ) nước Kỷ đông đủ để
trưng dẫn. Lễ nghi của triều Ân, ta có thể nói
được; (lễ nghi nước Tống không đủ để trưng dẫn. Sở dĩ vậy
là vì Văn Hiến (của hai nước này) không đủ;
nếu đủ ta có thể trưng dẫn rồi !"
Chú thích hai chữ văn hiến trong đoạn trên
đây, Chu Hi (1130-1200) - triết gia triều Nam Tống ( 1127-1279)
đã viết như sau:
"Văn,
điển
tịch dã; Hiến, hiền
dã!" (Văn là định chế,
phép tắc, hiến là
người
hiền
tài).
Các từ điển nổi tiếng của Trung Hoa sau này như
"Từ
Nguyên, TỪ HẢI"… đều theo định nghĩa trên đây của Chu
Hi.
(Chú thích của Minh Di)
CHƯƠNG I
MỘT
NƯỚC
VIỆT
NAM VĂN HIẾN CHO
DÂN TỘC VIỆT NAM VĂN HIẾN
Trên bản đồ thế giới, Việt Nam là quốc gia ở vị
trị cực
nam đối với hai khối đế quốc khổng lồ Nga Hoa, và là phần
đất ở viễn đông đối với khối Tây phương. Ở vào vị
trí ấy, Việt Nam được thừa hưởng tinh thần học thuật phong
phú của Ðông phương và là ải địa đầu
tiếp nhận tinh hoa của nền văn hóa từ Tây phương đem lại.
Nhưng đồng thời, theo lý giải đông phương, Việt Nam tất
phải chịu trọn vẹn những thử thách trước sức mạnh tràn
ngập của phương Bắc (hành thủy) cùng với khuynh hướng
bành trướng của Tây phương (hành kim) . Lịch sử
đã chứng minh điều này bằng những sự kiện thực tế.
Trong khoảng 20 thế kỷ, Việt Nam đã phải chống trả với
ít nhất 15 cuộc xâm lăng của phương Bắc. Từ thế kỷ 19,
Việt Nam lại phải đương đầu với sự bành trướng dãn nở của
các dân tộc Tây phương đi tìm thuộc địa.
Ðến thế kỷ thứ 20, khối Tây phương bất đầu co rút lại
thì chủ thuyết duy vật của Tây phương lại mượn phương Bắc,
tức là con gấu địa cực Nga sô, để tràn xuống
xâm lăng các dân tộc phương Nam kể cả Trung-hoa. Thế
là kể từ thời lập quốc cho đến nay, dân tộc ta đã
trải qua ba cơn kiếp nạn:
- Cơn quốc nạn thứ nhất là cuộc Bắc thuộc một
ngàn
năm, dân tộc Việt bị phương Bắc xâm lăng cai trị và
âm mưu đồng hóa;
- Cơn quốc nạn thứ hai là ngót một trăm năm
nô
lệ thực dân, ảnh hưởng văn hóa Tây phương như
dòng nước lũ đã cuốn phăng đi những gì không
bám chặt được vào đất;
- Cơn quốc nạn thứ ba chính là cuộc xâm
lăng
hiện tại của đế quốc Đỏ với chủ thuyết duy vật. Ðây là
cuộc xâm lăng có tầm mức toàn cầu, có đường
lối tinh vi nhất và có chủ trương sâu độc nhất.
Nó hết sức tinh vi vì đối với phần lớn dân
chúng, thật khó mà phân biệt được sự thật
và sự giả ngụy, vì quân xâm lăng đã
biến thành vô hình trong hào quang của
các cuộc chiến tranh giải phóng, hơn nữa vì
chính những kẻ làm tay sai cho giặc cũng luôn
luôn tưởng mình là những bậc anh hùng cứu
nước cứu dân (!). Hồ Chí Minh đã xiết bao mừng rỡ
khi đọc bản " Luận cương Cộng-sản ", đến nỗi " Lệ bác Hồ rơi
xuống chữ Lê Nin " (!). Giờ đây chắc hẳn tác giả của
câu này đã có lúc nghĩ rằng những
giọt nước mắt quá sớm ấy thật là thừa thãi
và thảm nhục! Cơn kiếp nạn thứ ba của dân tộc ta hiện nay
chính là cuộc tấn công phối hợp đại quy mô từ
Bắc phương và Tây phương vậy.
Trong cơn kiếp nạn tàn hại nhất này; vì
nó tàn phá không những các nền tảng
quốc gia, xã hội, dân tộc, mà còn huỷ hoại
cả bản chất con người . Cùng một lúc ta phải đương đầu
với tư tưởng duy vật Tây phương và sức mạnh xâm lăng
tràn ngập của Bắc phương. Vì thế dân tộc ta cần
kiên nhẫn chiến đấu để tự giải thoát, giành lại tự
chủ, đồng thời để bảo tồn và thành tựu nền Nhân chủ
của phương Nam (phương hướng tác hành của " hỏa đức " ).
Nhưng làm sao chiến đấu? làm sao ta có thể vẫy
vùng dưới sức mạnh và sự thống trị tinh vi của xâm
lược Tây Bắc ?
- Mượn sức mạnh và
khí
giới hiện đại đề chống lại sức mạnh của Bắc phương được trang bị
khí giới giết người hiện đại? Lấy sở trường của
giặc để đánh giặc là con đường phiêu lưu nhất,
vì ta chưa thể tự lực, chưa thức tỉnh được những kẻ đang
làm tay sai cho giặc (tức là nhóm lãnh đạo
đảng cộng sản địa phương), và ta không có một đồng
minh chiến lược thực sự để chống lại ngọn sóng xâm lăng
duy vật (chính thế giới Tây phương đang bị tư tưởng duy
vật tràn ngập);
- Lấy chủ thuyết chống lại chủ
thuyết?
Ta cũng vẫn dùng sở trường của giặc để đánh giặc. Chủ
thuyết là sản phẩm Tây phương. Tinh thần duy lý
Tây phương đang ưu thắng; thế giới ngày nay tôn thờ
năng lượng, đề cao các giá trị vật chất. Các khối
kinh tế dù là tư bản hay cộng sản cũng không
thoát khỏi vũng lầy duy vật. Nền nhân bản học của thế giớỉ
không đủ sức chống lại ma lực của văn minh vật chất Tây
phương, trái lại hai chữ " nhân bản " còn bị chủ
thuyết duy vật tiếm đoạt xử dụng. Ði tìm một chủ thuyết chỉ
là ảo vọng của những ai qúa tin vào sức mạnh của
nền triết học duy lý. Nền triết học đã tạo ra những trung
tâm bạo lực của thế giới ngày nay.
- Ðấu tranh chính
trị?
Mặc dầu ta phải bênh vực cho chính nghĩa tranh đấu của
dân tộc trong mọi hoàn cảnh, mọi phút giây,
ta cũng khó có hy vọng tạo được một thế lực chính
trị đơn phương không có sự hỗ trợ hữu hiệu của bạo lực.
Ðối với thế giới yêu chuộng Tự do cơm áo, ta cũng
không hy vọng sự gào thét trong sa mạc về quyền
sống dân tộc sẽ được người ta nghe thấy và bênh vực.
Trong bóng tối vĩ đại của nền văn minh vật chất ngự trị, chỉ
có tiếng nói của bạo lực là vang vọng hơn cả.
Trên thực tế, thế giới Tự do Tây phương luôn
luôn bênh vực những lý lẽ của kẻ thù để
bào chữa cho những thất bại, những cuộc tháo chạy của
mình.
Tuy nhiên dân tộc chúng ta đang thực sự
chiến đấu
trong mọi hoàn cảnh, dưới mọi hình trạng, kể cả những
hình thức cổ điển nhất tức là các cuộc võ
trang nổi dậy của từng nhóm nhỏ với vũ khí thô sơ.
Cuộc chiến đấu của dân tộc Việt Nam tất phải kết thúc bằng
cuộc chiến thắng thầm lặng trên chiến trường Việt-nam. Tại sao?
Thế giới ngày nay đang tôn sùng và
dâng hiến cho nền văn minh vật chất, do đó phái duy
vật mới thắng thế trên trường chính trị, hiện tượng
thiên tả xẩy ra khắp mọi nơi. Đó là kết quả của
cuộc phối hợp vô hình giữa Bắc phương và Tây
phương được biểu thị bằng tinh thần "vật hiến".
Trước
hoàn
cảnh
suy
đồi về chính trị và luân
lý do cuộc xâm lăng của chủ nghĩa Cộng sản và tư
tưởng Duy vật, thế giới Tự do "duy lợi"
chỉ biết xử dụng chiến lược duy nhất là tự thu nhỏ dần dần,
làm sao để chính mình không bị thiệt
thòi thái quá. Như vậy chúng ta có
còn một chút hy vọng nào ở một người bạn đồng minh
Tây phương không? Phải khẳng định rằng chúng ta
không thể hy vọng ở sự bênh vực của bất cứ một siêu
cường Tây phương nào cả. Nhưng điều đó không
có nghĩa là ta sẽ không hợp tác với khối Tự
do , ngược lại ta phải giúp nhân loại "thiến" con gấu địa cực (theo lý thuyết
của triết gia Kim Định). "Thiến" có nghĩa là làm
cho nó không sinh sản truyền giống mà bành
trướng được. Nhưng "thiến" bằng cách nào?
Chúng tôi tin tưởng bằng cách xử dụng tất
cả sự
kiên trì và tất cả uy lực của một truyền thống văn hiến bốn ngàn năm để
đánh thẳng vào tinh thần "vật hiến" đang ngự trị thế
giới, chúng ta có thể làm một cuộc cách
mạng phi thường: cuộc cách-mạng
văn hiến. Ðây chính là sứ mạng
thiêng liêng cao cả nhất của dân tộc Việt Nam,
dân tộc "vốn xưng văn hiến
đã lâu".
Trong bối cảnh toàn cầu của một cuộc chiến đấu
giành
tự chủ cho dân tộc, chiến thắng đầu tiên và chiến
thắng cuối cùng phải củng cố ở lòng
người và ở tư tưởng loài người. Việc giải quyết
chiến trường Việt Nam sẽ chỉ là một kết quả tất yếu; và
cuộc tháo chạy hoặc thái độ tạm thời cúi đầu chấp
nhận của dân tộc Việt Nam ngày nay trước mạnh xâm
lược phối hợp của Bắc phương và Tây phương phải là
bước nốì tiếp cho cuộc chiến đấu trường kỳ đã kéo
dài hơn bốn mươi thế kỷ: cuộc
chiến đấu cho một nước Việt Nam Văn Hiến. Cuộc chiến
đấu ấy cũng là sự góp phần của dân tộc vào
công cuộc Xây dựng nền văn minh văn hiến của cả nhân
loại mai sau.
1 - SỬ HỌC
VÀ
TRIẾT LÝ CHÍNH TRỊ
Lịch sử loài người là một cuộc đi tiếp sức
không
ngừng, từ một khởi điểm không biết đến một điểm cuối chưa biết.
Người viết sử ghi chép lại những sự kiện đã xẩy ra,
và căn cứ vào những sự kiện ấy người ta ghi nhận được
những bước tiến của nhân loại.
1.1 - TỪ DUY VẬT SỬ
QUAN …
Sự tiến hóa của nhân loại vừa là một hiện
tượng
sử học, vừa là một vấn đề triết học. Các triết gia
phái Duy vật, tiêu biểu là K. Marx, quan sát
những hiện tượng lịch sự để ghép nó vào một
mô thức, một chu trình tiến hóa qua các
hình thức xã bội loài người mà họ cho
là tất phải xẩy ra. Bước tiến ấy là một hành
trình theo hình khu ốc: từ đời sống bộ lạc là
hình thức một cộng đồng thô sơ nhất, đi vòng vo qua
các giai đoạn lịch sử để tiến tới một xã hội gọi
là cộng sản; cuối cùng thành hình một thế
giới đại đồng: loài người không còn biên giới
do giai cấp kinh tế xã hội tạo nên. Ðể đẩy mạnh bước
tiến ấy, chủ nghĩa cộng sản chủ trương đấu
tranh
giai
cấp: giữa hai giai cấp xã hội
có sự mâu thuẫn với nhau trong cuộc sinh tồn (như chủ
và thợ) tất sẽ xẩy ra một cuộc xung đột; kết quả của cuộc
xô sát ấy là cả hai giai cấp sẽ không
còn nữa, chúng sẽ tiêu diệt lẫn nhau để
thành hình một thực thể thứ ba tiến bộ hơn… và cứ
như thế cho tới khi không còn giai cấp nữa! Quan niệm
triết lý về sử học này được gọi là Duy vật sử quan.
