Việt
Nam
Văn
Hiến
Năm
Thứ
4889
www.vietnamvanhien.net
Đề Mục
1- Chính Trị
2- Chính Trị Học
3- Quân
Vương
còn tiếp
|
Chính trị
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Chính trị hay Chánh trị là
tất cả những hoạt động, những vấn đề gắn với quan hệ giai cấp, dân tộc, quốc gia và
các nhóm xã hội xoay quanh một vấn
đề trung tâm đó là vấn đề giành, giữ
và sử dụng quyền
lực nhà
nước.[1]
Khái
niệm
chính
trị
Hiện nay, trên thế giới
đã hình
thành 4 cách hiểu khác nhau về chính trị:
- 1)
nghệ thuật của phép cai trị
- 2)
những công việc của chung
- 3)
sự thỏa hiệp và đồng thuận
- 4) quyền lực và
cách phân phối
tài nguyên hay lợi ích
- (xem Andrew Heywood,
Politics (third edition), Palgrave Macmillan, New York, 2007).[cần dẫn nguồn].
Nếu quan niệm rằng chính trị
chỉ là những hoạt
động xoay quanh vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực
nhà nước thì, theo lý luận của chủ nghĩa Marx,
trong xã hội cộng sản tương lai sẽ không có
chính trị bởi vì lúc đó nhà nước
đã tiêu vong. Nói cách khác,
chính trị sẽ dần dần trở nên thừa thãi và
mất hẳn trong xã hội lý tưởng của nhân loại -
xã hội cộng sản.
Chính trị theo nghĩa rộng hơn
là hoạt động của
con người nhằm làm ra, gìn giữ và điều chỉnh những
luật lệ chung mà những luật lệ này tác động trực
tiếp lên cuộc sống của những người góp phần làm ra,
gìn giữ và điều chỉnh những luật lệ chung đó. Với
cách hiểu như thế này thì dù trong
xã hội cộng sản, chính trị vẫn còn tồn tại
và vẫn giữ vai trò hết sức quan trọng đối với từng con
người cũng như toàn xã hội. Trong bất kỳ xã hội
nào thì cũng cần những luật lệ chung để hoạt động nhịp
nhàng và khoa học, tránh tình trạng
vô tình hay cố ý xâm phạm quyền lợi, lợi
ích, tài sản, sức khỏe hay thậm chí tính
mạng của người khác hay của cộng đồng. Một ví dụ đơn
giản, xã hội dù có phát triển đến đâu
thì cũng cần có luật giao thông để con người
có thể lưu thông một cách trật tự và hiệu
quả. Hay, con người không thể sống trong một xã hội
mà tình trạng an ninh không đảm bảo (cướp
bóc, khủng bố chẳng hạn) do thiếu luật lệ. Mặc dù phần
lớn xã hội hiện nay trên thế giới không tránh
khỏi các hiện tượng cướp bóc và khủng bố
nhưng phải thừa nhận rằng pháp luật đã góp phần
ngăn chặn đáng kể những hành vi bất lương đó.
Còn Khoa học
chính trị (các nghiên cứu về chính
trị) là ngành học thuật nghiên cứu về chế độ
chính trị, hành vi chính trị; miêu tả
và phân tích các hệ thống chính trị
và các ứng xử chính trị; nghiên cứu về việc
giành quyền lực và sử dụng quyền lực.
Các lĩnh vực của khoa học
chính trị bao gồm:
lý thuyết chính trị, triết học chính trị
(tìm kiếm các nhân tố cơ bản cho chính trị),
giáo dục công dân, các hệ thống chính
trị của các quốc gia, phân tích chính trị,
phát triển chính trị, quan hệ quốc tế, chính
sách ngoại giao, quân sự và pháp luật.
Trạng
thái tự nhiên
Trong tác phẩm Chính
trị, Aristotle
đã khẳng định, con người theo bản năng tự nhiên đã
có tính chính trị.
Trong ấn phẩm Leviathan
vào năm 1651, Thomas
Hobbes đã đưa ra một mô hình phát triển
sớm của loài người, để hậu thuẫn cho sự tạo ra các
chính thể như là bộ máy chính quyền. Hobbes
đã mô tả một trạng thái tự nhiên lý
tưởng, nơi mỗi người có quyền lợi như nhau với mọi nguồn
tài nguyên thiên nhiên và được tự do sử
dụng các công cụ để khai thác các nguồn
này. Ông khẳng định rằng hiện tượng đó gây ra
xung khắc với mọi phía (war of all against all). Hơn nữa,
ông ta giải thích rằng loài người sẵn sàng
nép mình vào một khế ước xã hội và
từ bỏ những quyền tuyệt đối để đổi lấy sự ổn định lâu dài.
Các tư tưởng triết học chính trị
-
Khổng Tử
Triết gia Khổng Tử
(551-471 TCN) là
một trong những nhà
tư
tưởng đầu tiên có cách tiếp cận riêng
đến Học
thuyết
chính
trị. Căn bản trong học thuyết của ông
là "quân
tử (người cầm quyền) nên học tự kỷ luật, nên cai trị
người dân của mình bằng chính gương của
mình, và nên đối xử với họ bằng tình thương
và sự quan tâm." [2] Niềm tin chính trị của
ông gắn chặt với luân
thường
đạo
lý và đạo đức cá
nhân. Ông cho rằng chỉ những người
quân
tử liêm khiết và tuân theo đạo của
người quân tử thì mới được cầm quyền, và những tư
cách của những nhân vật đó phải kiên định với
địa vị trong xã hội. Ông ta cũng nói rằng "Triều đại
tốt cốt ở vua làm
tròn bổn phận của vua, bề
tôi làm tròn bổn phận của bề tôi, cha
làm tròn bổn phận của cha, và con làm
tròn bổn phận của con."[3]
Plato
Triết gia Hy Lạp cổ đại
Plato
(428-328 BC) nói trong sách Nền
Cộng
hòa (The Republic) rằng tất cả những chế độ
chính trị theo truyền thống như (dân chủ, quân
chủ, chính
thể
đầu
sỏ, chính
thể
hào
hiệp - democracy, monarchy, oligarchy và
timarchy) vốn đã đồi bại, tham nhũng và nhà nước
nên được điều hành bởi tầng lớp những người cầm quyền cũng
là triết gia được giáo dục tốt. Họ được đào tạo từ
lúc chào đời và được chọn dựa trên năng lực:
"những người có kỹ năng đặc biệt về quan sát tổng quan
xã hội." [4]
Aristotle
Trong cuốn Chính
trị
của mình, triết gia Hy Lạp cổ đại Aristotle (384–322 TCN)
quả quyết rằng về bản chất, con người là một động vật
chính trị. Ông ta cho rằng luân thường và
chính trị có liên kết chặt chẽ với nhau, và
một đời sống thật sự đạo đức chỉ có thể có ở những người
tham gia vào chính trị.[5]
Giống như Plato, Aristotle thấy rằng
có nhiều
hình thức nhà nước khác nhau, và ông
cho rằng hình thức "đúng" của nhà nước có
thể biến thành một hình thức nhà nước "lệch lạc",
nơi mà thể chế bị mục nát. Theo ông, chế độ
quân chủ, có một người cai trị, sẽ biến thành chuyên chế; chế
độ
quý
tộc, với một nhóm nhỏ người cai trị, sẽ biến
thành chính
thể
đầu
sỏ; và xã
hội
có
tổ
chức (polity) do nhiều người dân
cùng cai trị thì sẽ biến thành chế độ
dân chủ.[6] Theo nghĩa này,
Aristotle không dùng từ "democracy"
như
nghĩa
hiện
nay
là
nó
mang
nghĩa
rộng, nhưng có
nghĩa đen là do demos, hay thường dân cai trị.[6] Một cái nhìn
chính xác hơn về dân chủ mà Aristotle đề cập
đến chỉ là chính
quyền
quần
chúng (ochlocracy).
Niccolò
Machiavelli
Trong sách của mình,
cuốn The Prince
(Quân vương), nhà lý luận chính trị người Ý ở giai đoạn Phục Hưng
ông Niccolò Machiavelli
đề nghị một tầm nhìn thế giới về chính trị để miêu
tả các phương pháp thực tế cho chế
độ
chuyên
quyền để giành và giữ quyền
lực
chính
trị. Ông thường được xem là người
phản đối quan điểm đạo đức truyền
thống đối với người cầm quyền: "đối với Machiavelli, không
có nền tảng đạo đức mà ở đó phân xử sự
khác nhau giữa việc sử dụng quyền lực hợp
pháp hay bất
hợp
pháp." [7] Thuật ngữ Machiavellian
(cũng có nghĩa là xảo quyệt) ra đời, đề cập
đến một người thiếu đạo đức dùng các cách
mánh khóe để cố thủ quyền hành. Học thuyết của
ông đã được các lãnh đạo học tập và
thực hành kể cả những lãnh đạo chuyên chế
toàn trị như Benito Mussolini và Adolf Hitler, những
người đã biện hộ cho việc hành động tàn bạo của
mình là cho mục đích an toàn quốc gia.[8]
Tuy nhiên, nhiều học giả
đã nghi vấn quan điểm
này của chủ
thuyết
Machiavelli, cho rằng "Machiavelli không sáng
tạo ra chủ nghĩa Machiavelli", và chưa từng là một
'Machiavellian' quỷ quyệt như ông đã bị gán cho."[9]
Thay vào đó, Machiavelli xem trạng thái ổn định
của quốc gia
là mục tiêu quan trọng hàng đầu, và tranh
luận rằng theo truyền thống phẩm chất tốt được xem là
khát vọng mang tính đạo đức, như tính độ lượng,
đã không được ưa thích đối với người lãnh
đạo và có thể dẫn đến việc mất quyền
lực
chính
trị.