Thế giới đại đồng là một ước mơ lớn của nhân
loại,
vì thế Duy vật sử quan (danh từ K. Marx mượn của triết học
Hegel) có một hấp lực đặc biệt đối với dân chúng
các nước bị áp bức đang đòi quyền sống. Nó
cũng hết sức hấp dẫn đôi với những nhà trí thức
hằng quan tâm đến một xã hội nhân bản lý
tưởng. Tuy nhiên ít ai nghĩ rằng đằng sau bốn chữ "Ðấu
Tranh
Giai
Cấp" có vẻ bình thường như chuyện ăn
và ngủ ấy là cả một sự thật tàn nhẫn, kinh dị,
hãi hùng, vô luận và tuyệt vọng. Cuối
cùng một thế giới đại đồng như thuyết duy vật phác họa,
nếu như nó có thể thành sự thật được, thì
cũng chỉ là một thế giới xây dựng trên những tương
quan thuần vật chất, ở đấy những quyền và lợi vật chất được chia
đồng đều cho mọi người (công bằng kinh tế, bình đẳng
xã hội). Người ta sẽ không thể tìm thấy được
gì, hoặc không thể đòi hỏi gì hơn,
ngoài sự đồng đều câm nín và… bất công
ấy!
Tin vào một cuộc cách mạng công bằng
hóa
xã hội dựa trên những căn bản vật chất, người Cộng-sản
đã dấy lên một phong trào quốc tế lấy giáo
điều "Ðấu tranh giai cấp" và
sách lược "chiến tranh giải phóng",
"chiến tranh nhân dân"... để
thực hiện cuộc san bằng giai cấp và bất công xã
hội. Người ta đã thấy những kết quả đầu tiên của cuộc
cách mạng duy vật: đó là sự thù hận
và tàn phá toàn diện trong hầu hết
các dân tộc và giữa các quốc gia trên
thế giới. Nói về sự công bằng kinh tế và xã
hội của người Cộng sản, ông W. Churchill đã phát
biểu một cách hài hước và đầy ý nghĩa rằng:
"Trong một xã hội dân chủ
(Tư bản), quyền và lợi chỉ được dành ưu tiên cho
một thiểu số mà thôi; còn trong một xã-hội
Cộng sản thì sự nghèo khó và lầm than được
chia đồng đều cho tất cả dân chúng"!
1.2 - …ĐẾN VĂN
HIẾN SỬ
QUAN.
Trên thực tế, lịch sử không phải chỉ ghi
chép
những dữ kiện đã yên giấc ngàn thu, mà ẩn
nấp sau những sự kiện, những cơ cấu chết cứng ấy là một
quá trình sinh động hằng sống của văn minh loài
người. Trên thực tế người ta không mấy quan tâm đến
những mô thức xã hội mà chỉ mưu cầu sự an lạc trong
cuộc sống. Sự an lạc không phải và không thể coi như
một thứ phó sản của một công thức xã hội lấy sự
chia xẻ đồng đều quyền và lợi làm mục đích.
Mô thức xã hội tự nó không tạo ra an lạc. Sự chú trọng quá
đáng đến quyền
và lợi lại chỉ
đưa đến mâu thuẫn và tranh chấp dưới mọi hình thức
từ đình công đến bạo động. Vậy quan niệm chia xẻ đồng đều quyền và lợi phải được thay thế bằng quan niệm
chung hưởng an và
lạc.
Chỉ có văn minh thực sự của loài người mới bảo
đảm
được sự an lạc của xã hội loài người. Văn minh
không phải là vật chất hoặc sự phát triển về đời
sống vật chất, mặc dầu những sản phẩm của kỹ thuật đã góp
phần không nhỏ vào kho tàng văn hóa
nhân loại. Văn minh cũng không có hình
thù, nó là sự tỏa sáng của văn hóa,
là vẻ đẹp của nếp sống con người . Vì những lẽ đó,
sự tiến hóa của văn minh loài người không thể
mô tả như những đường vòng khu ốc hoặc như bất cứ một
hình thù nào cả. Nếu ta nhìn sự tiến
hóa ấy trong một quan điểm triết học, tức là nói
đến một triết học sử quan thì " duy-vật sử quan " không
đủ. Cần phải nói đến một Văn hiến sử quan, vì nó
làm hiện ra trong dòng lịch sử những nỗ lực của
loài người đã hiến dâng cho cuộc phát triển
tiến hóa của văn minh loài người.
Tác giả Trần Lê trong cuốn "Làm
gì?" giải thích Văn hiến như một giai đoạn của
lịch trình tiến hóa loài người:
- Văn hiến là một quy ước xã hội có văn
tính, với sự cộng tác xã hội và sự bao dung
tương đối, khác biệt với sự đấu tranh sinh tồn theo bản năng của
loài vật;
- Là sự tổ chức một đời sống theo một quy ước mở rộng
cho
nhiều bộ lạc qui tụ với nhau để cộng tác với nhau một
cách hòa bình trong lâu dài;
- Là sự biến đổi từ đời sống bộ lạc sang chế độ nước;
- Con người bước vào thời kỳ văn hiến khi từ thời kỳ
đá đập bước sang thời kỳ đá mài, thời kỳ kỹ thuật
dùng lửa, xây lò nung gạch, lai giống lúa,
thuần hóa một số súc vật…
Người
Tàu
gọi một nước văn hiến
(Văn hiến chi bang) là một nước có kỷ cương văn
hoá, có thành tích văn học (Văn) và
có người cai trị hiền đức (Hiến).
Văn hiến như vậy biểu hiệu cho sự phát triển một nền
văn minh
văn tính hay văn minh nhân tính, lấy nhân
tính làm gốc cho cuộc đại đồng. Loài người đang
trải qua giai đoạn văn minh kỹ thuật để thành tựu trọn vẹn nền
văn minh nhân tính mai sau.
Văn-hiến sử quan cần phải thay thế cho Duy vật sử quan
trên
đài viễn vọng của tư tưởng nhân loại để hướng dẫn bước
tiến của nhân loại. Văn hiến sử quan nhìn lịch sử với sự
chú trọng về tiến trình của văn minh nhân loại, lấy
sự phát triển nhân tính làm căn bản
(nhân bản). Nó khác với duy vật sử quan, vì
nó không mô tả, tiên liệu và đổ
khuôn cuộc tiến hoá của loài người dựa trên
những hiện tượng, những cơ cấu, những vật thể và những
công thức kinh tế. Nó chú trọng về sự phát
triển và phát biểu của cái "tính người"
trên những hiện tượng những cơ cấu, những sự biến chuyển của đời
sống vật chất, kinh tế ấy. Do đó người
không bị biến thể, theo những biến thiên của đời sống kinh
tế xã hội để trở thành những sinh vật xã hội thuần
tuý như bầy ong lũ kiến (đoàn lũ hoá) hay những
con vật kinh tế bẩm sinh (nô dịch hoá).
2 - MỘT DÂN
TỘC
VĂN HIẾN
"Người không thể bị biến
thái thành một thứ sinh vật xã hội thuần
túy hay một con vật kinh tế bẩm sinh" là
sự quan tâm của chúng ta trong giai đoạn lịch sử bị
tràn ngập bởi tư tưởng duy vật này. Nó cũng
là sự quan tâm của tổ tiên chúng ta hơn bốn
ngàn năm trước. Thật vậy…
Huyền sử Tiên Rồng đã khai sinh nền văn
hóa
Tiên Rồng của Bách Việt. Nền văn hóa đó
ngày nay còn tồn tại với dân tộc Việt Nam và
còn bàng bạc trong phong tục tập quán của người
Trung Hoa, nơi quê hương cũ Ðộng Đình, Ngũ Lĩnh của
Bách Việt, với hình ảnh Tiên Rồng lưỡng hợp... Non
ấy, nước ấy đã trở thành tiêu biểu của nghĩa mẹ,
công cha:
"Công cha
như
núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra..."
Nền văn hóa Tiên Rồng đã làm phong
phú ngôn ngữ của người Việt với những chữ kép như:
non nước, gia đình, tràn ngập, gắn bó, gánh
vác, thương yêu, trìu mến, ngon lành... mỗi
chữ có một vế Rồng và một vế Tiên kết họp bổ nghĩa
cho nhau. Ngôn ngữ Việt đã bao hàm một triết
lý hòa thể, nền văn hóa Tiên Rồng lại chứa
đựng một đạo sống hòa hài: Ðạo sống Việt lấy sự
hòa nhập thể
và tính
làm nhân
(Tiên Rồng); lấy sự liên hệ huyết thống làm gốc (Bọc
Mẹ Trăm Con); Từ đấy trăm hoa đua sắc, trăm họ hòa vui
(Bách Việt); nhưng chỉ có niềm an lạc sâu xa, trong tự tính là vĩnh cửu (Lạc
Việt). Bản chất người
được tổ tiên chúng ta định nghĩa như sự hòa hợp
hoàn mỹ trong dòng máu của hai yếu tố: Tâm (thể tính Tiên)
và Vật (thể
tính Rồng). Tiên và Rồng kết hợp biểu hiệu cho thể
tính người. Người biểu lộ sự sinh hoạt của hai khuynh hướng
Tâm và Vật (Lưỡng hợp). Nếu chỉ khảo sát người
trên Vật thể tính, thì người giống như những sinh
vật hạ đẳng khác. Trái lại nếu chỉ nhìn người
trên Tâm thể tính thì người không
có chỗ bám víu trên trái đất. Vậy
khảo sát người cần chú trọng tới Nhân thể
tính hay Nhân tính. Ðó là mục
đích của nhân bản học.
2.1 – NHÂN
BẢN HỌC
Người và thế giới loài người là
đốì
tượng khảo sát của nhânbản học. Ta hãy xem
nhân bản học khảo sát Người và cách "người ta ăn ở với nhau" như thế nào.
Cho đến cuối thế kỷ thứ 20 này, thế giới vẫn đang đi
tìm một mô thức cho một xã hội nhân bản, hay
nói đúng hơn, đang định nghĩa thế nào là
một xã hội nhân bản. Theo quan niệm Tây phương
thì nhân bản học (Humanism) là cách
nhìn thế giới của chúng ta với những chú ý
đặc biệt về sự quan trọng của bản tính bản chất con người (Human
nature), và chỗ đứng của loài người trong vũ trụ.
Nhân bản học cho rằng mỗi người đều có nhân
vị
(dignity and worth) và do đó phải được tôn trọng.
Mặc đầu nhân bản học đã bắt nguồn từ những tư tưởng của
các triết gia cổ Hy La, nó đã chỉ bừng nở như một
phong trào lịch sử ở Âu Châu từ thế kỷ 14 đến thế kỷ
16 (thời kỳ Phục Hưng).
Sự phát triển trong trào nhân bản của thời
kỳ
Phục Hưng (Renaissance) của Âu Châu khởi đầu bằng sự
khám phá lại những kinh sách cổ. Những nhà
nhân bản học thời kỳ ấy sở dĩ chú trọng đến những bản cổ
văn vì họ tìm thấy ở đấy những định hướng cho sự
tìm hiểu về đời sống con người. Sự hiểu biết này tương
phản với những quan điểm của nhiều nhà hiền triết học giả thời
Trung Cổ ở Âu châu cho rằng người ta nên coi nhẹ cuộc
sống phù du trên trái đất vì kiếp nhân
sinh chỉ là tội lỗi và nên dành cả cuộc đời
để cố gắng trở về với cõi hằng sống (hiến thân cho Trời).
Nhân bản học Tây phương bác bỏ quan niệm đó
và nhìn nhận trái đất là quê hương
đích thực của loài người... Còn trên quan
điểm chính trị sự chống đối của thuyết nhân bản với
các chế độ độc tài võ trị vào cuối thế kỷ
18 đã có ảnh hưởng sâu xa trong các cuộc
cách mạng tại Hoa kỳ và Pháp. Cả hai Bản
Tuyên ngôn Ðộc lập của Hoa kỳ và Tuyên
ngôn Nhân Quyền của Pháp đều tuyên dương
nhân vị. Đó là những tài liệu vừa
chính trị vừa nhân bản học.
Cho đến ngày nay, nhiều nhà giáo dục
và
triết gia Tây phương tin rằng sự thử thách lớn nhất với
học thuyết nhân bản, và cũng là sự đe dọa cho an
ninh xã hội loài người, đã bắt nguồn từ sự
quá chú trọng và tôn sùng khoa học kỹ
thuật. Họ công nhận rằng những thành quả của khoa học
và kỹ thuật đã nâng cao rất nhiều sự hiểu biết
và quyền năng của loài người, nhưng họ cũng tin rằng một
nền nhân bản phải dạy cho người ta biết xứ dụng sự hiểu biết
và quyền năng ấy hợp với nhân luân, nhân
tính.