John Stuart Mill
Vào thế kỷ 19, John Stuart Mill
là người đi tiên phong trong việc dùng khái
niệm tự
do trong chính trị. Ông ta đã thấy được rằng dân chủ sẽ
là sự phát triển chính trị chủ chốt trong thời đại
ông ta[10] và, trong cuốn Bàn
về
tự
do (On Liberty) của mình, ông đã cổ
vũ cho việc bảo vệ tốt hơn các quyền cá nhân
và chống lại ảnh hưởng của nhà nước và sự cầm
quyền của đa số. Ông ta cho rằng tự do là quyền quan trọng
nhất của loài người. [11] Một
nhà bình luận cho rằng cuốn Bàn về tự do
như là một lời bảo vệ hùng hồn và mạnh mẽ nhất cho
chủ nghĩa tự do
chúng ta có."[11]
Ông cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của tự do ngôn luận,
và
tuyên
bố
rằng
chúng ta không thể chắc
chắn rằng ý kiến mà chúng ta cố gắng ngắt lời
là ý kiến sai trái, và nếu chúng ta
chắc chắn như vậy thì việc ngắt lời vẫn là điều sai quấy."[12]
Karl Marx
Karl Marx
là một trong số những nhà
tư
tưởng
chính
trị có ảnh hưởng trong lịch sử. Học
thuyết của ông chỉ trích chủ nghĩa tư
bản và ông biện luận rằng trong tương lai sẽ có
"sự suy tàn không tránh khỏi của chủ nghĩa tư bản
vì các nguyên nhân kinh tế, và được
thay thế bởi chủ nghĩa
xã hội."[13] Ông ta định nghĩa lịch sử
có liên quan đến đấu
tranh
giai
cấp giữa giai
cấp
tư
sản, hay giai cấp sở hữu tư liệu sản xuất, và giai
cấp
vô
sản, hay giai cấp lao động. Cuộc đấu tranh được sự
công
nghiệp
hóa tăng cường.[14]
Nhiều phong trào chính
trị sau đó dựa
trên tư tưởng của Marx, cho ra các phiên bản rất
khác nhau của chủ nghĩa cộng sản; bao gồm Chủ nghĩa Marx-Lenin,
Chủ
nghĩa
Mao, và Chủ
nghĩa
Marx
tự
do. Có thể nói rằng người đã
người thể hiện học thuyết chủ nghĩa Marx có ảnh hưởng nhất
là Lenin,
người
sáng
lập
ra
Liên
Xô. Ông
đã sáng tạo học thuyết cách mạng dựa trên
nền tảng tư
tưởng Marx. Tuy nhiên, những nhà tư tưởng theo Chủ
nghĩa
Marx
tự
do đã thách thức sự diễn dịch chủ nghĩa
Marx của Lenin; như trường hợp Cornelius
Castoriadis, đã miêu tả nhà
nước
Liên
Xô là một hình thức của "chủ
nghĩa tư bản quan
liêu" hơn là nhà
nước
cộng
sản thực sự.[15]
Các
khái niệm
Quyền lực: Max
Weber định nghĩa là khả năng áp đặt ý muốn của
người này lên một người khác, trong khi Hannah
Arendt nói rằng "quyền lực chính trị tương xứng với
khả năng của con người không chỉ hành động mà
còn hành động trong sự phối hợp"
- Chính trị theo nghĩa chung nhất là quan hệ
giai cấp và đấu tranh giai cấp. Là một khái niệm
của thượng tầng kiến trúc."
Tài
liệu
tham
khảo
- ^ Theo
định nghĩa của Từ Điển
Bách Khoa Việt Nam. Nguyên văn: "CHÍNH TRỊ:
toàn bộ những hoạt động có liên quan đến các
mối quan hệ giữa các giai cấp, giữa các dân tộc,
các tầng lớp xã hội, mà cốt lõi của
nó là vấn đề giành chính quyền, duy
trì và sử dụng quyền lực nhà nước, sự tham gia
vào công việc của nhà nước, sự xác định
hình thức tổ chức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của nhà
nước".
- ^ Confucius on Politics at the Stanford Encyclopedia
of Philosophy
- ^ Lunyu
12.11, The
Analects
of
Confucius (available
in
English
here)
- ^
p113, Plato,
The Republic, translated by Desmond Lee, 1955, Penguin
Classics, ISBN
0-14-044914-0
- ^
Aristotle's Politics at The
Internet Encyclopedia of Philosophy
- ^ a
b
Aristotle's views on politics at the Stanford
Encyclopedia of Philosophy
- ^ Machiavelli's
The
Prince at the Stanford Encyclopedia of Philosophy
- ^
Machiavelli, Niccolò, The Prince, Editor's Introduction
by Angelo Codevilla, page xvii. Yale University Press, 1997.
- ^ Niccolo
Machiavelli at the Stanford Encyclopedia of Philosophy
- ^ p11,
Tansey, Stephen J., Politics: The Basics, 1995, London, ISBN
0-145-19199-8
- ^ a
b Social
and
Political
Philosophy
of
John
Stuart
Mill at the Stanford
Encyclopedia of Philosophy
- ^ p229,
Mill, John Stuart, On Liberty, ISBN
1-59986-973-X (also available online here
- ^ Karl Marx at the Stanford Encyclopedia of Philosophy
- ^ Marx, K. & Engels, F.
(1848), The Communist Manifesto
- ^ The
Strange
Afterlife
of
Cornelius
Castoriadis by Scott McLemee, Chronicle
of
Higher
Education, March 26, 2004.
Chính Trị Học
Chính trị học hay khoa
học
chính
trị
là một ngành nghiên cứu lý thuyết và
thực tiễn của chính
trị, miêu tả và phân tích các hệ
thống
chính
trị và các ứng xử chính trị.
Các lĩnh vực của chính
trị học bao gồm lý
thuyết chính trị và triết
học chính trị, giáo
dục
công
dân (civics) và chính
trị
đối
sánh (comparative politics), các hệ
thống quốc gia, phân tích chính trị (cross-national
political
analysis), phát triển chính trị, quan hệ quốc tế
chính
sách
ngoại
giao, chính
trị và luật
quốc
tế, quản lý
hành chính, ứng xử quản lý hành
chính, luật,
chính sách xã hội, v.v.. Chính trị học
còn nghiên cứu các quyền lực trong quan hệ quốc tế
và lý thuyết về các quyền lực lớn (Great power)
và
các
siêu
cường (Superpower).
Nguồn:
http://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%ADnh_tr%E1%BB%8B_h%E1%BB%8Dc
Chính trị/Chính trị học
Trong phần này, chúng
tôi muốn giới thiệu với các bạn một đề tài tham
khảo.
Những họat động kinh tế đều bị phụ
thuộc vào các điều kiện chính trị (vídụ như
xây dựng luật, chế độ trợ cấp, các lọai thuế).Và
ngược lại, sự phát triển kinh tế sẽ tác động tới những
quyết định về chính trị
Bên cạng những đề tài
có trong các bài giảng về chính trị học,
chúng tôi muốn
làm sáng tỏ thêm những vấn đề mà hiện tại
đang được dư luận quan tâm trên các phương tiện
truyển thông
Mục đích ở đây không phải là đưa ra một
đáp án hòan hảo cho những vấn đề mà
chúng tôi chỉ muốn đặt vấn đề để mọi người cùng xuy
ngẫm và giúp cho bạn có cơ sở lý luận (chưa
có trong chương trình học ở nhà trường) để giải
quyết vấn đề.
Thể chế Tự do - Dân chủ
Một điều chắc chắn là bạn đã
từng nghe thấy khái niệm này " Thể chế tự do - dân
chủ" trong các giờ học hoặc qua các phương tiện truyền
thông như Interner, Radio, báo chí và v.v.
Từ này trong tiếng Đức là "freiheitlich - demokratische
Grundordnung và viết tắt là
FdGO".
Khái niệm này khi mới
nghe thì thấy trìu tượng và hơi khó
xác định. Dưới đây chúng tôi sẽ cố gắng giải
thích rõ ràng hơn khái niệm này
và cũng muốn nêu lên những nguyên tắc cơ bản
của thể chế tự do - dân chủ.
Thể chế của CHLB Đức được quy định rõ
trong Luật cơ bản là chế độ tự do, dân chủ. Nó dựa
trên những nguyên tắc cấu trúc nhà nước (
đó là Tự do, Dân chủ, Nhà nước xã
hội, Nhà nước pháp quyền, Nhà nước liên
bang).
Ngay từ năm 1952 Tòa Hiến Pháp
Liên Bang đã định nghĩa rõ như sau:
"Thể chế tự do - Dân chủ là thể
chế mà trong đó mọi sự thống trị có tính
chuyên chính và bạo lực đều bị lọai bỏ và
thay vào đó là nền thống trị của một nhà
nước pháp quyền dựa trên nền tảng quyền tự quyết của
nhân dân theo nguyên tắc đa số , tự do và
bình đẳng.
Những nguyên tắc cơ bản của Tự do -
Dân chủ
Dưới đây là một số nguyên
tắc tối thiểu của thể chế này:
- Tôn trọng quyền con người đã ghi cụ thể trong
luật cơ bản, mà trước hết là quyền được sống và tự
do phát triển của từng cá nhân con người.
- Quyền tối cao thuộc về nhân dân
- Phân chia quyền lực
- Trách nhiệm của chính phủ
- Điều hành theo pháp luật
- Tính độc lập của tòa án
- Nguyên tắc đa đảng và
- Quyền bình đẳng cho mọi đảng phái
chính trị với quyền được thành lập và thi
hành quyền đối lập theo hiến pháp.
Sự xuất hiện của nhà nước pháp
quyền
Ý tưởng về một nhà nước
pháp quyền đã xuất hiện vào khỏang giữa thế kỷ 18
và 19. Với tư tưởng mới này, dân chúng
đã đối đầu chống lại nhà nước chuyên chế và
thể chế mệnh lệnh vảo thời kỳ đó.
Một mục tiêu đã được xác
định rõ ràng là phải xây dựng một nhà
nước, mà trong đó quyền tự do của từng cá
nhân phải được nhà nước bảo đảm, phải có luật lệ
rõ ràng, dễ hiểu và trước tòa án,
các công dân phải được bảo vệ bình đẳng.
Chính nhà nước pháp
quyền hiện đại ngày nay của chúng ta cũng phải đáp
ứng đủ những yêu cầu, đòi hỏi trên. Những
quyền cơ bản này được cụ thể hóa trong Bộ luật cơ bản
và đi vào cuộc sống thực tại.
Với Bộ luật cơ bản, việc đầu tiên
nhà nước phải đảm bảo là quyền tự do triệt để, rộng
rãi của mỗi con người. Mục tiêu này, nhà
nước chỉ có thể đạt được thông qua những nguyên tắc
bảo đảm về quyền lợi, bảo vệ về pháp luật và phân
chia quyền lực (Gewaltenteilung) trong xã hội.
Nguồn:
http://www.cogbyte.de/project/Nha-nuoc-phap-quyen.1285.0.html?&L=3
Khảo luận thứ hai về
chính quyền - Chính quyền dân sự
|
|
|
|
|
Thông tin
liên quan:
Các nhà tư
tưởng lớn của Kitô giáo
21/05/2010 10:46' AM
Tác phẩm là một nhập môn
vào thần học Kitô giáo. Thần học ở đây được
Hans Küng xem xét trong quá trình thực
hành, thần học trong dự phóng cuộc đời, thần học như được
phản ánh trong những nhân vật mang tính hệ
hình của lịch sử Kitô giáo, những nhà tư
tưởng lớn của Kitô giáo tiêu biểu cho cả một thời
đại. Bảy nhà tư tưởng lớn của Kitô giáo không
chỉ giúp chúng ta hiểu được thời đại của họ mà với
thế giới xa lạ của mình họ cũng giúp chúng ta hiểu
tốt hơn thực tại của của ngày hôm nay.
Tổ chức và
rèn luyện nền dân chủ
14/11/2009 09:01' AM
Xây dựng nền dân chủ là
giải pháp để kéo tự do xuống các tầng hàng
ngày của đời sống, để tự do trở thành quyền phát
triển của mỗi con người. Tổ chức và rèn luyện nền
dân chủ luôn là vấn đề chung của con người ở khắp
mọi nơi trên thế giới...
Những tiền đề và
điều kiện hình thành phát triển xã hội
dân sự hiện nay ở Việt Nam
23/10/2009 08:33' AM
Bài viết này tập trung làm
rõ các khíạ canh ở góc nhìn triết học, như: 1-Bộ
ba trong xã hội hiện đại; 2- Cần hiểu rõ
thực chất xã hội dân sự ở VN hiện nay,
có số lượng hoành tráng thiếu thực chất.
Vấn đề “tổ chức phi chính quyền do chính
quyền tổ chức”?; 3-Sự hình thành, phát triển; 4-Những
tiền đề, điều kiện cần tạo ra có
nhiều nhưng chung quy lại là gì: 5-Đâu là lực cản
của các giai đoạn của quá trình hình thành?
Xã hội dân
sự, tính đặc thù và vấn đề ở Việt Nam
10/04/2009 08:23' AM
Xã hội Dân sự có
tính phổ biến, tinh toàn cầu, dù rằng các
dân tộc tiến đế nó một cách nhanh chậm khác
nhau và phát huy nó khác nhau. Xã
hội Dân sự ở Việt Nam cả lý thuyết, đường lối và
thực tế đang đặt ra nhiều câu hỏi phải trả lời...
Buổi hoàng
hôn của những thần tượng
18/02/2009 10:56' PM
Cuốn sách là một trong những di
chúc triết học Nietzsche để lại cho hậu thế. Chúng
tôi xin trân trọng giới thiệu cuốn sách này
với những ai đang vấp phải những trở ngại trên con đường
tìm lại chính mình, để “trở thành chủ
nhân cho hạnh phúc và bất hạnh của chính
mình” như lời Nietzsche nói...
Quan niệm của Phan Bội
Châu về dân quyền (*)
01/12/2008 03:13' PM
Bài viết trình bày
và phân tích tư tưởng của Phan Bội Châu về
dân quyền, cũng như ý nghĩa của tư tưởng dân quyền
đó đôi với việc thực hiện quốc quyền , tức là quyền
độc lập, tự chủ của dân tộc Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ
XX. Tiếp đó, bài viết trình bày và
phân tích tư tưởng của Phan Bội Châu cho rằng: muốn
thực hiện được quốc quyền, chế độ chính trị của Việt Nam khi
đó phải chuyển từ quân quyền sang dân quyền theo xu
thế phát triển tất yếu của thời đại, với việc nâng cao
dân trí thông qua giáo dục.
Bàn về xã
hội dân sự
15/08/2007 08:08' AM
Khái niệm xã hội dân sự từ
lâu đã trở thành một khái niệm quan trọng
và ngày càng trở nên quan trọng khi
quá trình toàn cầu hoá đang làm thế
giới xích lại gần nhau hơn. Và khi các giá
trị cá nhân ngày càng được khẳng định
thì một xã hội dân sự nhằm đảm bảo quyền và
lợi ích của con người ngày càng trở nên cần
thiết...
Xã hội mở: Cải
cách chủ nghĩa tư bản toàn cầu
08/06/2007 03:32' PM
Nếu chỉ dựa vào cơ chế thị trường
và nhấn mạnh thái quá đến các giá
trị thị trường, chủ nghĩa tư bản không thể đảm bảo tự do,
dân chủ, và pháp trị; có thể, và
nó đã dẫn đến những thảm hoạ như hai cuộc Chiến tranh Thế
giới, các cuộc khủng hoảng tài chính. Vì
sao chúng xảy ra? Làm sao có thể tránh được
những thảm hoạ như vậy, hay chí ít làm nhẹ bớt
tác động tai hoạ của chúng? Đó là những vấn
đề Soros quan tâm.
Thế sự - Một góc
nhìn
16/05/2007 03:55' PM
Cuốn Thế sự - Một góc nhìn
là một tuyển tập các bài viết của TS. Nguyễn Sĩ
Dũng từ năm 2000 trở lại đây. Ông là một công
chức của Quốc
Hội, đồng
thời là một nhà nghiên cứu. Trước khi làm
Phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc Hội, ông đã
có 6 năm phụ trách cơ quan nghiên cứu của Văn
phòng Quốc Hội là Trung tâm thông tin, Thư
viện và Nghiên cứu khoa học. Ở đây, ông
đã có điều kiện đi sâu nghiên cứu nhiều
vãn đề liên quan đến Nhà nước pháp quyền,
pháp luật, chính sách và các mặt của
đời sống xã hội.
Xã hội dân
sự: khái niệm và các vấn đề
15/04/2007 08:58' AM
Xã hội dân sự hiện đang là
vấn đề được cả giới nghiên cứu khoa học lẫn các nhà
hoạch định chính sách quan tâm. Khái niệm
"xã hội dân sự” xuất hiện khá sớm ở Châu Âu. Các đinh nghĩa
phổ biến về "xã hội dân sự” hiện nay đều nhấn mạnh tới
tinh thần tự nguyện của công dân trong việc bảo vệ
các quyền lợi hợp pháp và giá trị của
mình. Theo đó, xã hội dân sự được tạo lập
bởi các đoàn thể nhằm kết nối giữa những nhóm
quyền lợi hiện đại và những tổ chức truyền thông, giữa
các tổ chức chính thức và phi chính thức.
Quân Vương
17/08/2006 06:39' AM
được coi là cha đẻ của khoa lý
luận chính trị hiện đại nền lý luận dựa trên những
sự kiện thực nghiệm, phi tôn giáo và không
rao giảng đạo đức. Đối với những người nghiên cứu triết học, Machiavelli được đánh giá như một
trong những tác gia hàng đầu cần nghiên cứu trong
lĩnh vực triết học chính trị. Làm nên vai
trò to lớn ấy của ông một phần là nhờ vào
tác phẩm Quân vương...
Nhà nước
pháp quyền và xã hội dân sự
11/11/2005 02:10' PM
Khát vọng về dân chủ và
công bằng vốn nung nấu từ lâu trong lịch sử loài
người. Có dân chủ mới thực hiện được công bằng, đồng
thời công bằng là thước đo của dân chủ và
tiến bộ xã hội. Điểm quy chiếu để kiểm nhận về công bằng
và dân chủ mà một xã hội đạt được thường
tìm thấy dễ dàng trong pháp luật...
Sách Cải
cách và Sự phát triển
23/09/2005 02:35' PM
...cải cách và đổi mới là
điều quen thuộc bởi chúng ta vẫn đang nghe đến và ngẫm
nghĩ mỗi ngày. Với việc nghiên cứu nghiêm
túc, công phu các quá trình đổi mới,
cải cách đã qua của nhiều nước, tác giả Nguyễn
Trần Bạt cho ra đời tác phẩm “Cải cách và
Phát triển”. Dẫu rằng các quan điểm, chiêm nghiệm
là từ riêng tác giả nhưng tin chắc rằng với
cách nhìn không theo lối mòn, với sự suy
nghĩ có trách nhiệm và với chiều sâu học
thuật ấy, những điều hợp lý trong cuốn sách sẽ là
đóng góp có giá trị, thắp sáng hơn
ngọn đuốc soi đường cho tiến trình phát triển của
chúng ta...
Suy Tưởng
01/09/2005 02:54' PM
Hết sức tình cờ, tôi đã
được tác giả tiếp chuyện và được tặng tác phẩm Suy Tưởng. Có thể nói
chưa bao giờ tôi có được cảm xúc như vừa ăn một bữa
"đại tiệc của tinh thần" đến vậy. Tác giả bằng quan điểm
uyên bác và cái nhìn sâu sắc,
mạch văn hấp dẫn cô đọng, sắc sảo... đã xới lên
và gợi mở các giải pháp một cách thuyết
phục cho những chủ đề nóng hổi, thiết thực và sống
còn của dân tộc. Hy vọng các bạn cũng được đọc
và suy tưởng tiếp những vấn đề đã nêu trong cuốn
sách...
|
Là một trong những danh
tác chính trị thế giới, cuốn sách này vừa
tiếp nối dòng chảy liên tục của tư tưởng nhân loại
về phạm trù “nhà nước”, “quyền lực” từ thời Hy Lạp - La
Mã cổ đại đến thời Phục hưng, vừa góp phần tạo tiền đề
trực tiếp cho trào lưu Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII
và ghi dấu ấn rõ nét trong tư duy và
hành động của các nhà lập quốc Mỹ sau này...
Triết gia người Anh John Locke (1632-1704)
là một trong những tên tuổi nổi bật nhất trong lịch sử tư
tưởng phương Tây thế kỷ XVII và được xem là một
trong những cội nguồn tri thức của phong trào Khai sáng
của châu Âu. Cuốn sách “Khảo luận thứ hai về
chính quyền” của Locke là một chuyên luận về nguồn
gốc, phạm vi và mục đích chân chính của
chính quyền dân sự. Với tác phẩm này, Locke
đã trực tiếp đưa ra học thuyết của mình về nhà
nước.
Nguồn gốc của chính quyền
Những luận giải của Locke về sự ra đời của
nhà nước - chính quyền gợi sự liên tưởng đến một
triết gia khác của Anh là Thomas Hobbes (1588-1679). Nếu
như Thomas Hobbes quan niệm “nhân chi sơ tính bản
ác” thì John Locke lại cho rằng bản tính của con
người được quyết định bởi lý trí và lòng
bao dung. Tuy nhiên, cả hai tác giả này đều
lý giải sự xuất hiện của nhà nước trên cơ sở một
giao ước chung của cộng đồng - khế ước xã hội.
Đối với Hobbes, nhà nước xuất hiện
do sự cạnh tranh lẫn nhau giữa con người trong cuộc chiến để sinh tồn.
Trong cuộc chiến đó, mọi người đi đến chỗ ký kết kế ước
xã hội để tự bảo vệ mình và thực hiện một bước
chuyển từ trạng thái tự nhiên sang xã hội
công dân. Trong khi đó Locke cho rằng, sự
hình thành của nhà nước là nhằm mục
đích giải quyết sự xung đột giữa trạng thái tự
nhiên và trạng thái chiến tranh của con người.
Nhà nước xuất hiện như là kết quả từ sự đồng thuận chung
của mọi người để liên kết và hợp nhất trong một cộng đồng
nhằm đạt được sự an ninh lớn hơn chống lại bất cứ thứ gì
không thuộc về điều đó.
Quan điểm của Locke về sự ra đời của
nhà nước là một đóng góp tiến bộ cho
lý thuyết về khế ước xã hội. Một thế kỷ sau đó,
Jean Jacques Rousseau đã nhắc lại ý tưởng này của
Locke như là nội dung cốt lõi cho kiệt tác
“Bàn về khế ước xã hội” của ông: “Với khế ước
xã hội, con người mất đi cái tự do thiên
nhiên và cái quyền hạn chế được làm những
điều muốn làm mà làm được; nhưng mặt khác
con người thu lại quyền tự do dân sự và quyền sở hữu những
cái mà anh ta có”. Khi gia nhập khế ước xã
hội, con người từ bỏ những gì họ có trong trạng
thái tự nhiên để đạt tới sự bảo toàn tốt hơn cho
chính mình, sức mạnh có giới hạn của cá
nhân được thay thế bởi sức mạnh chung tưởng như vô hạn của
cả cộng đồng.