2.2 – NHÂN BẢN
HỌC
VÀ VĂN HIẾN VIỆT NAM
Như vậy nhân bản học cho tới nay vẫn chưa đạt tới sự
trọn vẹn
của một học thuyết nhân sinh làm căn bản cho cuộc sống
loài người. Từ bao thế kỷ nay, nhân bản học vẫn chỉ vận
dụng hầu hết những khả năng uy lực của nó để đòi lại
nhân vị cho loài người dưới hai hình thức rõ
rệt nhất: một là phản kháng lại quan niệm hiến dâng
đời người cho một cõi sống khác, cho một chân
lý làm chủ đời sống con người (hiến dâng cho Trời);
hai là chống đối lại sự cưỡng bách dân chúng
phải hiến dâng sự tự chủ của mình để phục vụ cho quyền lợi
của một nhóm cầm quyền (nô lệ cho Người).
Nhân bản học đã đóng vai một kẻ nghĩa hiệp
đi
đòi lại nhân vị cho mọi người. Nhưng đòi rồi, qua
mấy thế kỷ người ta mới giật mình không biết trong
lúc vội vã đã giao lại cái vốn quý
ấy cho ai canh giữ! Đó là cái giật mình của
thế kỷ 20, thế kỷ của "vật hiến";
nhân bản bị phái duy vật cưỡng đoạt. Thế là "của Thiên lại trả Ðịa".
Tóm lại nhân bản học đã tấn công
vào hai mục tiêu chính:
- Vong thân vì hiến dâng cho "Trời" (Thần quyền).
- Vong thân vì nô lệ cho người (giai cấp nông
nô dưới chế độ Phong kiến).
Còn mục tiêu thứ ba nữa mà nhân bản
học
không đả động đến là :
- Vong thân vì hiến dâng cho vật.
Sở dĩ nhân bản học Tây phương lúng
túng ở
đây vì không định nghĩa vật một cách trọn vẹn
đầy đủ và không ai dám tấn công thẳng
vào những thành quả của nền văn minh vật chất hiện đại
đã trở thành một phần của quan niệm nhân bản. Người
Ðông phương nhìn vật
bao quát hơn, nó bao gồm cả chất lẫn thể của thế giới hữu
hình, nó bao gồm cả thế giới của "lý"
và
"sự". Đó chính
là phần địa hữu
hình hữu tướng của vũ trụ quan Ðông phương để
phân biệt với thành phần thiên không
hình tướng. Ðối với Ðông Phương, Vật là
Ðịa và Tâm là Thiên. Khoa học và
triết học không lý giải được Tâm giới cho nên
Vật giới tự lên ngôi bá chủ. Kinh tế và kỹ
thuật ngự trị, đương nhiên phải trở thành một thử
thách lớn lao nhất cho thuyết nhân bản cũng như cho sự an
ninh của xã hội loài người.
Như vậy muốn trở thành "nhân bản" thực sự, học
thuyết
nhân bản Tây phương phải đánh thẳng vào
thành trì "vật bản". Ðiều đó không phải
là bác bỏ hoàn toàn nền văn minh vật chất,
nhưng là tấn công vào tinh thần "vật hiến" đang ngự
trị trong tâm não thế giới loài người. Tấn công bằng cách nào?
Bằng cách dựng văn
hiến,
nền
Văn
hiến Nhân loại, hiến dâng cho văn minh loài
người. Văn minh Loài người
là gì? là đối nghĩa của chữ "mọi
rợ", là người không ăn thịt người bằng cách
này hay bằng cách khác, là biểu lộ được
"văn tính" trong cuộc phát triển nhân sinh. Biểu lộ
được văn tính trong cách "người ta ăn ở với nhau"
là biểu lộ được tinh hoa của nhân tính. Biểu lộ
được nhân tính mới tìm thấy nhân bản
và đạt được nhân bản.
Nhưng hạ bệ tinh thần vật hiến không phải là việc
làm của vài ba người. Trào lưu duy vật Tây
phương đã trở thành một cơn thác lũ nó cuốn
phăng đi tất cả những triết gia, những nhà lãnh đạo,
những chính trị gia cứng cỏi và cứng đầu nhất. Tất cả mọi
người đều có thể một lúc nào đó nhận thấy
sự bất ổn của thế giới tôn sùng vật chất này, nhưng
không ai nghĩ rằng có thể ngăn chận được dòng
thác vật hiến ấy. Dòng thác ấy chỉ có thể
lắng xuống và tan đi cùng với trào lưu vật hiến
trước một sức mạnh vô hình: sức mạnh của một nhân loại văn hiến.
2.3 – DÂN TỘC
VIỆT NAM
CÒN LÀ MỘT
DÂN TỘC VĂN HIẾN KHÔNG ?
"Bốn ngàn năm văn hiến"
vốn
là tiếng reo vinh quang và niềm hãnh diện tột
cùng của dân tộc Việt. Hoa kỳ có bản hiến
pháp thành văn đầu tiên trên thế giới. Người
Pháp hãnh diện với cuộc Cách mạng 1789 và
với một Montesquieu đã mang ngọn gió nhân quyền
và tinh thần dân chủ gieo khắp thế giới. Mỗi dân tộc
đều có một niềm hãnh diện lớn nào đó nhưng
có lẽ chưa có một niềm hãnh diện nào được
biểu lộ một cách ngắn gọn, lớn lao và đầy vinh quang như
tiếng reo vui "Bốn ngàn năm văn hiến"
của
dân
tộc
Việt
Nam. Tuy nhiên tiếng reo vinh quang ấy
chưa đủ để chứng tỏ dân tộc ta là một dân tộc văn
hiến, hay nói đúng hơn chưa đủ để cho ta sống thực với
tinh thần văn hiến của tổ tiên. Trước hết ta hãy tự hỏi
tinh thần văn hiến ấy có không? Có lẽ trong cuộc
sống hòa nhập với văn minh hiện đại, hầu hết chúng ta
chưa từng tự hỏi rằng dân tộc mình đã là một
dân tộc văn hiến hay không? bởi vì chữ văn hiến đối
với ta hình như chỉ là một mỹ từ không hơn
không kém . Thế nhưng lý do nào đã
khiến Bốn ngàn năm văn hiến
trở thành tiếng nói truyền khẩu của người Việt Nam ?
Và vì nguyên do nào cụ Nguyễn Trải đã
viết chữ Văn hiến một
cách trang trọng và khẳng định trên những
dòng đầu của thiên Bình Ngô Ðại
Cáo, bản tuyên ngôn Tự chủ đầy hùng
khí của dân tộc Việt Nam?
Ðể chứng minh dân tộc Việt đã là một
dân tộc văn hiến,
có lẽ Chúng ta phải trở về với những dấu tích thời
xa xưa của nền văn hóa Tiên Rồng, ở đấy sự giao hòa
của Trời và Ðất, của Tâm và Vật đã hiện
trong huyền thoại, trong đời sống, trong tập quán... của người
Việt. Từ sự nhận định đó ta có thể nói rằng nền
văn hóa Tiên Rồng đã bao hàm một đạo sống
Tiên Rồng, một triết lý Tiên Rồng, một ngôn
ngữ Tiên Rồng, một tập quán Tiên Rồng... Ðối
chiếu với những tài sản văn hóa của dân tộc Việt,
phải chăng người Việt đã lấy đạo sống Tiên Rồng làm
đạo sống Việt, lấy triết lý Tiên Rồng làm triết
lý An Vi Việt, lấy ngôn ngữ Tiên Rồng làm
quốc ngữ Việt, lấy tập quán Tiên Rồng làm phong
tục, nếp sống Việt? và lấy tất cả sự tự hào ấy dựng nước
thiêng Tiên Rồng?
Tiên và Rồng là biểu tượng của hai thể
tính đối kháng. Hai thể tính đối kháng
mà hòa nhập được với nhau là một điều kỳ diệu.
Nhưng tổ tiên ta đã làm cho sự kỳ diệu ấy trở
thành bình dị tự nhiên qua hình ảnh huyền sử
của bà Vụ Tiên trên núi Ngũ Lĩnh và
bà Long Nữ dưới Ðộng Đình Hồ. Từ ngàn xưa Mẹ
là tiêu biểu của tình thương, của nhân
tính. Thuở ban sơ loài người lấy mẫu hệ làm gốc
tộc hệ. Ông tổ Lạc Long Quân là con bà Rồng
(bà Long Nữ) và là cháu bà
Tiên (bà Vụ Tiên), rồi để con cháu dễ
hình dung ghi nhớ, đã mượn ngay hình ảnh
Tiên Rồng làm biểu tượng nguồn gốc.
Tiên
là
sự thanh thoát của Tâm giới, Rồng
biểu hiệu cho năng lực vô biên của vật giới. Tiên
thì thanh tịnh, vĩnh cửu. Rồng thì biến hóa,
mãnh liệt. Sự hòa nhập của hai thể tính đối
kháng ấy đã tạo nên thể tính Người. Ðạo
sống Tiên Rồng hay Ðạo sổng Việt dạy cho người ta biết sống
trong sự bòa hợp giữa năng lực của vật chất và sự thanh
thoát bất diệt của tâm linh. Khi nào con người
tách rời hai thể tính đối kháng ấy ra ( nhị
nguyên), thì sự hiểu biết của loài người sẽ đem đến
tai họa cho họ (ăn trái thông thái). Đó
là những gì ta có thể tìm thấy trong kho
tàng phong phú của đạo giáo Ðông
Tây. Người Việt không lấy sự tôn sùng vật chất
và triết lý sức mạnh làm lẽ sống nên
không dựng vật tổ (1) mà đã tìm thấy
ánh sáng văn minh ngay trong huyền sử Tiên Rồng,
lấy sự đối đãi Tâm Vật hòa hài làm
đạo sống, và ngay trong "Bọc Mẹ Trăm Con"
lấy
tình
cốt
nhục
biểu hiệu cho những ràng buộc của
xã hội. "Bọc Mẹ trăm Con" là
hình ảnh của một thế giới đại đồng lấy nhân tính
làm gốc, lấy sự an lạc làm mục đích cuối
cùng, ở đấy không có chỗ đứng cho thuyết chia xẻ
quyền lợi, không có đất nẩy mầm cho chủ nghĩa giai cấp đấu
tranh. Ðây là một bằng cớ để ta có thể
nói rằng người Việt đã có một "Văn hiến sử quan" từ thuở sơ khai hơn bốn
ngàn năm trước.
Nếu muốn dẫn chứng xa hơn nữa về quan niệm văn hiến và
nhân bản của Việt tộc, ta có thể tìm trong huyền
thoại Việt, những kỳ tích của ông Tổ Bách Việt
là Lạc Long Quân, với công cuộc diệt Ngư Tinh phương
Bắc ( Bắc: hành thủy, tính tràn ngập, tai họa
"cá lớn nuốt cá bé" ), diệt Hồ tinh phương
Tây ( Tây: hành kim, tính bành trướng,
tinh xảo; sự tinh xảo của vật chất là khí cụ, khí
giới; sự tinh vi của tinh thần là ý thức hệ, chủ thuyết
), diệt Mộc tinh phương Ðông ( Ðông: hành
Mộc, mới thì tươi tốt, cũ thi là gỗ khô củi mục, hủ
hóa, mê tín ... ) Tổ Lạc Long chỉ dành lại
phương Nam ( Nam: hành hỏa, chỉ Hỏa đức ) là phương hướng
của sự thành tựu nhân bản lấy Nhân tính
làm gốc đại đồng để cho con cháu dựng nước. Từ những ngụ
ý sâu xa đó, ta có thể xác nhận sự
đinh hướng của Việt tộc trên con đường Văn hiến. Chọn con đường
văn hiến ấy, nền kinh tế và triết học Việt phát triển nếp
sống An vi, nền chính trị Việt phát triển Văn tri;
các triều đại Việt không mang tính chất của
các nền quân chủ phong kiến Bắc phương. Chọn con đường lớn
văn hiến ấy dân tộc Việt đã phải chấp nhận ba cuộc thử
thách lớn. Thử thách dầu tiên đến từ phương Bắc:
thử thách của tinh thần võ trị, cá lớn nuốt
cá bé - Thử thách thứ hai là cuộc
bành trướng của Tây phương: thử thách của văn minh
vật chất và ý thức hệ - Thử thách thứ ba là
cuộc tấn công phối hợp của cả Tây phương và Bắc
phương: chủ thuyết Duy vật Tây phương mượn sức mạnh xâm
lược của Bắc phương (con gấu địa cực Nga) để khuynh đảo thế giới, tận
diệt nền nhân bản Ðông Nam . Nếu vượt thắng được cơn
thử thách lớn lao và khủng khiếp này ta mới chứng
tỏ được con đường Văn hiến là đường sống vinh quang của
nhân loại. Tuy nhiên, trong cơn lốc của nền văn minh vật
chất làm điên đảo lòng người,vấn đề nêu ra
vẫn còn đó: dân tộc Việt Nam còn là
dân tộc văn hiến hay không? Người Việt Nam cần phải tự
chứng nghiệm và chứng minh điều đó.
2.4 - BẰNG CÁCH
NÀO PHONG KIẾN, THỰC DÂN
VÀ CỘNG SẢN TIẾP TAY NHAU TIÊU DIỆT MỘT DÂN TỘC VĂN
HIẾN.
Trong lịch sử nhân loại, tất cả những kẻ thống trị ngoại
nhập
đều nuôi tham vọng củng cố vĩnh viễn chế độ cai trị của
mình trên các dân tộc bị trị. Phương thức
sâu độc nhất thường được bọn xâm lược xử dụng để dìm
cho các dân tộc bị trị không ngóc đầu
lên được là phá hủy nền văn hóa của
các dân tộc đó. Khi một nền văn hóa bị
phá hủy rồi thì không một niềm tự tin tự hào
dân tộc nào đứng vững; dân tộc bị trị sẽ mất hết
ý chí và sức mạnh để vùng dậy. Từ đó
chúng ta có một nhận đinh: kẻ phá hoại văn
hóa của một dân tộc là bọn xâm lược hoặc
là tay sai của quân xâm lược.
Thời Bắc thuộc, xâm lược võ trị Phương Bắc
ngoài
việc vơ vét báu vật, triệt hạ long mạch phương Nam,
các quan cai trị Tàu bắt dân sống theo phong tục
phương Bắc, dùng văn tự Tàu để dễ sát nhập đồng
hóa. Thậm chí chúng còn đòi cống
hiến cả thợ khéo, thầy tướng số giỏi để bắt nhân
tài... Dưới thời Mãn Thanh, người Trung Hoa cũng phải cạo
tóc, tết đuôi sam theo phong tục Mãn.
Thời Pháp thuộc Thực dân Pháp đã
dạy cho
người Việt nhạo báng những phong tục tập quán của
mình và cho đó là chậm tiến để phá
hủy tận gốc rễ niềm tự tin, tự hào và sinh phong sĩ
khí Việt. Họ dạy người mình lấy sự bắt chước phong tục,
ngôn ngữ và cách suy luận của kẻ thống trị
làm điều vinh hiển. Người Việt bị Pháp khai hóa
bằng văn minh vật chất Tây phương, ngỡ ngàng trước những
tiến bộ rực rỡ của khoa học kỹ thuật, đương nhiên sinh
lòng bài bác chê bai sự " chậm tiến " của
dân tộc mình. Người làm văn hóa cũng đua
nhau chỉ trích những tục lệ, nếp sống xưa mà họ nghĩ
là không còn thích hợp, cho nên
đã vô tình đập phá căn nhà ọp ẹp của
ông cha để lại. Văn hóa Duy lý Tây phương
đã được thực dân xử dụng để đánh siêu vẹo nền
Văn-hóa Tiên Rồng của Việt.
Triết học Duy lý là cha đẻ của chủ thuyết Duy
Vật.
Người Duy vật khởi xướng chủ nghĩa Cộng sản và
thành
lập một siêu đế quốc Cộng sản lấy giáo điều và văn
hóa Mác Lê làm gốc. Trong cuộc chiến đấu
chống Thực dân để dành tự chủ, một lần nữa người Việt lại
bị đế quốc Cộng sản xử dụng để thanh toán người Việt và
thống trị dân Việt. Phương thức ngàn đời lại được xử dụng,
sự nhồi sọ chủ thuyết Duy vật Mác Lê là bước đầu để
mượn người Việt đánh đổ văn hóa Việt. Thâm độc hơn
bọn Thực dân, Cộng sản không phá hủy hình
thức mà triệt hạ tinh thần. Ðây là điều rất dễ
làm cho ta nhầm lẫn nếu chỉ nhìn hành động của
người Cộng sản qua hình thức. Người Cộng sản cổ động dân
chúng học chữ quốc ngữ nhưng dùng chữ quốc ngữ theo đường
lối Mác Lê, chuyên chở, diễn tả tư tưởng Mác
Lê nên chữ quốc ngữ dần dần bị biến thể, không
còn tiêu biểu cho văn hóa Việt. Người Cộng sản Việt
Nam cũng xưng tụng hai chữ Văn hiến nhưng tôn thờ chủ nghĩa Duy
vật. Họ cũng dựng bàn thờ các vị Quốc Tổ Hùng
Vương và các anh hùng liệt nữ với những nghi thức
còn rực rỡ hơn bao giờ hết, nhưng dựng tượng Lê- nin, thờ
Mác, và xây lăng Hồ. Ðể đánh bật gốc nền
văn hóa Tiên Rồng, chế độ Cộng-sản Việt Nam cho xuất bản
hàng loạt những sách biên khảo đồng loạt lên
án các triều đại xưa, văn hóa xưa, những bộ luật
xưa là phong kiến, bại hoại. Quan sát xã hội Việt
Nam ngày nay người ta thấy nó không khác
những xã hội Cộng sản Ðông Âu (2) hay bất cứ ở
những nơi nào khác; cùng một thể thức tuyên
truyền, cùng một hình ảnh đoàn lũ bị kinh tế kiểm
soát và đàn áp đến cùng cực. Với
những dữ kiện đó ta có thể kết luận nền văn hóa
Tiên Rồng đang bị chế độ Cộng sản đào xới để đánh
bật gốc rễ. Đó là điều mà các chế độ
xâm lược ngoại nhập trước kia chưa làm được, và
đó là những nỗ lực hủy diệt nền Văn hiến Việt Nam, hủy
diệt một dân tộc Văn hiến.
2.5 - BẰNG
CÁCH
NÀO TA CÓ THỂ
LÀM SỐNG LẠI MỘT DÂN TỘC VĂN HIẾN
Trước những cuộc tấn công liên tiếp của Bắc phương
và Tây phương qua bao nhiêu thế kỷ, nền văn hiến
Việt có còn không? Ðương nhiên nó
không thể hiện thực như một thế lực. Nó chỉ còn một
chỗ sống duy nhất và vững vàng nhất là trong
tâm hồn người Việt Nam mà thôi. Những người Việt Nam còn giữ được Văn hiến
Việt, còn giữ được Ðạo sống Việt, sinh phong Việt là
những người sẽ làm phục hồi một dân tộc Văn hiến.
Thế
giới
Cộng
sản
càng ngày càng tỏ rõ tham
vọng bành trướng chủ nghĩa và sự thống trị của họ
trên khắp địa cầu . Các chư hầu của Ðế quốc Cộng sản
luôn luôn kiêu hãnh với "Chủ nghĩa Mác
Lê bách chiến bách thắng". Trên thực tế chủ nghĩa Mác Lê quả
nhiên không phải là con dao cùn; nhưng
nó càng sắc bén thì máu và
nước mắt nhân loại càng chảy nhiều hơn để
đi tới một cuộc tận diệt không thể tránh được khi
các siêu cường tận dụng sức mạnh vật chất để chống lại sức
mạnh vật chất.
Như ta đã biết, Chủ nghĩa Cộng sản Duy vật là
kết tinh
của tinh thần triết học Duy lý Tây phương, nhưng nó
không bành trướng ở Tây phương được mà phải
mượn Bắc phương làm phương hướng tác hành, từ
đó tràn xuống phương Nam bằng chiến tranh giải
phóng, bằng chiến thuật biển người, bằng đàn áp
khủng bố, cá lớn nuốt cá bé để thanh toán
các cứ điểm của tinh thần nhân bản phương Nam. Việt Nam
là một điểm trọng yếu trong những cứ điểm đó, không
phải vì địa lý hình thể hay tài
nguyên vật chất, mà vì tinh thần văn hiến và
nền văn hóa Tiên Rồng là những ốc đảo đã
làm tươi mát cả một vùng Ðông Nam
Á.
Lịch sữ là một cuộc tái diễn những thử
thách
triền miên cho nhân loại . Không những tinh thần văn
hiến của Việt tộc một lần nữa phải lùi bước trước sức mạnh
võ trị Duy vật, mà biết bao nhiêu tinh hoa của
dân tộc Việt cũng phải quy phục và trở nên những
tín đồ mù quáng của Mác Lê.
Việt Nam, một dân tộc đã từng đại thắng cuộc viễn
chinh
của đế quốc Mông Cổ vào cuối thế kỷ 13, đã thua đế
quốc Cộng sản vào cuối thế kỷ 20. Thật sự chúng ta
đã thua đế quốc Cộng sản, nhưng đây chính là
cơ hội để dân tộc ta suy nghiệm lại những giá trị
thiêng liêng của một nền văn hóa Tiên Rồng,
của Ðạo sống Việt và cũng là cơ hội để người Việt Nam
thực hiện một cuộc cách mạng Văn hiến, mang tinh thần văn hiến
Việt Nam đi reo rắc khắp thế giới chứ không phải mang sự mệt mỏi
chán chường của những kẻ bại trận đi ăn vạ khắp nơi. Vì
đây đúng là một cuộc thử thách lớn; nếu
người Việt Nam biết kiên trì thực hiện cuộc cách
mạng văn hiến này thì đương nhiên họ sẽ làm
sống lại một dân tộc Văn hiến và sẽ dựng lại được một Quốc
gia Văn hiến.
Công việc của tất cả người Việt Nam ở hải ngoại
là tiếp
nối được cuộc chiến đấu trường kỳ của dân tộc. Nếu thế giới cần
biết đến người Việt thì không phải qua cuốn phim
phóng sự tuyên truyền mô tả cuộc chiến tranh được
mệnh danh là "Cuộc chiến mười
ngàn ngày" mà phải biết đến người
Việt-nam như một dân tộc văn-hiến, họ (người Việt Nam) phải chấp
nhận những thử thách lớn để khai thông con đường lớn cho
văn minh và sự tồn tại của nhân loại . Ðương
nhiên trong cuộc chiến đa diện này, đối phương (Duy vật
Cộng sản) sẽ không dễ dàng bị đánh thua ở chiến
trường Việt Nam, nhưng chúng sẽ thua ở mặt trận toàn cầu,
ngay thủ đô địa cực của chúng, vì sự thức tỉnh của
nhân dân các nước, khi loài người hiểu được
chữ "nhân bản" qua con đường "văn-hiến" . Nền văn-hiến
phát sinh từ bên trong con người, để hiến dâng cho
văn minh đích thực của loài người.
2.5 - BẰNG
CÁCH
NÀO TA CÓ THỂ
LÀM SỐNG LẠI MỘT DÂN TỘC VĂN HIẾN
Trước những cuộc tấn công liên tiếp của Bắc phương
và Tây phương qua bao nhiêu thế kỷ, nền văn hiến
Việt có còn không? Ðương nhiên nó
không thể hiện thực như một thế lực. Nó chỉ còn một
chỗ sống duy nhất và vững vàng nhất là trong
tâm hồn người Việt Nam mà thôi. Những người Việt Nam còn giữ được Văn hiến
Việt, còn giữ được Ðạo sống Việt, sinh phong Việt là
những người sẽ làm phục hồi một dân tộc Văn hiến.
Thế
giới
Cộng
sản
càng ngày càng tỏ rõ tham
vọng bành trướng chủ nghĩa và sự thống trị của họ
trên khắp địa cầu . Các chư hầu của Ðế quốc Cộng sản
luôn luôn kiêu hãnh với "Chủ nghĩa Mác
Lê bách chiến bách thắng". Trên thực tế chủ nghĩa Mác Lê quả
nhiên không phải là con dao cùn; nhưng
nó càng sắc bén thì máu và
nước mắt nhân loại càng chảy nhiều hơn để
đi tới một cuộc tận diệt không thể tránh được khi
các siêu cường tận dụng sức mạnh vật chất để chống lại sức
mạnh vật chất.
Như ta đã biết, Chủ nghĩa Cộng sản Duy vật là
kết tinh
của tinh thần triết học Duy lý Tây phương, nhưng nó
không bành trướng ở Tây phương được mà phải
mượn Bắc phương làm phương hướng tác hành, từ
đó tràn xuống phương Nam bằng chiến tranh giải
phóng, bằng chiến thuật biển người, bằng đàn áp
khủng bố, cá lớn nuốt cá bé để thanh toán
các cứ điểm của tinh thần nhân bản phương Nam. Việt Nam
là một điểm trọng yếu trong những cứ điểm đó, không
phải vì địa lý hình thể hay tài
nguyên vật chất, mà vì tinh thần văn hiến và
nền văn hóa Tiên Rồng là những ốc đảo đã
làm tươi mát cả một vùng Ðông Nam
Á.
Lịch sữ là một cuộc tái diễn những thử
thách
triền miên cho nhân loại . Không những tinh thần văn
hiến của Việt tộc một lần nữa phải lùi bước trước sức mạnh
võ trị Duy vật, mà biết bao nhiêu tinh hoa của
dân tộc Việt cũng phải quy phục và trở nên những
tín đồ mù quáng của Mác Lê.