Với những nhận định mang tính
lý luận về nguồn gốc của chính quyền, về mối quan hệ giữa
xã hội dân sự và xã hội chính trị,
John Locke còn được đánh giá là người khởi
thảo cho học thuyết phân quyền. Trước Locke, Hobbes từng mô
tả nhà nước như một con quái vật khổng lồ nắm trọn mọi
quyền lực tối cao và bất khả chiến bại. Hơn thế nữa, Hobbes
còn quan niệm rằng, nhân dân chuyển giao toàn
bộ quyền lực cho nhà nước và bởi vậy, quyền lực
nhà nước là bất khả phân.
Đến Locke, ông đã chỉ ra sự
phân chia quyền lực nhà nước như một sự phân
công lao động hợp lý: lập pháp là quyền lực
cao nhất trong bộ máy nhà nước và thuộc về nghị
viện. Nghị viện thông qua các đạo luật, còn việc
thực hiện chúng là phần việc của cơ quan hành
pháp. Còn dân chúng hay cộng đồng xã
hội sẽ giữ quyền phán xử trong các tranh chấp giữa bộ ba
lập pháp - hành pháp - dân chúng.
Điều đáng tiếc là ông chưa nhận thấy thẩm quyền
tài phán lẽ ra phải thuộc về một quyền lực độc lập
khác (quyền lực tư pháp) trong hệ thống các cơ
quan nhà nước.
Hạn chế này của Locke về sau
đã được bổ khuyết bởi Montesquieu, một nhà tư tưởng
Pháp thế kỷ XVIII. Ông đã kế thừa và
phát triển tư tưởng của Locke lên một tầm cao mới.
Montesquieu không đề cập đến quyền lực tối cao, mà chỉ ra
một quyền lực có thể phân chia, một quyền lực nhà
nước có kiểm soát và sự kiểm soát đó
được thực hiện bằng một cơ chế mà các thành phần
của nó nằm ngay chính trong cơ cấu của nhà nước,
đó chính là 3 nhánh quyền lập pháp -
hành pháp - tư pháp cùng cơ chế kìm
chế và đối trọng.
Hạnh phúc của nhân
dân là luật tối cao của mọi chính quyền
Ngạn ngữ Latinh có câu “Salus
populi suprema lex”, có nghĩa là hạnh phúc của
nhân dân là luật tối cao. Đó cũng
chính là mục tiêu cao nhất và bất biến của
mọi chính quyền chân chính. Mục đích hướng
tới của việc thiết lập chính quyền không là
gì khác ngoài việc bảo đảm cho mọi người dân
quyền sống, quyền tự do và quyền sở hữu.
Trong phần lớn tác phẩm này,
John Locke đã biện luận cho sự phát triển của
chính quyền như là một hình thái
khác của gia đình và quyền lực chính trị
của quốc vương hay nhà lãnh đạo cao nhất của chính
quyền được ông gán với quyền lực gia trưởng của người cha.
Trách nhiệm của người cha là gìn giữ sự gắn
bó của gia đình và mang lại hạnh phúc cho
các thành viên của nó, còn
trách nhiệm của bậc quân vương là bảo tồn
chính quyền và bảo đảm hạnh phúc cho muôn
dân.
Ở đây có một điều tinh tế cần
lưu ý. Nếu hạnh phúc của người dân trong một chế độ
nhà nước dân chủ dứt khoát phải bao hàm hai
yếu tố nền tảng là quyền tự do và bình đẳng
thì trách nhiệm của nhà nước chắc không thể
nào khác hơn là phải ghi nhận và bảo đảm
thực thi quyền tự do và bình đẳng ấy. Mọi người sinh ra
đều có sự bình đẳng tự nhiên, nhưng không
có nghĩa là bình đẳng tuyệt đối. Và Locke
đã có lý khi thừa nhận rằng có những loại
bình đẳng khác nhau tồn tại trên thực tế.
“Tuổi đời hoặc đức hạnh có thể đem
lại cho nhiều người một sự ưu tiên đúng đắn. Xuất sắc về
tài năng và phẩm chất có thể đặt những người
khác cao hơn mức độ bình thường. Dòng dõi
có thể khuất phục một số này và tạo liên kết
hoặc lợi ích cho số khác. Tự nhiên đặt sự
tuân thủ đối với người kia, còn người nọ thì hưởng
được sự mang ơn, kính trọng”. Bởi vậy, trong mối tương quan với
trách nhiệm của nhà nước thì sự bình đẳng
của người dân cần được hiểu là “cái quyền ngang
nhau mà mỗi người đều có đối với sự tự do đương
nhiên có của mình, mà không phải khuất
phục trước ý chí hay quyền uy của bất cứ ai khác”.
Sự giải thể của chính quyền
Trong cuốn sách này, Locke
luôn đặt nhân dân ở vị trí trang trọng, coi
đó là lực lượng quan trọng nhất trong việc giới hạn quyền
lực của nhà nước, là trọng tài phân minh
những tranh chấp giữa lập pháp và hành pháp
cũng như giữa lập pháp, hành pháp với dân
chúng. Và họ luôn nắm trong tay một đặc quyền vốn
chỉ thuộc về chủ thể gốc của quyền lực nhà nước.
“Quyền lực mà mỗi cá
nhân trao cho xã hội, khi anh ta gia nhập vào
đó, không bao giờ quay ngược về cá nhân một
lần nữa chừng nào mà xã hội vẫn còn tồn
tại, mà sẽ luôn được lưu giữ tại cộng đồng”. Cũng tương tự
như vậy, quyền lực mà xã hội/nhân dân trao
cho nhà nước/chính quyền cũng sẽ không có sự
chuyển hồi một khi chính quyền vẫn còn tồn tại.
Nói như vậy cũng là một sự
hàm ý rằng quyền lực chỉ thoát ly khỏi xã
hội trong một thời hạn nhất định. Mặt khác, dân
chúng không chuyển giao hoàn toàn quyền tự
nhiên của mình cho quyền lực tuyệt đối của nhà
nước, mà bằng lý trí, họ vẫn giữ lại phần cho
mình, là cái được đặt ở khối toàn thể
công dân.
Với tư tưởng cách mạng, giải quyết
vấn đề một cách triệt để, sẵn sàng xoá bỏ
cái cũ để xây dựng cái mới một khi cái cũ
đã trở nên lỗi thời, cản trở sự phát triển,
không có dấu ấn của một tư tưởng thoả hiệp, nửa vời, Locke
khẳng định rằng cách mạng không chỉ là quyền,
mà trong một số trường hợp còn là nghĩa vụ
và chủ thể của nó không phải là ai
khác hơn ngoài dân chúng.
Quyền lực sẽ quay trở về với xã hội
một khi chính quyền gây ra những sai lầm không thể
chịu đựng được đối với người dân, phản bội những giao ước
đã từng cam kết với người dân hay nói cách
khác, đi ngược lại những thẩm quyền mà xã hội
đã giao phó. Khi đó, người dân không
còn bị ràng buộc bởi khế ước xã hội nữa
và:“Nhân dân có quyền hành động với tư
cách quyền lực tối cao và tự mình tiếp tục
công việc lập pháp, hoặc dựng lên một hình
thức chính quyền mới, hoặc vẫn theo hình thức cũ
đó nhưng được đặt vào tay những con người mới, theo những
gì họ cho là tốt đẹp”. Đó cũng là sự thể
hiện tư duy biện chứng của Locke và các nhà
lý thuyết về khế ước xã hội.
Nguồn: http://www.chungta.com
|
Thuật
Trị
Nước
Machiavel
Quân Vương
Dịch Giả: Phan Huy
Chiêm
Chương 1: Phân loại Vương quốc và
những phương sách để thâu chiếm Vương quốc
Tất cả những cơ cấu của lãnh đạo Quốc gia, tất cả những Thủ phủ
xưa nay có quyền cai trị dân đều là những Cộng
hòa Dân quốc; hoặc những Vương quốc. Trong các
Vương quốc, đa số do cha truyền con nối và nắm giữ quyền thống
trị được rất lâu đời, nhưng cũng có những Vương quốc
khác chỉ mới gây dựng nên.
Có những Vương quốc hoàn toàn mới như xứ Milan của
Sforza và Vương quốc khác vừa được sát nhập
vào một Quốc gia đã có hệ thống Thế tập như trường
hợp của xứ Naples đối với Vua nước Espagne (Tây Ban Nha).
Trong những xứ mới thu phục được, có nơi dân chúng
đã quen sống dưới quyền lãnh đạo của nhà Vua, vị
Chúa; nơi khác dân chúng lại quen hưởng một
nền tự do. Những vị tân Chúa thu phục được những xứ
này hoặc nhờ quân lực của ngoại bang hoặc do quân
lực riêng của mình hoặc nhờ may mắn hoặc nhờ tài
năng.
Chương 2 : Những
Vương quốc Thế tập
Tôi đã gạt ra
ngoài lề những xứ Cộng hòa Dân quốc mà
tôi sẽ bàn kỹ ở nơi khác. Suốt ở những trang dưới,
với thể văn vắn tắt, tôi sẽ trình bày lần lượt theo
khuôn khổ vạch ra trong chương đầu trên đây,
tôi chỉ chuyên chú đến các Vương quốc, biện
luận, tìm hiểu xem những xứ ấy đã được cai trị và
gìn giữ như thế nào.
Tôi có thể nói ngay rằng các Vương Quốc dưới
chế độ Thế tập gần gũi với dòng giống quý tộc nhà
Chúa nên công cuộc bảo tồn dễ dàng hơn
là ở các xứ mới chiếm. Đấng Quân vương chỉ cần đừng
làm xáo trộn, đừng thay đổi nền trật tự cũ do tiền
nhân đã lập nên. Ngoài ra, khi có sự
xích mích gì xảy ra thì chỉ tìm
cách làm êm dịu đi thì yên việc cả. Ở
đây nhà Vua chỉ cần có mức tài năng,
khôn khéo bậc trung cũng giữ được địa vị của mình,
trừ trường hợp bị truất phế do một lực lượng địch quân đặc biệt
hùng mạnh.
Kẻ loạn thần chiếm ngôi cũng chẳng vững đâu, khi chỉ xảy
một biến cố nhỏ là hắn đổ ngay để cựu Chúa có thể
tái ngự lên ngai vàng.
Một tỷ dụ: ở Ý Đại Lợi, Quận công xứ Ferrare năm 1484 bị
người Venitien tấn công, năm 1510 bị quân của Giáo
hoàng Jules đả phá. Hai lần đều thua mà vẫn giữ
nổi ngai vàng, chỉ nhờ ở mức thâm niên của Vương tộc
này và cũng vì nhà Vua trị vì
là do luật thiên nhiên, từ trước tới nay chưa
có nhiều lý do cần thiết buộc Ngài phải làm
những việc dở khiến cho dân chúng trong xứ mất
lòng, tủi nhục. Như vậy chắc chắn Vua được dân mến
yêu hơn những kẻ manh tâm phản loạn, nếu nhà Vua lại
không có nhiều tính hư, tật xấu quá
đáng cho dân phải ghét bỏ, thì tất
nhiên cảm tình của dân sẽ nghiên về
Ngài. Vả lại sự thâm niên và liên tục
trị vì của dòng họ nhà Vua, những kỷ niệm để lại
trong nước khiến cho dân tự gạt bỏ những lý do của bất cứ
một sự thay đổi nào. Họ cũng thừa hiểu mỗi cuộc thay vị đổi
ngôi chỉ là những viên đá đặt trước để
gây nên một cuộc thay vị đổi ngôi mới khác
nữa.
Chương 3 : Những Vương Quốc Hỗn Tập
Đối với một lãnh thổ mới thu phục thật là nhiều sự
khó khăn. Trước hết là vì vùng đất
này không phải hoàn toàn mới thành
lập, mà chỉ là bộ phận, một phần đất phụ thuộc vào
lãnh thổ khác. Toàn thể khu đất đai này
có thể gọi là một “Vương quốc Hỗn tập”. Những sự thay
đổi, xáo trộn trước đây là do ở những mối
khó khăn phát sinh ở ngay nội bộ của các Vương
quốc mới thành lập. Con người lúc nào cũng sẵn
sàng muốn thay đổi chủ nhân, tưởng rằng sẽ gặp những điều
hay hơn. Ý niệm ấy là duyên cớ thúc đẩy họ
quay khí giới chống lại Chúa của họ. Họ đã nhầm,
sau này kinh nghiệm sẽ cho họ biết tình trạng của họ sẽ
kém sút hơn trước.
Các sự xáo trộn rối ren còn bắt nguồn ở một căn
nguyên tự nhiên và thường tình nữa, khi
Chúa mới nắm quyền cai trị một xứ, tránh sao khỏi
gây mối hờn oán của dân xứ ấy trước những
hành vi bắt buộc như việc lập các đồn binh ở khắp nơi.
Thêm nữa trong giai đoạn chiếm đóng đất đai tất
nhiên đã xảy ra nhiều sự hà hiếp dân
chúng. Dĩ nhiên những điều đó sẽ trở nên kẻ
thù đối với những người mà Chúa đã
phá rối đời sống của họ. Đằng khác, đối với những kẻ
đã đồng tình giúp Chúa thâm nhập
vào xứ họ, Chúa không thể trìu mến và
làm vui lòng họ mãi được, vì ta không
sao đền đáp, tưởng thưởng hết dục vọng của họ được. Đối với họ
Chúa cũng không sao dùng kế quyết liệt được
vì họ vẫn là ân nhân của Chúa. Vậy khi
ta muốn chiếm cứ một xứ nào, dù ta có một đạo
hùng binh chăng nữa cũng vẫn cần nhất là sự hưởng ứng của
toàn thể nhân dân xứ đó.
Muốn chứng mình những điều này, tôi xin kể chuyện
vua Louis XII. Ngài đùng đùng kéo
quân chiếm cứ xứ Milan, rồi đột nhiên bị thất thủ ngay xứ
ấy. Lần đầu này chỉ có đạo quân của tướng Ludovic
Sfarza cũng đủ đánh bật Ngài ra khỏi xứ. Thất bại
là vì nhân dân trong xứ, sau khi mở cửa
thành đón rước quân nhà Vua không thấy
được thỏa mãn những ước vọng chồng chất trong trí
óc họ từ bao lâu nay. Thêm nữa, họ lại không
chịu nổi những sự tan rã chia rẽ do tân Chúa
gây nên trong xứ họ.
Một thực trạng nữa ta cần nhận rõ là một khi đã
chiếm lại được những xứ dấy loạn cướp chính quyền của ta,
thì sau này khó mà có kẻ lật đổ nổi
ta, vì trong dịp dẹp loạn, ta đã trừng trị hết kẻ
có tội; ta đã lôi ra những kẻ khả nghi, các
nơi suy yếu đã được xây thành đắp lũy.
Thế cho nên ở thời kỳ xứ Milan bị Pháp đô hộ lần thứ
nhất, Công tước Ludovic chỉ mới rầm rộ kéo quân hăm
dọa ngoài biên giới, tức khắc là chính quyền
Pháp bị sụp đổ. Đến thời kỳ đô hộ thứ hai, toàn thế
giới phải liên minh lại, đoàn kết chặt chẽ mới thắng nổi,
đẩy lui ra ngoài lãnh thổ Ý Đại Lợi những đạo
quân chiếm đóng của Pháp vương. Đó là
hậu quả của những nguyên nhân mà tôi đã
trình bày ở trên.
Thế là cả hai lần nước Pháp đều bị tước mất quyền
đô hộ trên xứ Milan.
Duyên cớ sự thất bại lần thứ nhất đã được trình
bày rõ rệt ở trên. Bây giờ nếu muốn
tìm lý do của sự thất bại lần thứ hai, trước hết ta phải
trình bày ra đây những phương kế mà bất cứ
vị Quân vương nào ở trường hợp tương tự, như Pháp
vương, phải mang áp dụng ngõ hầu củng cố lại địa vị của
mình. Thế mà Pháp vương đã bỏ qua
không thi hành.
Vậy tôi nói ngay tới những xứ, những tỉnh bị chinh phục
và sát nhập vào một Vương quốc cổ hơn. Ta
có thể xếp làm hai loại: những xứ, tỉnh hoặc cùng
một nòi giống, cùng một ngôn ngữ với Vương quốc,
hoặc là khác hẳn. Nếu là trường hợp trên
thì công cuộc bảo thủ là việc dễ, nhất là
dân xứ, tỉnh này chưa từng được sống tự do. Muốn
thôn tính chắc chắn những tỉnh, xứ này ta chỉ cần
tiêu diệt hết dòng dõi cựu Chúa trị
vì thời trước. Còn đối với nhân dân, nếu ta
cứ để nguyên những đặc quyền cũ của họ, cho họ sinh sống với
phong tục giống ta, trong cảnh thanh bình. Ví dụ như
trong những xứ Bourgogne, Bretagne, Gascogne và Normandie,
dân gian đã lâu dài phục tùng triều
đình Pháp quốc dù là ngôn ngữ
có đôi phần khác biệt, nhưng phong tục tập
quán giống nhau rất dễ hòa hợp.
Kẻ đi chinh phục những xứ, tỉnh loại này, nên muốn
thôn tính lâu dài cần phải lưu tâm đến
hai điểm: Một là tiêu diệt dòng dối của cựu
Chúa. Hai là đừng thay đổi luật pháp và
thuế khóa của họ, thế rồi những lãnh thổ mới này
sẽ tự khắc, trong một thời gian ngắn, hòa hợp với những phần đất
cũ để trở thành một Quốc gia duy nhất và thống nhất.
Nhưng khi ta chiếm cứ những xứ của các dân tộc có
ngôn ngữ, phong tục và chính thể dị đồng thì
lại là chuyện khác. Đây mới thật phải trông
vào sự may rủi và tài khôn khéo của
ta. Một phương chước quan trọng khẩn cấp nhất là kẻ chinh phục
phải đích thân di chuyển đến đóng ở ngay tại chỗ.
Thế rồi công cuộc chiếm đóng sẽ trở nên lâu
dài và bền vững. Xưa Hoàng đế Thổ Nhĩ Kỳ đã
có biệt tài trị vì được lâu năm trên
nước Hy Lạp nhưng cũng phải áp dụng phương sách cư
trú thường xuyên tại chỗ nên mới bảo vệ được đất
này.
Có ở ngay tại chỗ thì mới trong thấy được những biến cố
xáo trộn để sớm tìm phương giải quyết, nếu ở xa
cách bức, ta chỉ được biết tới những biến cố xáo trộn khi
nó đã trở nên quá trầm trọng, lúc
đó đã chậm mất rồi, vô kế khả thi. Vả chăng
Chúa có mặt tại chỗ, thì các Tổng bộ trưởng
không dám tham nhũng quá mức, vì dân
chúng có thể kêu mách với Chúa một
cách dễ dàng và những ý nguyện sẽ được minh
xét ngay, và cũng vì có ở gần thì
dân mới biết kính sợ Chúa hoặc mến yêu
Chúa nếu Chúa là người hay người tốt. Được như vậy
những kẻ thù ngoại bang có muốn xâm lăng cũng phải
e ngại. Kết quả chắc chắn là xứ sở khó mà bị mất,
khi Chúa nhất định đích thân đóng tại nơi
đây.
Một phương pháp tốt nữa là chuyển những đoàn di
dân vào một vài địa điểm trong xứ để lập
thành những biệt khu. Bởi dù sao ta cũng cần những lực
lượng quân sự hùng mạnh và một đoàn
cán bộ thân tín. Việc lập những đoàn di
dân không tốn kém bao nhiều tiền của Chúa,
kinh phí của việc di chuyển và định cư những di dân
không đáng kể. Việc này chỉ làm thiệt hại
một ít quyền lợi của một thiểu số dân không
đáng kể bị bắt buộc phải nhường một phần ruộng nhà cho
bọn dân mới tới. Đám dân địa phương bị thiệt hại
là bọn nghèo túng, gia cư rải rác khắp nơi,
nên không thể chống đối làm nguy hại gì cho
Chúa được. Còn lại đa số khối dân địa phương, phần
thì thấy quyền lợi mình không bị xúc phạm
nên nín thinh, giữ thái độ thản nhiên, phần
thì có óc cầu an tránh phạm lỗi để khỏi bị
đàn áp như kẻ khác.
Tôi có thể đoán chắc là những đoàn di
dân này không gây tốn kém gì, họ
lại có lòng trung thanh hơn hết và họ cũng chẳng
làm hại gì cho lắm đến nhân dân bản xứ.
Đến đây ta nên nhớ kỹ rằng dân chúng thường
chỉ xử trí theo hai đường: hoặc là mơn trớn hoặc
là chém giết bởi vì họ chỉ biết rửa những hận nhỏ
mà không thể báo những thù lớn, nên
khi ta muốn trị họ thì phải trị cách nào để khỏi
sợ họ báo thù lại được.
Nhưng đáng lẽ lập những đoàn di dân, nếu
Chúa chỉ duy trì trong xứ mới những đạo quân sĩ,
Chúa sẽ phải chi phí tốn kém nhiều hơn. Bao
nhiêu tài sản trong xứ phung phí hết cho các
công tác xây dựng doanh trại, đến nỗi phải kết cục
lợi bất cập hại. Lòng dân sẽ oán ghét
vì quân sĩ di chuyển luân hồi, đồn ải xây
lên đắp lại làm thiệt hại cho dân gian. Với những
xáo trộn ấy, người dân nào cũng đau khổ rồi mỗi
người dân trở nên một kẻ thù và tất cả tập
đoàn kẻ thù có thể làm nguy hại cho
Chúa. Có được tập đoàn, là vì
dân bản xứ dù là kẻ bại trận nhưng họ vẫn được tự
do ở lại quê nhà gần gũi sát cạnh nhau.