Việt Nam, một dân tộc đã từng đại thắng cuộc viễn
chinh
của đế quốc Mông Cổ vào cuối thế kỷ 13, đã thua đế
quốc Cộng sản vào cuối thế kỷ 20. Thật sự chúng ta
đã thua đế quốc Cộng sản, nhưng đây chính là
cơ hội để dân tộc ta suy nghiệm lại những giá trị
thiêng liêng của một nền văn hóa Tiên Rồng,
của Ðạo sống Việt và cũng là cơ hội để người Việt Nam
thực hiện một cuộc cách mạng Văn hiến, mang tinh thần văn hiến
Việt Nam đi reo rắc khắp thế giới chứ không phải mang sự mệt mỏi
chán chường của những kẻ bại trận đi ăn vạ khắp nơi. Vì
đây đúng là một cuộc thử thách lớn; nếu
người Việt Nam biết kiên trì thực hiện cuộc cách
mạng văn hiến này thì đương nhiên họ sẽ làm
sống lại một dân tộc Văn hiến và sẽ dựng lại được một Quốc
gia Văn hiến.
Công việc của tất cả người Việt Nam ở hải ngoại
là tiếp
nối được cuộc chiến đấu trường kỳ của dân tộc. Nếu thế giới cần
biết đến người Việt thì không phải qua cuốn phim
phóng sự tuyên truyền mô tả cuộc chiến tranh được
mệnh danh là "Cuộc chiến mười
ngàn ngày" mà phải biết đến người
Việt-nam như một dân tộc văn-hiến, họ (người Việt Nam) phải chấp
nhận những thử thách lớn để khai thông con đường lớn cho
văn minh và sự tồn tại của nhân loại . Ðương
nhiên trong cuộc chiến đa diện này, đối phương (Duy vật
Cộng sản) sẽ không dễ dàng bị đánh thua ở chiến
trường Việt Nam, nhưng chúng sẽ thua ở mặt trận toàn cầu,
ngay thủ đô địa cực của chúng, vì sự thức tỉnh của
nhân dân các nước, khi loài người hiểu được
chữ "nhân bản" qua con đường "văn-hiến" . Nền văn-hiến
phát sinh từ bên trong con người, để hiến dâng cho
văn minh đích thực của loài người.
3 - MỘT NƯỚC VIỆT
NAM
VĂN HIẾN
3.1 - TINH THẦN VĂN
HIẾN
VIỆT NAM
Trong giai đoạn lập quốc với ý thức quốc gia còn
thô sơ chắc hẳn nền Văn hiến của ta mới chỉ được biểu lộ như một
Tâm thức hay một sinh thức dọn đường cho một cuộc phát
triển quốc gia xã hội lý tưởng. Đó mới là
tinh thần văn hiến chứ chưa có nền văn hiến thực sự. Tinh thần
văn hiến đó qua quá trình lịch sử của dân
tộc phải tranh đấu để sống còn đã ăn sâu vào
mô thức tổ chức xã hội để tạo thành một thể chế
chính trị đặc biệt của dân tộc ta, và đóng
góp lớn lao vào việc tạo dựng nền tự chủ. Từ đó
(thời kỳ dựng văn hiến), các chế độ của ta đã có
những đặc điểm khác hắn những thể chế quân chủ, phong kiến
trên thế giới. Ta cũng có vua, nhưng "Phép Vua thua lệ Làng".Ta
cũng
có
chế
độ
tập quyền, nhưng đồng thời cũng có Hội
nghị Diên Hồng mở rộng cửa cho dân chung lo việc nước. Ta
cũng có tứ dân: Sĩ, nông, công, thương; nhưng "Hết gạo chạy rông, nhất Nông nhì Sĩ
". Như thế chế độ vua chúa của ta
ngày
xưa, trừ một vài ngoại lệ đã được vay mượn của ngoại bang
như lệ phong tước, không phải là chế độ quân chủ
chuyên chế hay phong kiến. Ta có thể tìm thấy ở đấy
nhiều đặc điểm của một chế độ văn trị, một nền Dân chủ Văn Hiến
lấy Văn hiến làm gốc Tự chủ, làm nền tảng đại đồng,
và làm cốt tủy cho nền văn minh Việt tộc, nền văn minh
hòa nhập hai thể tính đối kháng Tiên
và Rồng, Tâm và Vật, đề cao Nhân tính
để tiến tới sự thành tựu niềm mơ ước của loài người: nền
Nhân bản nhân loại.
3.2 - SỨC MẠNH CỦA MỘT
NỀN
VĂN TRỊ
Khi nói đến một quốc gia Văn hiến, ta thường thấy lởn
vởn một
vài vấn đề về khả năng quốc phòng của nó, tức
là nghĩ đến vấn đề sức mạnh của một nền văn trị. Sức mạnh
là gì? Cái gì tạo nên sức mạnh cho
một người lính, một quân lực, một quốc gia ? Nền văn trị
có sức mạnh không?
Trước bết hãy xét đến sức mạnh của một người
lính . Câu nói "sức mạnh của
một người lính" dường như hoàn toàn
vô nghĩa nếu không đặt người lính ấy trong một tập
thể võ trang, một quân đội. Vậy người lính sẽ
có sức mạnh khi anh ta được trang bị võ khí
và ở trong một khối đồng đội được trang bị võ
khí...Nhưng giả thử người lính ấy được trang bị
khí giới đầy mình, nhưng đứng giữa một đám đồng
đội hốt hoảng bỏ chạy, tan rã và hỗn loạn thì liệu
anh ta còn giữ được sức mạnh hay không? Và giả như
một người lính được trang bị đầy đủ súng đạn nhưng
không được phép bắn, hay hơn nữa tự mình
không thấy có lý do để nổ súng vào
đối phương, hoặc tự mình thấy run sợ khi cầm một khí cụ
giết người, thì liệu anh ta có sức mạnh hay không ?
Vậy những yếu tố căn bản tạo thành sức mạnh cho một người
lính phải là Chính nghĩa và Tinh thần đồng
đội. Chính nghĩa tạo nên tinh thần chiến đấu và
ý chí quyết thắng. Sau những trang bị tinh thần ấy mới
đến những kỹ thuật tác chiến, trang bị võ khí.
Võ khí chỉ là những phương tiện cần thiết
mà không phải là sức mạnh . Sức mạnh chủ yếu vẫn
là ý chí của người xứ dụng võ khí.
Bây giờ hãy thử phân tích cái
gì tạo ra sức mạnh, cho một quân lực một chế độ? Tiền? –
có tiền, chúng ta chỉ mua được khí giới chứ
không mua được sức mạnh. Một núi xe tăng, chiến cụ của
quân lực Việt Nam Cộng Hòa còn chất đống như sắt
vụn, như củi mục. Ai bảo quân lực VNCH mạnh nhất nhì
Á Châu? Chắc chắn chúng ta đã thiếu một số
yếu tố quan trọng nào đó, nên ngần ấy trang bị chưa
đủ tạo thành sức mạnh. Nhận xét qua một số chế độ
tiêu biểu khác:
- Sức mạnh của Đức Quốc
Xã
đã được cấu tạo bởi chủ nghĩa Phát xít hiếu chiến
đề cao chủng tộc, bởi khả năng phát triển kỹ nghệ chiến tranh
trong niềm kiêu hãnh của dân tộc Ðức, bởi
tài chỉ huy và tổ chức của lãnh tụ Hitler
và những tướng tá của ông ta, bởi kỷ luật
thép và chính sách khủng bố tàn
sát đối phương kể cả dân chúng. Ðây
là cấu trúc tiêu biểu của sức mạnh Võ trị.
Không ai phủ nhận được sức mạnh khủng khiếp của một nền
võ trị, lúc bùng dậy có thể áp đảo
cả thế giới, như đã xảy ra trong đệ nhị thế chiến, như cuộc
xâm lược của Thành Cát Tư Hãn vào thế
kỷ 13. Nhưng sức mạnh võ trị là sức mạnh bạo phát
bạo tàn.
- So sánh Phát
Xít với chế độ Cộng sản đương thời , ta nhận
thấy hai chế độ chống đối lại có những điểm tương đồng. Cộng sản
lấy chủ nghĩa Mác Lê Nin "bách chiến bách
thắng" làm chủ lực. Họ đề cao lãnh tụ. Họ phát
triển võ khí chiến lược bằng tất cả khả năng thu
góp của nhân dân, phát triển tư tưởng "giải
phóng" để khống chế nhân loại. Họ tổ chức nhân
dân thành những cơ cấu chiến thuật áp dụng biện
pháp trừng phạt cứng rắn và tinh xảo để kiểm soát
từng cá nhân.Tuy nhiên nền võ trị của cộng
sản tinh vi hơn phát xít vì họ biết nấp sau tấm
bình phong "dân chủ pháp trị", ngụy trang dưới
chiêu bài "chiến tranh giải phóng nhân
dân", và áp dụng triệt để chính sách
kinh tế trị để kiểm soát nhân khẩu.
- Sức mạnh của Hoa-kỳ,
trái
lại
được
cấu
tạo bởi tinh thần luật pháp (kỷ luật)
và tư tưởng dân chủ (pháp trị). Chế độ dân
chủ Hoa-kỳ tôn trọng nhưng không tôn sùng
và đề cao lãnh tụ. Họ tin tưởng và hãnh
diện ở truyền thống lập quốc, ở tinh thần thượng tôn luật
pháp của toàn dân và ở tài
nguyên phong phú và khả năng phát triển kinh
tế kỹ thuật cao độ. Hoa-kỳ phát triển võ khí chiến
thuật và chiến lược như một phương tiện để hỗ trợ cho sức mạnh
pháp trị chứ không chủ trương chinh phục thế giới bằng
võ lực (chính sách Mỹ châu của người Mỹ
châu). Sức mạnh của quân đội Hoa-kỳ thể hiện qua tinh thần
kỷ luật cao độ và khả năng kỹ thuật cao độ. Nhưng như bản chất
của một xã hội tư bản, người Mỹ tin vào sự giàu
có của mình. Có tiền mua tiên cũng được,
nên họ không ngần ngại trước một cuộc mua bán đổi
chác có lợi.
- Tóm lại dưới quan niệm
võ trị thì
sức mạnh và phương tiện đã hòa nhập làm
một, và cứu cánh biện minh cho phương tiện, vì thế
họ triệt để xử dụng những phương tiện võ trị, khủng bố,
đàn áp. Con người trở thành vô tri và
một khối người giống như một khối sắt di động.
- Dưới các chế độ
dân
chủ pháp trị thì
sức
mạnh
pháp
trị
luôn luôn cần có phương
tiện võ trị để hỗ trợ mới đứng vững. Cho nên chính
quyền bảo vệ dân mà dân luôn luôn cảm
thấy mình bị áp bức, thiệt thòi. Đó
là điểm mâu thuẫn dễ bị khai thác.
Còn sức mạnh của một nền
văn
trị là gì? Ta không hình
dung được sức mạnh của một nền văn trị qua bộ quân phục,
không ước lượng được bằng một con số, vì đó
là sức mạnh văn hiến, lấy "tự chủ" làm gốc tự cường. Tinh
thần tự chủ là sức mạnh chủ yếu của dân tộc Việt Nam; thật
vậy, trước thời ông Bảo Đại nước ta chưa từng có một
đoàn quân chính quy mà chỉ có
dân quân và nghĩa quân. Thời Pháp
thuộc, trong giai đoạn toàn dân nổi dậy chống xâm
lăng, cụ Phan Bội Châu lúc đầu đã từng nhiệt liệt
cổ động phong trào Ðông-du, đưa du học sinh ra nước
ngoài học lấy những kỹ thuật tân tiến, những tư tưởng mới
của Tây phương để mang về cải tạo đất nước, phát triển sức
mạnh chống ngoại xâm. Thế rồi qua nhiều kinh nghiệm và sự
suy nghiệm, cụ mới nhận thấy sức mạnh đích thực đã bảo
tồn dân tộc qua mấy ngàn năm thử thách không
phải là ở vũ khí tân kỳ, không phải là
ở kỹ thuật tân tiến, mà chính là ở nền văn
hóa truyền thống của dân tộc, nền văn hóa bao gồm
một đạo sống sâu xa và một nền giáo dục đầy
tính quật khởi. Ðể nhắc nhở điều tri kiến ấy cụ đã
viết trong phần đề tựa của cuốn Chu Dịch: "Phật
trong
nhà
không
cầu
mà đi cầu Thích Ca
ngoài đường, trong túi mình có bảo
châu mà lại ngửa tay xin người từng hạt gạo; đó chả
phải là điều hết sức kỳ quái hay sao?"