Vậy sau khi so sánh các kế hoạch, ta thấy cuộc xâm
chiếm một đất đai bằng quân sự là vô ích.
Nhưng trái lại biết áp dụng phương sách cho du
nhập vào đất địch những đoàn di dân thì lại
ích lợi lớn cho cuộc xâm lăng.
Như người ta thường nói, khi Chúa công chiếm cứ một
tỉnh nào của một Quốc gia có tính chất dị đồng với
những tỉnh cũ trong nước, Chúa công phải tìm
cách nắm lấy quyền lãnh đạo và bảo trợ những
lân bang hèn yếu hơn, còn đối những lân bang
mạnh hơn thì phải tìm cách làm suy giảm lực
lượng của họ. Thêm nữa là để ngăn cản không cho
ngoại nhân hùng cường hơn mình có thể
xâm nhập vào trong xứ. Sự dẫn nhập ngoại nhân
vào nước xảy ra là vì có sự xích
mích nội bộ, những tham vọng cá nhân quá
trớn hoặc lòng sợ sệt nghi kỵ lẫn nhau. Như xưa kia người
Etolien đưa người La Mã vào xâm nhập các xứ
khác là đều do một bọn người bản xứ rước họ vào.
Thế cho nên khi có ngoại nhân của một nước
hùng cường nào vào được trong xứ, tức khắc bọn
người bản xứ hèn yếu đều đổ xô theo sau. Họ bị thúc
đẩy do ý chí muốn chống đối lại người lãnh đạo
hiện hữu đang đè trên đầu họ đến mức là ngoại
nhân thu phục bọn người ty tiện này dễ như trở bàn
tay để làm hậu thuẫn cho họ lập nên một chính
quyền. Ngoại nhân chỉ còn phải nghĩ tới việc kiềm chế
không cho bọn tiện nhân này quá lộng quyền
hoặc gây nên sức mạnh riêng. Với quyền lực trong tay,
với quyền bố thí ân huệ, ngoại nhân trở nên vị
trọng tài độc nhất trong nước.
Người lãnh đạo Quốc gia nếu không theo dõi điểm
này, dù có địa vị rồi cũng mất ngay, hoặc được ở
lại địa vị ngày nào, thì luôn luôn gặp
trăm nghìn khó khăn và phiền phức.
Chỉ những người La Mã là chứng tỏ nổi rằng họ đã
hiểu thấu những vấn đề trên đây. Một khi chiếm xứ
nào là họ di chuyển ngay những đoàn di dân
tới, dung dưỡng nâng những tốp dân hèn yếu lên
mức vừa phải; không để cho quá mạnh, bọn nào
quá mạnh thì phải dìm xuống bớt, và nhất
thiết không cho bọn ngoại nhân hùng cường nào
đặt chân xâm nhập vào xứ. Tôi muốn lấy
làm tỷ dụ nước Hy Lạp khi bị người La Mã cai trị,
chính quyền La Mã dung dưỡng cho người Etoliens và
Achéens, làm suy nhược Đế quốc người Macédoniens,
đánh đuổi Tướng Antiochus. Dù dân tộc
Achéens tưởng thưởng, nhưng người La Mã cũng vẫn nhất
định không để cho xứ họ mạnh hơn lên. Vua Philippe hết sức
thuyết phục, kết tình thân hữu mà người La
Mã vẫn dìm xuống, dù Tướng Antiochus mạnh mấy,
người La Mã cũng không để cho giữ một khoảnh đất
riêng nào trong xứ.
Chính quyền La
Mã thật đã xử trí theo đúng đường lối của
các vị Chúa đủ tài đức, không những biết
nhìn rõ những biến cố xáo trộn hiện hữu mà
còn tiên đoán được đi các biến cố có
thể xảy ra ở tương lai để liệu bề tránh được một cách rất
khôn khéo. Thật thế, nếu ta tiên đoán được
những biến cố xáo trộn sẽ xảy ra, ta có thể giải quyết
trước một cách dễ dàng. Nếu ta chờ cho nó tiến tới
gần kề, thì phương chước nào cũng là quá
chậm rồi, vì lúc đó coi như một trọng bệnh
không thuốc nào chữa khỏi. Nhưng trường hợp ấy, giống như
bệnh trạng của người bị chứng sốt tiêu mòn thân thể.
Theo ý kiến các bác sĩ, chứng bệnh lúc khai
phát rất dễ chữa khỏi nhưng lại là một bệnh rất
khó tìm ra căn nguyên. Căn bệnh chưa tìm ra
thì làm sao thầy thuốc chữa cho khỏi bệnh được? Sau bệnh
biến chuyển đến lúc đã trở nên nặng khó
mà chữa khỏi.
Việc nước cũng như vậy thôi. Người lãnh đạo có
tài đức biết tiên đoán được những việc dở, khi
nó xảy ra là có phương cách đối phó
ngay. Nếu lại không biết nhìn trước đoán sau, để
cho cơ sự nảy mọc đến mức ai ai cũng trong rõ thì
lúc đó không còn phương thuốc nào cứu
chữa nổi. Người La Mã thường tiên đoán được những
hậu quả của các sự việc, nên luôn luôn đối
phó, sửa chữa được kịp thời. Khi họ biết một tình trạng
căng thẳng kéo dài thêm chỉ có lợi cho địch,
thì họ không ngần ngại mở cuộc chiến tranh. Thế cho
nên họ đã đột nhiên khai chiến với Philippe
và Antiochus ở trên đất Hy Lạp để tránh khói
lửa chiến tranh trên đất nước Ý của họ. Tuy rằng
lúc ấy hai cuộc chiến tranh có thể tránh được,
nhưng họ vẫn cố tình gây nên. Và họ
không ưa nghe câu châm ngôn sau này
mà các nhà hiền triết đương thời luôn mồm
tối ngày nhắc tới: “Phải hưởng thụ những lợi điểm của thời
gian”. Họ chỉ hưởng thụ những lợi điểm của giá trị và
trí khôn ngoan của họ thôi, bởi vì thời gian
chạy qua trước mắt có thể mang lại những điều xấu cũng như điều
tốt, điều dở cũng như điều hay.
Bây giờ ta trở lại chuyện nước Pháp, xem có sự việc
nào giống như trên đã xảy ra chưa. Tôi
không nói tới Vua Charles VIII, chỉ đề cập tới Vua Louis
XII mà người ta biết rõ kế hoạch lãnh đạo của
nhà Vua đã áp dụng để bảo thủ được lâu
dài những đất đai đã chiếm cứ được ở trong lãnh
thổ Ý Đại Lợi. Ta sẽ thấy trên những đất đai này,
nhà Vua đã làm những việc trái hẳn lại với
những điều mà một Chúa công đáng lẽ phải
làm trên những xứ, tỉnh mới chiếm được của một dân
tộc khác.
Vua Louis XII đặt chân xâm nhập được vào đất
Ý là do lòng tham vọng của dân
Vénitiens muốn dựa vào sự hiện diện của nhà Vua để
mong chiếm cứ lấy một nửa phần đất xứ Lombardie.
Tôi không muốn trách nhà Vua đã lợi
dụng điểm này bởi vì thâm tâm nhà Vua
vẫn muốn xâm nhập vào nước Ý. Nhưng khốn nỗi
Tiên Hoàng Charles đã vụng xử trí nên
các cỗng ngõ đều đóng chặt chặn đường vào
và cũng chẳng còn có bạn hữu nào đồng minh
với mình nữa. Vì vậy nên nhà Vua bắt buộc
tìm cho được những mối thân hữu mới. Kế hoạch này
chắc chắn mang lại thành công cho Ngài nếu
Ngài không phạm một lỗi lầm nào khác.
Vậy, sau khi chiếm cứ được xứ Lombardie, Vua Louis lấy lại được uy danh
mà cựu Hoàng Charles đã làm mất đi.
Đô thị Gênes đầu hàng, dân Florentiens trở
nên bạn đồng minh, Hầu tước Mantoue, Công tước Ferrare,
Bentivogle, Bà Ford, các Vương tước Faenza, Pimini,
Camerins, Piombino, Lucquois, Pisans, Grennois người người tấp nập lần
lượt tới cầu xin tùng phục. Đến lúc này dân
Ventiens mới tỉnh ngộ thấy cái mưu mô điên rồ của
mình muốn có hai tỉnh trong xứ Lombardie, đã
vô tình giúp cho Vua Louis trở nên
chúa tể một phần ba đất Ý.
Kể đến đây ai cũng thấy rõ nếu Vua Louis muốn củng cố thế
lực ở Ý, thì chỉ vìệc làm theo kế hoạch
đã nói ở trên: chỉ cần bảo vệ che chở cho bọn
chính quyền thân hữu ở các xứ, các tỉnh. Họ
có số đông nhưng đều yếu hèn, kẻ thì sợ sệt
Đức Giáo hoàng, kẻ thì sợ hãi dân
Vénitiens, nên tất cả bọn họ phải bám chặt lấy Đức
Vua. Nếu biết lợi dụng toàn bọn họ thì Vua Louis
còn sợ gì ai có thể mạnh hơn được. Nhưng
trái lại, khi mới đặt chân tới thành Milan,
nhà Vua tức khắc giúp sức Đức Giáo hoàng
Alexandre tới thu phục xứ Romagne. Vua Louis không biết rằng như
vậy là tự mình làm yếu mình đi. Nhà
Vua đã làm mất đi những người bạn yếu kém sẵn
sàng đặt mình dưới sự che chở của nhà Vua để chống
đỡ lại thế lực của Giáo hoàng. Nhờ vậy uy thế của
Tòa Thánh Thiên Chúa trở nên mạnh
thêm nhiều, vì thêm vào thế lực tinh thần,
giờ đây Tòa Thánh còn có một thế lực
đất đai lớn lao nữa.
Đã trót phạm điều lầm lỗi đầu tiên nhà Vua
bắt buộc cứ phải để các biến chuyển đi theo đường lối đó.
Đến nỗi về sau muốn ngăn cản bớt tham vọng của Giáo hoàng
Alexandre, và sợ Giáo hoàng trở nên
chúa tể xứ Toscane, nhà Vua lại phải đích
thân trở lại đóng trên đất Ý. Không
những đã làm cho Tòa Thánh Thiên
Chúa trở nên hùng mạnh, đã vô
tình trục xuất các thân hữu của mình,
nhà Vua còn nhầm đến mức khi chiếm cứ xứ Naples lại
cùng chia xẻ đất đai xứ này với Vua Y Pha Nho. Trước
đó nhà Vua nắm trọn quyền kiểm soát Ý Đại
Lợi giờ đây ông lại đưa một người khác vào
cùng ngự trị. Như vậy là những kẻ có tham vọng
và những kẻ bất mãn trong xứ đã có một nơi
quy tụ.
Vẫn giữ được toàn cõi nước Ý dưới quyền thống trị
của mình với một vị Chúa địa phương bù nhìn
thì loại ngay ông này đi để đặt vào
ngôi một vị Chúa khác về sau chính kẻ
này đã đuổi nhà Vua ra khỏi xứ!
Một điều rất thường tình và hợp với thiên
nhiên là con người ai cũng có lòng ham muốn
chinh phục, sẵn sàng chinh phục bất cứ lúc nào nếu
họ có thể làm được. Kẻ chinh phục sẽ được tán
thưởng hay ít nhất cũng sẽ không bị chê
trách. Nhưng nếu không làm nổi việc này
mà lại cứ cố làm, thì đó là một lỗi
lầm và là một điều đáng chê trách.
Ví dụ, nếu người Pháp có đủ sức xâm chiếm xứ
Naples thì họ phải tự làm một mình. Nếu
không thì thôi, chứ không nên chia
đôi xứ ấy với một nước khác. Khi Pháp Vương chia
đất xứ Lombardie với người Vénitiens, ta có thể tha thứ
được là vì có thế thì người Pháp mới
đặt chân vào đất nước Ý được. Nhưng đến khi chia
đất xứ Naples với Tây Ban Nha thì thật đáng tội,
vì lúc đó xét ra sự chia xẻ không
phải là điều cần thiết.
Tóm lại Pháp vương Louis thời đó đã phạm
năm điều lỗi lầm:
- Làm suy nhược thêm những bạn đồng minh yếu kém
hơn mình.
- Trên đất Ý, đã làm tăng cường thêm
sức mạnh của kẻ đã mạnh.
- Để cho một ngoại bang rất mạnh xâm nhập vào các
xứ mới chiếm.
- Không đích thân đến trú đóng thường
xuyên trên đất nước mới chiếm.
- Không cho tổ chức định cư những đoàn di dân
vào các xứ mới chiếm.
Năm điều lầm lỗi đó kể ra không nguy hại lắm, ít
nhất là trong thời gian Ngài còn sống, nếu
Ngài không phạm một lầm lỗi thứ sáu: tước đoạt hết
đất đai của người Vénitiens. Lầm lỗi là vì nếu
nhà Vua đã không lỡ nâng uy quyền của
Giáo hoàng lên quá cao, đã
không lỡ dẫn dắt người Tây Ban Nha xâm nhập
vào đất Ý, thì việc Ngài phải suy giảm bớt
uy thế của dân Vénitiens là việc hợp lý
và cần thiết. Nhưng nếu nhà Vua đã trót
hành động như thế, không bao giờ nên làm cho
dân Vénitiens quá suy nhược đi nữa. Vì nếu
họ còn đủ sức mạnh như xưa, tất nhiên họ sẽ không để
cho ai có thể lại xâm đoạt được xứ Lombardie bởi vì
ý họ nghĩ nếu không làm chủ được xứ này
thì họ không để cho người khác đặt chân tới,
ngoài Pháp vương. Còn các địch thủ
khác thì họ không muốn đẩy người Pháp ra để
cho xứ Lombardie bị rơi vào quyền thống trị của người
Vénitienes.
Tình trạng như thế ai còn dám tấn công
gây hấn cùng một lúc với cả hai phía
(Pháp và Vénitiens).
Nhưng nếu ai bảo rằng Pháp vương Louis đã nhượng xứ
Romagne cho Giáo hoàng, xứ Naples cho Tây Ban Nha
là để tránh khỏi một cuộc đại chiến, tôi trả lời
tức khắc, dựa theo những lý lẽ kể trên, rằng ta
không bao giờ nên tự gây ra những sự lủng củng
xáo trộn để mong tránh khỏi một cuộc chiến tranh.
Vì như vậy ta không thể tránh khỏi chiến tranh
mà chỉ trì hoãn nó lại để rồi phải chịu
nhiều thiệt hại hơn.
Nếu ai ngờ rằng Vua Pháp sở dĩ nhượng đất Romagne cho Đức
Giáo hoàng là do lời hứa đổi đất lấy giấy
phép của Giáo hoàng cho Ngài hủy bỏ cuộc
hôn nhân cũ và xin một chức Hồng Y cho Đức Tổng
giám mục xứ Rouen, thì tôi sẽ trả lời sau, khi
nào tôi đề cập đến vấn đề chữ tín của các
Vua Chúa.
Pháp vương Louis để mất xứ Lombardie chỉ vì không
thi hành phương kế mà những kẻ khác đã
áp dụng để chiếm đóng, giữ vững những đất đai được
lâu đời, có được như vậy cũng chỉ là công
việc hợp lý bình thường chứ chẳng phải là một sự
kỳ diệu gì.
Trong lúc tôi đàm đạo ở Naples với Tổng giám
mục thành Rouen, về tin Quận công xứ Valentinois -
lúc đó còn được gọi là Tướng César
Borgia tức là con trai của Đức Giáo hoàng
Alexandre - đang kéo quân chiếm đóng xứ Romagne,
Đức Tổng giám mục Rouen nói bởi tôi là
dân Ý thật nên không biết chiến tranh
là gì. Tôi liền trả lời: chỉ vì người
Pháp ngu ngốc về chính trị quá, nếu khá
thì không bao giờ họ để cho chính quyền Thiên
Chúa giáo trở nên quá mạnh thế này.
Ta thấy rõ ngay trước mắt là người Pháp
giúp cho Giáo hoàng và Tây Ban Nha
trở nên mạnh trên đất Ý tức tự họ đã
gây suy sụp cho họ. Do những sự việc trên đây ta
có thể lập ngay một quy thức rất đúng, không bao
giờ sai hoặc rất ít khi sai: “Người nào giúp cho
kẻ khác trở nên hùng cường tức là
mình tự tiêu hủy mình”. Bởi vì kẻ ấy được
hùng cường là nhờ ta đã mang một tài
khôn khéo và sức mạnh của ta để giúp họ. Nếu
cứ để yên thì kẻ ấy lúc nào cũng nơm nớp sợ
tài khôn khéo và sức mạnh của ta.
...............
...............
Chương 25: Số Mệnh và Con
Người
Nhiều người đã tin và
luôn luôn tin, trăm sự đều do Thượng đế và số mệnh
chi phối định đoạt; con người khôn ngoan đến đâu cũng
không uốn nắn sửa chữa được việc đời. Nhiều người cho rằng
có đổ mồ hôi khó nhọc cũng không sao chủ động
các sự việc được nên đành nhắm mắt để bàn
tay số mệnh dìu dắt. Ngày nay thuyết số mệnh đã
trở lại ngự trị đầu óc con người, vì trong thời đại
này biết bao cuộc thay đổi lớn lao đã xảy ra hằng
ngày, ngoài sức ước đoán của ta. Chính
tôi đôi khi cũng phải tin vào thuyết đó.
Nhưng ta cần phải giữ trí xét đoán khách
quan khỏi bị tắt lịm. Tôi thiết nghĩ chỉ nên tin số mệnh
định đoạt một phần những công nghiệp của ta và phải
dành quyền chủ động phần còn lại. Tôi ví số
mệnh như những con sông, gặp mùa mưa nguồn nước chảy cuồn
cuộn tràn ngập đồng ruộng, phá hủy nhà cửa
cây cối, làm lở sập bờ này mang đất phù sa
bồi đắp bờ bên kia. Trước dòng nước chảy ầm ầm, người
người bỏ chạy, còn ai nghĩ đến việc đắp đê ngăn cản. Nước
lũ có mùa, khi nước cạn dòng sông yên
lặng người ta không thong dong nghĩ tới việc xây đê,
đắp đập; đến khi nước dâng cao, lòng sông
tràn ngập, ta sẽ bớt hãi hùng lo ngại, và
tai nạn gây nên sẽ đỡ phần nào thiệt hại. Số mệnh
cũng như vậy. Nơi nào không có gì cản trở
chống cự được, nó sẽ ra oai dùng sức mạnh tấn công
như nước lũ không đập, không đê dựng lên để
ngăn cản. Nếu xét kỹ nước Ý, nơi phát khởi bao
nhiêu cuộc biến đổi, ta thấy y hệt như một cánh đồng
không đê, không đập. Nếu được che chở bằng một chế độ
nghiêm khắc như ở các nước Đức, Pháp, Y Pha Nho,
trận nước lũ đã không mang lại biết bao biến cố, biết bao
sự xáo trộn rối ren cho nước Ý. Tôi chỉ cần
nói thế cũng đủ cho ai muốn tìm hiểu phương cách
để đương đầu với số mệnh.
Bây giờ xin vào đề tài; ta thấy có vị Vương
hầu nay sướng mai khổ mà không hiểu tự nhiên như thế
hay vì một duyên cớ nào. Theo ý tôi,
như trên kia đã giảng giải, vị Vương hầu ấy chỉ nhắm mắt
theo số mệnh, nên khi số mệnh thay chiều, vị ấy ngã theo
ngay.
Tôi nghĩ rằng vị nào biết xử sự hợp thời thế sẽ được hưởng
sung sướng. Còn vị nào không tiên liệu theo
thời tất nhiên sẽ khổ sở. Loài người hoạt động nhằm đạt
tới mục đích tối hậu là danh và lợi và đều
áp dụng nhiều phương pháp khác biệt: người thận
trọng, kẻ hung hăng, người này dùng bạo lực, người kia
theo kỹ thuật; có kẻ thật kiên nhẫn, lại có kẻ thật
nóng nảy. Bằng cách nào người ta cũng đạt tới mục
đích được. Thế nhưng ta thấy hai vị Vương hầu cai trị
cùng đường lối thận trọng một vị thành công, một vị
lại thất bại. Có khi một vị thận trọng, một vị hung hăng, đường
lối làm việc khác hẳn nhau, thế mà cả hai đều
thành công. Kết quả như thế cũng bởi những việc làm
có hợp hay không hợp thời cơ. Như trên tôi
đã nói, có khi hai người làm việc theo
phương cách khác biệt có thể cùng tới kết
quả, cũng có khi hai người theo cùng một cách
làm việc, nhưng một người đạt được tới mức, một người lại thất
bại. Thật là cùng một “nhân” mà “quả” lại
khác nhau. Nếu một Vương hầu cai trị với trí óc
thận trọng kiên nhẫn mà lại gặp thời cơ, sự việc biến
chuyển nhịp nhàng, tất nhiên sẽ thành công
oanh liệt. Nhưng đến khi thời thế biến đổi, Ngài không
biết cách thay đổi cách thức làm việc, thế
nào cũng bị hủy diệt. Có những vị Vương hầu thật
khôn ngoan, nhưng cố chấp, không chịu mềm dẻo uốn
mình theo thời thế, hoặc nghĩ con đường đang theo đã đưa
mình đến thịnh đạt, cần gì đổi sang con đường
khác. Vậy người có tính quá thận trọng, đến
khi cần phải táo bạo không dám làm, tất
nhiên sẽ bị bại vong; nếu biết thay tính khí để
gió chiều nào che chiều ấy, số mệnh cũng uốn theo
mình.