Lấy sức mạnh văn trị làm chủ lực, nhờ "tự
chủ" ta luôn luôn làm chủ. Trong việc quốc
phòng, dù ta yếu cũng làm chủ, dù giặc mạnh
cũng vẫn là giặc mà thôi. Chủ rồi thì cũng
về nhà mình, giặc thì tất sẽ phải cuốn gói
ra đi. Nhờ tinh thần tự chủ từ phạm vi sâu xa của nhân
tính, ta đã mở rộng thành tinh thần quốc gia tự
chủ. Chính cái sức mạnh tự chủ không hình
trạng ấy, không đếm được bằng con số ấy đã bảo tồn
dân tộc Việt Nam qua hơn một ngàn năm Bắc thuộc, đã
dựng rừng gươm trên ải Chi Lăng, đan bể giáo dưới nước
Bạch Ðằng để giúp dân ta dựng cờ tự chủ. Sức mạnh văn
trị đã đào tạo nên một lớp kẻ sĩ Việt Nam
không xuất thân từ một trường võ bị nào
mà có thể chiêu mộ nghĩa binh, cầm quân trăm
vạn cứu nguy xã tắc. Xã hội ta lấy nông nghiệp
làm căn bản. Kẻ sĩ và nhà nông là một
kết hợp hoàn hảo. Chưa có một nông dân
nào bán nước, chưa có một kẻ sĩ nào chịu
khuất phục kẻ thù, trừ lớp khoa bảng đội lốt kẻ sĩ. Kẻ sĩ biết "lấy chí nhân thay cường bạo"
làm sức mạnh, kẻ sĩ có "binh
giáp tàng hung trung" làm khí giới.
Ðã có sức mạnh và làm chủ được sức mạnh
của mình thì có thể xử dụng mọi phương tiện
mà vẫn không rời "đạo",
từ
phương
tiện
văn
trị (giáo hóa), đến pháp trị
(trừng phạt) và võ trị (hủy diệt).
- Tóm lại, sức mạnh văn
trị
là sức mạnh tự chủ, có tự chủ thì
sẽ tự cường, có sức mạnh thì dù chưa có
phương tiện ta sẽ tạo ra phương tiện, còn không có
sức mạnh thì phương tiện tốt cũng trở thành sắt vụn đồng
nát mà thôi.
Sự sai lầm căn bản trong cuộc chống cộng của chế độ Cộng
Hòa
Việt Nam là không lưu tâm đến sức mạnh văn trị "tự chủ", không phát triển uy đức
của sức mạnh văn trị, mà chỉ tin vào uy lực pháp
trị, người lãnh đạo quan niệm chính trị là thủ
đoạn, và tệ hại hơn nữa đã đồng hóa sức mạnh chống
Cộng của toàn dân với phương tiện tức là võ
khí. Thành lập quốc gia trên nền tảng pháp
trị thuần túy Tây phương làm cho dân tộc mất
tự chủ. Xử dụng phương tiện võ trị (trả thù, đàn
áp…) để hỗ trợ nền pháp trị làm cho chế độ mất
chính nghĩa. Lầm tưởng phương tiện (võ khí trang
bị) là sức mạnh tạo cho bọn lái buôn tư bản
có cơ hội lũng đoạn sức mạnh cứu nước của dân tộc Việt để
rồi bán đứng Việt Nam Cộng Hòa cho Cộng sản quốc tế. Khi
ta trở thành món hàng trao đổi bị coi rẻ,
thì cả một quân lực được gọi là mạnh nhất
nhì Á Châu theo quan niệm lượng giá bằng vật
chất của Tây phương, chỉ còn một cách duy nhất
là quăng võ khí mà chạy tháo
thân. Võ khí lúc đó là
gì? là củi mục? là sắt vụn, đồng nát? Bởi
vậy, trong cuộc chiến đấu cuối cùng với giặc Cộng để giải trừ
Cộng sản và giải phóng quê hương ta không thể
tự cho phép sai lầm một lần nữa, lầm lẫn phương tiện với sức
mạnh và sức mạnh văn trị của dân tộc với sức mạnh
xâm lược võ trị của kẻ thù.
3.3 -CHIẾN ĐẤU
CHO MỘT
NƯỚC VIỆT NAM VĂN HIẾN
Nền văn hiến Việt đã và đang bị thử
thách,
và hầu như bị chôn vùi dưới những tầng quên
lãng của kỷ nguyên "vật hiến"
này. Dựng lại một nước Việt Nam Văn Hiến ta sẽ không
tránh được những thử thách mới, vì thế phải sẵn
sàng tinh thần chiến đấu.Trong tất cả các cuộc chiến đấu,
bạn và thù vẫn thường được xác đinh rõ rệt.
Cuộc chiến đấu phục hồi nước Việt Nam Văn Hiến cũng không
ngoài quy luật đó. Tuy nhiên bạn và
thù không phải là những ý niệm tuyệt đối.
Phục hồi một nước Việt Nam Văn Hiến trong tinh thần hiến dâng cho
văn minh nhân loại, ta nhìn "kẻ
thù" khác hơn là tất cả những con người
đang bị trói buộc trong những quy ước chằng chịt của đối phương,
và nhìn "bạn" rộng hơn đồng
thời cũng tinh vi hơn tầm mức hạn hẹp của phe nhóm. Người bạn
và người đồng minh đáng tin cậy không phải
là người có thể bán ta bất cứ lúc
nào có lợi, không phải là người sẵn
lòng ban bố cho ta vừa đủ quân nhu võ khí để
trang bị cho một đoàn lính đánh thuê trong
giai đoạn.
Người bạn của dân tộc ta phải là người thể hiện
được
tinh thần văn hiến, tức là thể hiện được Tình người
và Nghĩa làm người trong cuộc chiến đấu chung. Còn
kẻ thù chính là tinh thần "vật
hiến", là gông cùm duy vật đang tròng
lên đầu lên cổ một phần lớn nhân loại, kể cả những
dân tộc không thuộc vào khối duy vật Cộng sản. Nếu
muốn triệt hạ cái gông đó mà giết người mang
gông thì không khỏi oan uổng. Nhưng nếu không
chấp nhận một sự hủy diệt thì làm sao mở trói cho
những người khác? Tấn công vào thành
trì duy vật là một vấn đề tế nhị vì nó
là một thực thể không biên giới. Vậy trước khi
nói chuyện hủy diệt ta hãy bàn chuyện cứu người.
Những người cần phải cứu đầu tiên là những người duy vật.
Cứu những người duy vật để cứu đồng bào ta đang bị duy vật Cộng
sản chà đạp, cũng như đã từng bị duy
vật
Tư
bản thao túng bán đứng.
Thoạt nghe nới "Hãy cứu những
người duy
vật" chắc hẳn chúng ta sẽ giật mình, vì
nó có vẻ ngô nghê và phản thực tế!
Nhiều người Tây phương lái xe trên đường phố
dán trên kính xe của họ câu "Save the Dinosaur". Dinosaur là
loài khủng long đã từng sống trên trái đất
hàng trăm triệu năm trước lịch sử loài người, ngày
nay những nhà khảo cổ chỉ tìm thấy những di tích
hóa thạch, phải xứ dụng đến đồng vị Phóng xạ để đếm tuổi
của nó. Tại sao cứu con Dinosaur? Và làm sao cứu
con Dinosaur? Ðây là một lối vui đùa của người
Tây phương, để kêu gọi cứu vãn những gì chậm
chạp vĩ đại nhất! nhưng con khủng long chậm chạp thời thái cổ
làm ta liên tưởng tới con Rồng thiêng của huyền
thoại Việt. Rồng là tượng trưng cho sức mạnh bền bỉ, là
tiềm năng của Ðịa (tiên tích Ðức, hậu tầm Long).
Ta không sợ con Rồng Việt lâm nguy, con Rồng thiêng
ấy vốn bất tử vì nó tiềm ẩn trong sự sống của con người
(Người là hòa thể Tiên Rồng), trong sức sống của
dân tộc ta và của chính chúng ta. Nhưng cần
cứu nó, thực vậy, vì con Rồng thiêng ấy đang gặp
hội vùng vẫy trên mây và tưởng mây
là Trời. Mây chỉ là áng phù
vân, là một kết tụ nhẹ của vật chất, là tinh thần
chuộng vật chất. Vì thế Rồng chưa gặp được Tiên,
Thiên chưa bén Ðịa, đường "Giao
Chỉ" chưa nối, và loài người chưa tìm được
bản tính con người !
Bởi thế tiếng kêu cứu của chúng ta là:
Hãy cứu lấy con Rồng Việt khỏi đám phù vân
duy vật để cứu lấy nhân tính.
Làm sao cứu lấy con Rồng Việt? Cứu Rồng thì phải
có " thuốc Tiên ", hay nói cách khác,
muốn cứu vãn cơn đổ giốc " vật hiến " thì phải dựng " văn
hiến ". Phải vững tin vào những bước tiến của nền nhân bản
thực sự của loài người để dựng lại nước Việt Nam Văn Hiến cho
dân tộc Việt Nam Văn Hiến, và khởi xướng nền Dân Chủ
Văn Hiến, mở lối thoát cho cộng đồng nhân loại đang
chìm đắm trong những ý niệm của cuộc tranh thủ triền
miên cho Quyền và Lợi.
Có thể cứu bằng cách nào nữa không ?
Nhà thơ "Ngục sĩ " Nguyễn Chí Thiện viết về sự hung bạo
của lũ người trót thờ tà thuyết Cộng sản duy vật
mà ông ta là nạn nhân cả một kiếp sống như
sau:
Ðừng sợ
cái
cực kỳ man rợ
Dù nó đang thịnh thời rực rỡ nơi nơi
Phải vững tin vào bước tiến con người.
Phải cứu lấy chúng nó, phải tìm ra một phương thuốc
Dù là thuốc Nổ.
(Ðừng sợ, N. C. T. 1975)
Thuốc Tiên hay thuốc Nổ? Cả hai đều cần thiết, vì
nó là sức mạnh và phương tiện, sức mạnh văn trị
và phương tiện võ trị. Con đường chiến đấu của
chúng ta cho một nước Việt Nam Văn Hiến phải được soi
sáng bằng đạo sống Tiên Rồng Việt, bằng những giá
trị đạo đức của nền văn hiến, văn trị Việt; nhưng có thể phải
được mở lối bằng thuốc nổ và sức con người.
PHẦN
TẠM
KẾT
Ðể kết thúc đề tài này, chúng
tôi xin thêm vài lời về vấn đề "Chính
nghĩa". Chữ chính nghĩa đã trở thành thời
trang trong thế kỷ đầy tranh đấu sắt máu của chúng ta. Ai
cũng nói đến chính nghĩa. Những thế lực cường bạo phi
nhân lại nói chính nghĩa nhiều nhất. Bởi vậy chữ
chính nghĩa đã mất hết nghĩa của nó.
Chữ chính nghĩa
đã mất hết ý nghĩa, nhưng "chính
nghĩa" thì vẫn còn ý nghĩa. Vì mất
chính nghĩa là mất sức mạnh chiến đấu. Giả thử nếu ta chỉ
biết nhắm mắt tận diệt đối phương trong cuộc chiến đấu này, cũng
như người Cộng sản chỉ biết nhắm mắt bắn giết và triệt hạ
cái mà chúng gọi là " Ngụy ", thì cả
hai bên đều xứng đáng với chữ " ngụy ". Vì thế
chúng ta vẫn còn bàn đến chính nghĩa.
- Chính nghĩa
chỉ có thế hiểu được nếu trong cuộc chiến đấu này
chúng ta giành được thế Tự chủ, tức là dành
được tư thế " Chủ " và phanh phủi được bản chất " Giặc " của
giặc Hồ, của đảng cướp Cộng sản Việt Nam, tay sai của đế quốc Cộng sản
quốc tế.
- Chính nghĩa
chỉ có thể nghe được, nếu chúng ta không phản bội
niềm reo vui "Bốn ngàn năm văn hiến" của tổ tiên
còn vang vọng.
- Chính nghĩa
chỉ có thể cảm được, nếu chúng ta biểu lộ được cái
uy đức của nền văn trị Việt trong cuộc cứu nước bằng mọi phương tiện
có thể có.
- Chính nghĩa
chỉ có thể chấp nhận được nếu chúng ta không xa
lìa thực tế và đồng thời không bỏ quên những
giá trị cổ truyền.
Vì những lẽ đó, và vì tin tưởng ở
những
bước tiến của dân tộc, của nhân loại, chúng ta
đã không ngần ngại dấn thân vào cuộc tranh
đấu và chiến đấu cho một nước
Việt Nam Văn Hiến. Chúng tôi tin tưởng
rằng nước Việt Nam Văn Hiến là Tụ
Ðiểm Sinh Tồn của dân tộc chúng ta,
vì nó dựng được tinh thần tự chủ của dân tộc ta,
nó làm vang dội tiếng reo vinh quang nhất của dân
tộc ta, nó làm cho người Việt sống thực với đạo đức
và niềm an lạc của nền văn hiến Việt. Thế kỷ 20 không
còn là kỷ nguyên của tinh thần võ trị. Bạo
lực Cộng sản và chủ thuyết duy vật của nó tất phải bị hủy
diệt hoặc suy thoái, nhường chỗ cho nền dân chủ thực sự
của thế giới. Nhưng nền dân chủ pháp trị cần được soi
sáng dưới tinh thần văn hiến, thì dân tộc mới được
an lạc và thế giới mới được hòa bình, nhân
loại mới hưởng được ánh sáng văn minh.
*****
chuongII
CHƯƠNG II
GÁNH
NẶNG
ĐƯỜNG
XA
ĐOẠN ĐƯỜNG THỨ
NHỨT:
Yêu nước
Từ lúc tâm hồn còn vô tư chưa
có
ý thức về trách nhiệm với quốc gia và đồng
bào, đến khi nấy nở tình yêu nước và thể
hiện tình yêu nước ấy bằng hành động là một
đoạn đường xa. Kẻ có lòng với nước như lữ khách,
gánh trên vai cả một gánh nặng Tình
và Nghĩa. Tình với non sông, Nghĩa với đồng
bào. Vì yêu nước biết bao nhiêu người
đã dám chết cho Tổ Quốc. Chết cho Tổ Quốc quả là
nghĩa cử đáng tôn vinh, là những tấm gương rạng
ngời hàng ngàn thế hệ. Thế nhưng điều mà Tổ Quốc
cần hơn và mong mỏi hơn có lẽ, là những người biết
sống và dám sống cho Tổ Quốc.
Tình yêu là một trong
những
khí giới tối thượng của loài người. Người biết thương
biết yêu nên phát sinh ý chí và
sức mạnh để bảo vệ cái đối tượng của tình yêu ấy.
Nhưng cũng vì cái bản năng thương yêu mà
người có khuynh hướng chiếm đoạt, cho dù phải chết
vì làm việc chiếm đoạt. Yêu thương là nguồn
của sự sống. Biết sống cho mình và cũng cho người
khác được sống mới là biểu lộ của thương yêu,
là phát biểu trọn vẹn của nhân tính. Giơ tay
hái một bông hoa hương sắc bên đường không
phải là thương yêu, mà chỉ là phát
biểu của bản năng chiếm hữu. Hành động yêu nước cũng vậy.
Trong lịch sử nước ta có những người tài cao
chí cả, học rộng biết nhiều, hiểu biết lẽ "Dân
vi
quý,
xã
tắc
thứ chi, quân vi khinh" nhưng
chỉ vì quá trọng cái địa vị, quá yêu
cái xã tắc mà mang trọng tội với nước với
dân.
Nhà Trần mất vì Hồ Quí Ly thoán
đoạt. Hồ
Quí Ly là người tài trí phi thường, chỉ
vì tham lợi tranh quyền, muốn canh tân đất nước mà
làm mất đất nước. Trần Thiêm Bình là hậu duệ
nhà Trần, sang Tàu kêu van với vua nhà Minh
xin đem binh về đánh Hồ báo thù mới tạo nên
cái cớ cho bọn Trương Phụ, Mộc Thạch kéo quân
vào bờ cõi dầy xéo, bóc lột, tàn
sát dân ta, nỗi thống khổ oan khiên không
bút mực bào tả xiết. Nếu không có người
nông dân Lê Lợi nuôi chí bất khuất khởi
nghĩa cứu nước thì từ đầu thế kỷ 15 đen tối ấy, không biết
đến bao giờ dân ta mới ngóc đầu lên được. Cuối đời
Lê lại có Chiêu Thống cùng bọn thuộc hạ sang
Tàu làm thân lữ khách qụy lụy cầu cứu
nhà Thanh để đòi lại nước. Vua nhà Thanh
nhân dịp ấy mới mượn tiếng cứu nhà Lê, sai bọn
Tôn Sĩ Nghị mang quân vào Thăng Long để mưu chiếm
lấy nước ta. Cái họa Bắc thuộc gần kề, may nhờ có vị anh
hùng Tây Sơn Nguyễn Huệ một trận oanh liệt đại phá
20 vạn quân Thanh, dân tộc ta mới giữ được nền tự chủ. Sau
lại đến Nguyễn Ánh nuôi chí nhất thống sơn
hà, mượn quân Xiêm La về đánh Tây Sơn
rồi nhờ Bá Đa Lộc mang Hoàng tử Cảnh sang cầu viện người
Pháp. Vua Gia Long thống nhất được đất nước, gọi Tây Sơn
là "ngụy", nhưng cái họa gần
100 năm nô lệ thực dân Pháp sau này ai
gánh vác?
Trường hợp Hồ Chí Minh rõ rệt hơn nhưng cũng
oái ăm hơn. Hồ Chí Minh tức Nguyễn ái Quốc, trong
dịp kỷ niệm 70 tuổi của y tại Hà Nội đã thú nhận
rằng hành động của mình lúc đầu là
vì "chủ nghĩa yêu nước".
Vì yêu nước (hãy tạm coi đó là
yêu nước) và chưa biết làm sao tranh thủ cái
đối tượng mình yêu trong tay thực dân Pháp,
nên Hồ bắt chước những nhà ái quốc đương thời,
tìm cách lẻn ra hải ngoại để học bài học cứu nước
và trở thành đệ tử của Lê Nin ngay khi đọc xong bản
Luận Cương Cộng Sản:
"Người đọc Luận cương rồi bật
khóc
Lệ Bác Hồ rơi xuống chữ Lênin (!)"
Từ đó, vì yêu nước họ Hồ đã trở
thành nhân viên của sở phản gián Nga;
vì yêu nước họ Hồ đã ngầm bán cụ Phan Bội
Châu cho Thực dân lấy mười ngàn đồng bạc
Ðông Pháp và thủ tiêu hầu hết những thanh
niên yêu nước tốt nghiệp trường quân sự Hoàng
Phố (Trung Hoa) trên đường về quê hương hoạt động chống
Pháp; Vì yêu nước họ Hồ đã hành động
không mấy khác Trần Thiêm Bình, Lê
Chiếu Thống, mượn chủ thuyết Mác Lê Nin và thế lực
Cộng sản quốc tế để chiếm đoạt cái đối tượng mình thương
yêu; nhưng nham hiểm hơn, họ Hồ đã mượn tiếng nói
và mượn tay những người quốc gia yêu nước để triệt hạ
những người quốc gia yêu nước trong cuộc tranh thủ ấy. Sau
này Hồ đã thú thật, mới đầu thì do tình yêu nước đấy
(Hồ gọi là chủ nghĩa yêu nước), nhưng sau thì do sự
nghiền ngẫm sâu xa chủ nghĩa Cộng sản duy vật, Hồ và đồng
bọn đã tìm thấy ở đấy một hình ảnh tối thượng, một
đối tượng còn cao
hơn
Tổ
quốc, còn rộng hơn nghĩa đồng bào, còn sâu hơn
tình dân tộc ruột thịt. Cho
nên Tổ quốc và đồng bào dưới tay Hồ đã trở
thành những công cụ vô tri cho phong trào
Cộng sản quốc tế. "Yêu nước
là yêu Xã hội chủ nghĩa", với định
nghĩa ấy họ Hồ và đồng bọn đã trút sạch
gánh nặng Tình và Nghĩa với non nước, với đồng
bào để biến phong trào Việt minh trở thành bọn
giặc Hồ, bọn giặc Minh ủy nhiệm. Những người "yêu nước" ấy đã
trút xong gánh nặng, đáng lẽ không nên
nói tới nữa, nhưng đó là câu chuyện
nên luôn luôn nhắc nhở trên đường xa
gánh nặng để phân biệt Yêu
nước và Cứu nước:
Yêu
nước,
cứu
nước hai cái khác
Yêu là đam mê, cứu là gánh vác.
ĐOẠN ĐƯỜNG THỨ
HAI:
Gánh nặng
cứu nước.
Nhà nước Cộng sản lập ra rất nhiều đoàn thể lấy tên
là các Hội Yêu nước. Người Việt chống cộng ở hải
ngoại cũng có rất nhiều hội đoàn yêu nước. Vậy biết
ai là người cứu nước?
Từ hành động yêu
nước
đến hành động cứu nước là một
quãng đường xa. Con đường hành động của người Việt Nam
yêu nước nếu không được hướng dẫn bởi ý thức cứu
nước, được tôi luyện qua các giai đoạn lịch sử, nếu
không được trải bằng hạnh hy sinh, không được soi bằng đạo
sống Việt thì chỉ là những "đường đi không tới" Biết
bao nhiêu công dân Việt ưu tú hiện giữ những
chức vị trọng yếu trong hàng ngũ Cộng sản Việt Nam đang cười đau
khóc hận trên quãng "đường đi
không tới" ấy!
Thế giới không có một trường học nào dạy
cứu
nước cả. Hồ Chí Minh lúc còn trẻ tuổi là
một người "yêu nước" quá lanh
lợi, cho nên ngay khi lẻn ra hải ngoại để học bài cứu nước
đã tìm ra được một "ông thầy
phi thường", dạy lấy chân làm đầu, lấy đầu
làm cái để đi, lấy vật làm chủ, dạy nắm lấy bao tử
(dạ dầy) nhân dân để điều khiển bộ óc con người, dạy
lấy căm hờn, sắt máu làm động cơ, làm sức mạnh
và phương tiện cứu nước! Vì thế mà dù cho "Sông có thể cạn, đá có thể
mòn" nhưng con đường mòn Hồ Chí Minh chắc chắn đi
mãi cũng không bao giờ tới vinh quang tự chủ dân tộc
được, chỉ có máu và nước mắt của đồng bào
mà thôi.
- Vậy thì ta học
bài
học cứu nước đâu? - Xin thưa, ở Tổ tiên.
Hơn bốn mươi thế kỷ trước họ Hồng Bàng khai sáng
nước
Văn Lang; tổ tiên trăm họ Việt chúng ta đã chiến
đấu để gây dựng và bảo vệ nước Văn Lang văn hiến. Ðức
Phù Đổng nhổ tre đuổi giặc, dạy con cháu lấy ý
chí dân tộc tự chủ và tài nguyên quốc
gia làm căn bản cho đạo quốc phòng. Vua Thục An Dương
Vương cậy có nỏ thần, thành chắc, tức là dựa
vào sức mạnh bên ngoài và sức mạnh vật chất
mà mất nước. Đó là những bài học khai
tâm. Hơn bốn mươi thế kỷ, đã có biết bao bài
học cứu nước …
Vậy thì trên con đường cứu nước, ngoài "Tình sâu, nghĩa nặng",
người
ta
phải
gánh
trên vai thêm gánh nặng "ý
thức cứu nước"
và "Ý thức về sự hy sinh
cứu nước" chứ không phải những đam mê
lãng mạn của một cuộc thay cũ đổi mới kiểu cách mạng
mùa thu: Cách mạng vô sản biến con người
thành chó sói biết "phanh
thây uống máu quân thù"!
ĐOẠN ĐƯỜNG THỨ BA
:
Thành tựu
việc cứu nước.
Gánh thì nặng, đường thì xa, biết lấy
gì
làm niềm tin mà mạnh tiến?
- Phải vững tin vào bước
tiến
con người.
Ðây là câu trả lời xác
đáng
nhất. Bước tiến của loài người đã được chính Duy
Vật sử quan mô tả bằng những chứng tích cụ thể. Thế kỷ của
chúng ta là thế kỷ chói sáng của nền văn
minh vật chất với những phát triển tột bực về năng lượng, về kỹ
thuật, với sự bành trướng tột độ của hai chủ thuyết cùng
huyết thống, cùng thứ loại là Cộng sản duy vật và
Tư bản duy lợi. Nhìn theo sử quan duy vật và nói
theo biện chứng duy vật thì hai sức mạnh chủ yếu ấy tất phải
xung đột và tiêu diệt lẫn nhau để làm sinh ra một
thực thể thứ ba nào đó, không biết. Làm sao
ta biết được con gà con khi nở ra từ một quả trứng sẽ là
một sinh vật dễ thương hay sẽ là một con gà què,
một quái trạng? Ta không đủ căn cớ để tin vào một
lời biện chứng như vậy, nhất là biện chứng ấy lại xây dựng
trên những chuỗi dài của những căm thù, xung đột
và hủy diệt. Nhưng chúng ta có thể vững tin vào bước tiến con người,
vì
người
là
sinh
vật có hai chân để tiến về
phía trước, có hai mắt để nhìn về phía
trước. Và đơn giản như vậy, như
hai hơi thở ra và vào giữ gìn mạng sống, như hai
bàn chân đẩy guồng máy hoạt động,
nền văn minh vật chất và nền văn minh tâm linh phải ngẫu
hợp với nhau và trở thành ngẫu lực tiến hóa để
thành tựu nền văn minh nhân tính.
Nhân loại đang chuyển mình để bước từ kỷ
nguyên
văn minh vật chất sang kỷ nguyên văn minh nhân tính,
và các chế độ vật bản sẽ phải thay đổi lông, đổi
cánh, chuyển hồi tâm tính để bước sang thời đại văn
hiến mới của nhân loại.
Suy nghiệm lại con đường dài của hơn 40 thế kỷ qua, tất
cả
những nỗ lực, những xương máu, những thành bại của tiền
nhân đều là những minh chứng để cho thế hệ chúng ta
xác tín một điều duy nhất là phải lấy ý thức tự chủ
làm nền tảng để xây dựng một quốc gia văn hiến.
Nhìn lại những quá trình tranh đấu ấy, ta thấy
trong lịch sử văn hiến Việt bị thử thách nặng nề bởi xâm
lược phương Bắc thì phần lớn nhân loại vẫn ở trình
độ phong kiến. Từ thế kỷ 19, thế giới thực sự bước vào ngưỡng
cửa của nền văn minh vật chất với các cơ chế chính trị
đặt nặng trên cuộc tranh thủ quyền và lợi, thì
ý thức văn hiến càng mờ nhạt. Ta không tìm
thấy ở hầu hết các phong trào chống thực dân phương
Tây một ý thức tự chủ rõ rệt nào cả,
mà chỉ thấy thấp thoáng những chủ thuyết Tây
phương, những bản Tuyên ngôn Ðộc Lập đầy mỹ từ
và đầy tính sắt máu.
Đến chặng cuối thế kỷ 20 này, khi thế giới đã
mỏi
mòn vì hiến dâng cho văn minh vật chất, người ta
mới ơi ới gọi nhau để trở về nhân bản. Ðây là
lúc thức giấc của loài người để bước vào nền văn
minh mới: Văn minh nhân tính.
Nói
theo
duy
vật
sử quan thì đây là một bước
tiến vòng trôn ốc theo chu trình tiến hóa,
và vì thế thì " trở về nhân bản " hay " tiến
tới văn minh nhân tính " cũng đồng nghĩa. Cho nên
cát bụi phải trở về cát bụi, các chế độ duy vật
tất sẽ phải tự giải trừ, rũ bỏ những lớp áo phong sương vay
mượn, để hòa mình vào cuộc tiến hóa ấy.
Còn nền văn hiến Việt đã sẵn có một cơ sở
nhân tính, đó là Ý
thức
tự
chủ, tự chủ từ tâm thức mở rộng ra tầm
kích quốc gia; nhưng nó đã mất một phần lớn năng
lực hoạt động trong những lớp lớp vòng đai duy vật. Cho
nên cuộc chiến đấu cho một nước Việt Nam ngày nay vẫn
là cuộc chiến đấu cho một nước
Việt Nam Văn Hiến để khôi phục năng lực tiến
hóa. Người chiến sĩ trên đường cứu nước như thế phải
là một chiến sĩ văn hiến, nghĩa là ngoài
gánh nặng trên vai còn phải mang nhân
tính trong nhân thể, chứ không phải là những
con quỷ đỏ đòi nợ máu. Đó là tiếng
réo gọi của đạo sống Việt, của đạo sống loài người.
Ðạo sống Việt
là đạo sống Tiên Rồng lưỡng hợp hòa đối. Ðạo
sống ấy khai thị bốn đức tính căn bản Nhẫn
,
Cẩn,
Kính,
Hòa từ những cơ sở nhận
thức: thân thức, ý thức, trí
thức và tâm thức.
1 - Rồng là tiềm năng của dân tộc, là
khí
thiêng sông núi kết tụ. Lúc vị ngộ rồng uốn
khúc nằm ao tù, rồng ẩn sâu trong mạch đất (Long
mạch tiềm ẩn) ấy là đạo Nhẫn.
Người
làm
việc
cứu
nước lấy nhẫn làm gốc, biết
gánh trên vai cả một núi những khinh khi, nhục mạ
cũng thấy nhẹ như những ca ngợi, thôi thúc, mới mong
làm nên việc… Nhẫn là căn bản của đạo sống Việt:
một sự nhịn chín sự lành. Nhẫn là thu mình
lại để nuôi ý chí, tích lũy tiềm năng. Bốn
mươi năm bị Cộng sản lừa gạt, bóc lột, đàn áp,
toàn dân ta đã biết nhẫn nhục để chờ một
ngày quật khởi, thì mười mấy năm lưu vong của người Việt
ở hải ngoại mới chỉ là một giai đoạn thử thách ngắn ngủi
để học chữ nhẫn. Rồng ẩn càng sâu thì bay lên
càng cao.
2- Rồng gặp mây là lúc thỏa chí vẫy
vùng, là lúc đắc ý nhất. Nhưng đây
chính là lúc phải cẩn trọng nhất. Người cầm
quân chỉ thường thua trận đúng lúc tưởng
mình đang đắc thắng; người ta chỉ ngộ nạn ngay khi tưởng mọi sự
đều an toàn, không ngờ đến những cái bất ngờ. Cẩn
tắc vô ưu người đánh trận thắng không kiêu,
bại không nản; biết mình biết người... Người làm
việc cứu nước không thể bắt chước những phường tiểu nhân
đắc chí. Gần đây người ta nghe nói đến những tập
hồi ký "Kết thúc trận chiến tranh
ba mươi năm" của Trần Văn Trà, tập "Ðại
thắng
mùa
xuân" của Văn Tiến Dũng, nội dung
là những giọng khoe khoang quá lố của những kẻ
không ngờ là mình thắng, ít nhất cũng
không ngờ là mình lại thắng lớn đến thế. Kết quả
là những cái mâu thuẫn của sự khoe khoang đã
đưa tướng Trà về vườn và đưa Văn Tiến Dũng kẻ thắng trận
của truyền thống "nhất tướng công
thành vạn cốt khô" lên ngôi người
hùng của quân đội nhân dân Việt cộng.
Thái độ đắc chí là mầm của tai họa. Cái họa
cho mình là họa nhỏ; họa cho dân tộc mới là
họa lớn. Ấy là đạo Cẩn
của đạo sống Việt.
3- Rồng không phải chỉ bay lên mây để vẫy
vùng đắc chí trong đám phù vân vật
chất, mà còn phải bay cao hơn nữa. Rồng phải gặp
Tiên.
Cộng sản chiếm miền Nam Việt Nam là Cộng sản thắng,
là
nhân dân miền Nam thảm bại và nhân dân
miền Bắc chua xót. Kẻ thắng trận thỏa chí bóc lột,
đàn áp, trả thù. Người thua trận âm thầm
nhịn nhục. Giả thử nếu là một cuộc chiến đấu cho dân tộc
thì tại sao dân tộc ta lại có người nhục kẻ vinh?
Cuộc chiến đấu cho một nước Việt Nam văn Hiến là cuộc chiến đấu
cho toàn dân, không phải cho một nhóm, một
phe đảng, hoặc cho một thế lực quốc tế như kiểu đế quốc Cộng sản hay đế
quốc Tư bản. Cho nên khi thắng, là toàn dân
cùng thắng, nếu bại là toàn dân cùng
thất bại. Người làm việc cứu nước biết đau xót với
cái thất bại của toàn dân ngày nay, để biết
kính trọng cái phút vinh quang của cả dân
tộc mai sau mà xóa tan các dị biệt. Ấy là
đạo Kính của đạo
sống Việt: Trên kính dưới nhường.
4- Cứu cánh của đạo sống Việt là đạo Hòa, Tiên Rồng
lưỡng hợp, hòa thể. Tiên và Rồng sinh thành
ra Việt, nhưng khi đã tạo thành Việt thì
không còn phân biệt Rồng và Tiên. Tất
cả đều là anh em trong cùng một bọc mẹ " xung khí
dĩ vi hòa "; sau chiến tranh chỉ có thanh bình,
chỉ có an lạc, chỉ có anh em; lẽ nào còn kẻ
thắng người thua, kẻ hơn người kém, kẻ bóc lột đàn
áp và người bị bóc lột đàn áp? Chữ
đồng bào là ý nghĩa đạo hòa trong việc lạc
quốc an dân, là đối tượng của việc cứu nước.
Thân nhẫn, ý cẩn,
trí kính, tâm hòa; người
làm việc cứu nước có thể mang theo ngần ấy trang bị
cùng với những gánh nặng trên đường chiến đấu cho
an lạc của trăm họ Việt hay không?
Người Ghi Chép chỉ xin dâng lên một
vài
ý kiến
Thứ nhất - Gánh
còn
nặng, đường còn xa, xin hãy cùng
nhau lắng tâm suy nghiệm để làm sáng nghĩa chữ "yêu nước" từ lâu đã bị bọc
kín trong những cái túi nhung túi gấm. Rồi
nhân những phút lắng tâm ấy, có lẽ
chúng ta mới vỡ lẽ hai chữ Tự chủ nó khác với hai
chữ Ðộc Lập đã được xướng lên từ Mười Hai Sứ
Quân thời nhà Ngô, trong giai đoạn đầu mong manh của
nền tự chủ nước nhà; và gần đây hơn đã được
đọc trong bản Tuyên-ngôn Ðộc-lập ở Ba Đình trong
thời quốc tế cộng sản tràn vào Việt Nam. Ý thức tự
chủ khởi từ Tâm, không phải từ một tham vọng. Từ tâm
thức tự chủ ta mới mở rộng ra thành ý thức dân tộc
tự chủ để cùng dân tộc quy tụ vào một nền văn hiến
mới, một nước Việt Nam Văn Hiến mới để cùng thế giới tiến bước
vào kỷ nguyên văn minh nhân tính mới.
Đó là vấn đề thuộc chiến thuyết.
Biết lấy tâm làm khởi điểm tức là lấy tự
chủ
làm gốc mọi hành động ta mới có được "chân cứng đá mềm, chí bền
dạ sáng" để cứu nước. Người xưa lấy "tâm công" đánh
giặc, đem đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân
thay cường bạo để đuổi giặc Tàu xâm lược; Nay chúng
ta cũng nên lấy "công tâm"
làm
phương
sách
căn
bản của chiến-thuyết dân-tộc để
đánh đuổi bọn thái thú ủy nhiệm giải cứu
toàn dân. Nhưng làm sao đánh vào
lòng người mà không đánh vào vết
thương của dân tộc?
Giặc "nhất trí" củng cố,
bành trướng tà thuyết Mác-lê . Ta "Đồng Tâm" dựng đạo sống Việt.
Giặc lấy "chiến tranh giải phóng"
lấy
"đấu tranh giai cấp" để thống trị
nhân dân, thành lập nước Xã hội Chủ nghĩa để
tiến tới Cộng sản chủ nghĩa đại đồng duy vật; Ta lấy "đại nghĩa phục quốc" và "bọc mẹ trăm con" để giải cứu toàn
dân, dựng lại nước Việt Nam Văn Hiến mới, để cùng thế giới
tiến tới văn minh nhân bản hòa đồng.
Tổ chức nhất tâm, đồng bào đồng tâm, kết
chặt bức
thành đồng bao vây giặc Cộng.
Thứ hai - Gánh
còn
nặng, đường còn xa... nhưng gánh
không còn nặng, nếu ta biết quẳng đi những cái
gì không cần phải gánh; và đường không
còn xa như ta tưởng. Nếu không cấp thời chuẩn bị để sẵn
sàng cứu nước khi thời cơ đột chuyển, thì con đường dẫn
tới cuộc Bắc thuộc lần thứ tư hoặc Tây thuộc lần thứ hai
không phải là chuyện huyền hoặc nữa.
*****
(1) Vật tổ (totem): Trong các xã hội
nguyên thủy
(bộ lạc), người ta thường chọn một con vật hay một vật tự nhiên
nào đó, mà họ cho là có liên
hệ huyết thống với thị tộc (giòng họ) để tôn thờ như thần
thánh.
(2) Bài này được viết trước khi các
dân
tộc Đông Âu quật khởi giải trừ các chế độ Cộng sản
thống trị trên quê hương họ.
Trích
từ : Cuộc Chiến Đấu Cho Một Nước Việt Nam Văn Hiến
Nguốn:
http://www.taphopdongtam.org
Trang mạng Việt Nam Văn Hiến
Trang Cuộc Chiến Đấu Cho Một Nước Việt Nam Văn Hiến
www.vietnamvanhien.net
email: thuky@vietnamvanhien.net
Trang
mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi lưu trữ và phổ biến
những biên khảo, sáng tác và ý kiến
của quý vị và các bạn nhằm mục
đích bảo tồn di sản văn hóa và phục hồi nền An Lạc
& Tự Chủ của Việt tộc.
|