Trong công cuộc điều khiển việc nước, Đức Giáo
hoàng Jules II lúc nào cũng dùng
chính sách mạnh mẽ, hùng hồn, rất phù hợp
với thời thế, nên luôn luôn hoàn tất được
công nghiệp. Tỉ dụ như cuộc chiến thắng đầu tiên chống lại
xứ Boogle. Lúc sinh thời Vương tước Giovanni Bentivoglni thấy
dân Vénitiens và Vua Y Pha Nho bất mãn,
Ngài liền kết thân với nước Pháp, rồi tự
mình mạnh dạn xuất quân mở cuộc tấn công. Thế
là dân Vénitiens và dân Y Pha Nho thối
lui, một đằng thì vì quá kinh sợ, một đằng
thì muốn bảo tồn lãnh thổ xứ Naples. Thêm nữa,
trong các hành vi bạo động, lúc nào
Ngài cũng lôi kéo Pháp vương cùng
làm. Vua Pháp thấy Giáo hoàng chuyển binh
cũng muốn lợi dụng tình liên kết để hạ uy thế dân
Vénitiens, nên không từ chối việc mang quân
của mình hỗ trợ Ngài, lại sợ Ngài giận. Vì
vậy Giáo hoàng Jules đã dám tiến binh như
vũ bão, một việc mà chắc không vị Giáo
hoàng nào dám làm trong lúc
đó. Nếu chờ đến lúc các Quốc gia vững mạnh, mọi
việc đều ổn định, mới dám xuất quân tiến đánh, chắc
chẳng bao giờ thành công được. Khi đó, Vua
Pháp đã tìm ra hàng vạn duyên cớ để
từ chối sự hỗ trợ; còn về phía địch, chắc họ cũng sẽ
có hàng vạn kế để thi hành khiến Ngài phải
e sợ.
Tôi không kể hết các công nghiệp mà
Ngài đã đạt thành công mỹ mãn,
không ai có cách chứng minh ngược lại được bởi
Ngài đã sớm qua đời.
Giá lúc còn sống, bỗng nhiên thời thế thay
đổi đòi hỏi một sự cai trị thận trọng và mền mỏng chắc
chắn sự nghiệp của Ngài sẽ suy sụp vì bản tính
Ngài luôn luôn hùng hổ, không thể
khác được.
Kết luận: số mệnh thay đổi, con người thì hành động cố
chấp, gặp lúc hai yếu tố tương đồng hòa hợp, con người sẽ
thành công mỹ mãn, gặp lúc trái
ngược, con người sẽ thất bại khốn đốn. Thêm nữa, tôi
còn tin rằng mạnh dạn tốt hơn thận trọng rụt rè. Số mệnh
giống như người thiếu phụ; nếu muốn bắt họ phục tòng, ta phải
thường cương quyết chống chọi với họ. Ta thường thấy họ dễ bị chinh
phục bởi những người cư xử lạnh lùng với họ. Ta thấy số mệnh
cũng như các thiếu phụ, thường quấn quít luyến ái
với bọn tráng niên, vì bọn này bao giờ cũng
dám mạnh dạn chỉ huy một cách hiên ngang và
tàn ác.
Chương 23 : Phương Cách Tránh Nịnh Thần
Tôi không bỏ qua hay cố ý lãng quên một
vấn đề quan trọng, mà các Chúa ít khi đề
phòng nếu không khôn ngoan và suy xét
kỹ: đó là bọn nịnh thần, triều đình nào
cũng có đầy dẫy. Bản tính con người thích
tâng bóc, nịnh bợ nhau, nên không ai
tránh khỏi những “côn trùng dịch hạch” ấy được.
Muốn chống lại nó, phải gặp điều nguy hiểm khác,
là Chúa cảm thấy hình như mình bị khinh rẻ.
Không có cách gì để đề phòng những
lời xiểm nịnh, khác hơn là Chúa cứ chịu nghe những
kẻ nói thật, và đừng tỏ ra phật ý. Nhưng khốn nỗi,
nói thật quá, lại mang tội xúc phạm đến sự
tôn kính đối với Chúa. Thế nên Chúa
phải chọn phuơng sách thứ ba, là chọn lựa quanh
mình một bọn hiền nhân, cho bọn này quyền tự do
trình bày tất cả sự thật trong phạm vi những vấn đề
Chúa đặt ra, tuyệt nhiên không được ra khỏi phạm vi
đó. Khi ấy Chúa phải hỏi han cặn kẽ và lắng nghe
ý kiến của họ. Sau đó, Chúa tự mình
phán đoán theo cách riêng. Đối với từng
người đã trình bày những lời khuyến cáo,
Chúa phải xử sự cách nào để họ cảm thấy thoải
mái, thích thú, sau khi đã được tự do
đàm đạo với Chúa về một việc nào đó.
Ngoài những người nói trên, Chúa không
nên nghe theo một người nào khác nữa. Sau khi
xét định, Ngài phải cương quyết theo đuổi công cuộc
thi hành cho đến cùng. Chúa nào xử sự
khác đường lối ấy, là đã bị bọn nịnh thần
chôn vùi sự nghiệp. Nếu cùng một vấn đề,
Chúa lại hỏi ý kiến lung tung của nhiều kẻ dị đồng, để
luôn luôn thay đổi ý kiến, như thế Ngài sẽ
không còn được tôn trọng.
Trên đề tài này, tôi muốn kể một tỷ dụ đương
thời Dom Luca, cận thần của đương kim Hoàng đế Maximilien,
đã bình phẩm Ngài rằng: Hoàng đế chẳng nghe
lời khuyên của ai, Ngài cũng chẳng làm theo
ý riêng của mình. Thật thế, Hoàng đế
Maximilien là người rất kín đáo, không cho
ai biết những dự định của Ngài và cũng chẳng hỏi ý
kiến ai cả. Nhưng lúc thi hành, nếu bị bọn cận thần phản
đối, Ngài bãi bỏ ngay. Cho nên hôm nay
Ngài làm việc này, ngày mai lại phá
bỏ, không ai hiểu Ngài muốn gì, định làm
gì và không ai tin ở những quyết định của
Ngài nữa.
Vậy Vương hầu lúc nào cũng nên trưng cầu các
ý kiến, nhưng chỉ khi nào tự Ngài muốn hỏi chứ
không do kẻ khác áp lực được. Ngài
còn nên làm cho cụt hứng kẻ nào thích
đưa lời khuyến cáo khi không hỏi tới. Còn về phần
Ngài, chính Ngài phải thường hỏi, và phải
kiên nhẫn nghe cho thấu triệt tất cả những sự thật. Đôi khi
Ngài cũng tỏ vẻ phẫn nộ kẻ nào vì quá sợ
sệt, không chịu nói hết lời. Nếu phê bình một
Vương hầu có tiếng khôn ngoan, là nhờ những bộ
óc của bọn cận thần, thì thật nhầm to. Một định luật
chung bất hủ là nếu Vương hầu có trí óc u
ám thì chẳng ai khuyên bảo được điều gì hay
cả. Trừ khi Ngài nhất nhất ỷ lại hoàn toàn
vào một cận thần khôn ngoan lỗi lạc, để y nắm trọn quyền
hành cai trị. Hiện tượng này chắc chắn có, nhưng
chỉ tồn tại trong một thời gian; vì một cận thần như vậy sẽ dần
dần truất hết quyền hành của nhà Vua trong một thời gian
ngắn. Mặt khác nếu nhà Vua hỏi ý kiến lung tung
nhiều người, chẳng bao giờ Ngài thấy họ gặp nhau trong sự
hòa hợp cả. Vậy nhà Vua phải là người có
óc xét đoán minh mẫn mới thống nhất được tư tưởng
của họ. Trong đám cố vấn, người nào trong thâm
tâm cũng chỉ nghĩ đến lợi riêng của mình. Nhà
Vua khó lòng hoán cải và hiểu thấu được.
Muốn thay đổi họ cũng chẳng tìm được ai hơn. Con người đến
cùng ai cũng lộ nguyên hình với tính
tình ác độc, nếu không bắt buộc họ phải làm
người lương thiện hoàn hảo.
Vì thế, tôi kết luận: những lời khuyến cáo hay, của
bất cứ ai, đều được thúc đẩy do trí khôn ngoan,
sáng suốt của Chúa, chứ không phải nhờ những lời
khuyến cáo ấy Chúa mới trở nên khôn ngoan
sáng suốt.
.....
Chương 26 : Kêu Gọi Anh Hùng Cứu Nước
Sau khi cân nhắc, xét
đoán tất cả các sự việc kể trên, và suy luận
mọi lẽ, tôi tự hỏi ngày nay ở nước ta (Ý Đại Lợi)
đã đến lúc để một tân Chúa lập nên
danh vọng được chăng? Nếu tân Chúa cho đây là
cơ hội để một người có trí óc khôn ngoan,
có tài năng lỗi lạc nắm lấy vinh dự cho mình
và mang lại quyền lợi cho nhân dân, Ngài sẽ
thấy ngay trước mắt biết bao nhiêu việc thuận tiện. Thật
là một dịp may hiếm có. Như trên kia tôi
đã nói, phải có dân Do Thái bị
làm nô lệ ở Ai Cập, giá trị của thủ lãnh
Moise mới được minh xác. Dân Ba Tư có bị dân
Mèdes đè nén, mới biết khí tiết anh
hùng của Cyrus. Dân Athéniens có ly
tán, mới biết rõ tài khôn khéo của
Thèsée.
Vậy nay Tổ quốc có lâm vào cảnh tuyệt vọng, ta mới
có cơ tìm được một Anh hùng Ý Đại Lợi. Cảnh
nước Ý hiện nay: nhân dân bị nô lệ hơn
dân Do Thái, yếu hèn hơn dân Ba Tư, ly
tán hơn dân Nhã Điển, không người lãnh
đạo, sống trong cảnh rối ren vô trật tư, bị hà hiếp,
bóc lột, xâu xé, quân ngoại xâm tự do
hoành hành, đất nước chịu biết bao nỗi đau khổ thảm
thương.
Cho đến ngày này, thỉnh thoảng cũng có một
vài nhân vật mang lại tia hy vọng, cho dân tin
Thượng đế sai họ xuống cứu vớt non sông; nhưng chẳng may giữa
đường đang hăng say hoạt động, lại bị bánh xe số mệnh đè
nghiến. Đến nỗi giờ đây Tổ quốc lâm cảnh hữu thể vô
hồn. Ai là người ra tay hàn gắn những vết thương đau, ai
là người ra tay dẹp bọn giặc cướp hung tàn hoành
hành ba tỉnh Lombardie, Naples, và Toscane, như những ung
thư máu chảy không ngừng? Toàn dân tâm
niệm cầu Trời mau cử một anh hùng xuất chúng hòng
tiêu diệt hết bọn rợ hung tàn, hàn gắn, xoa dịu
những cảnh đau thương trên đất nước. Nhân dân sẵn
sàng hăng hái nếu hàng theo sau người Hùng
phất cờ khởi nghĩa. Phải tìm Người Hùng đó ở
đâu nếu không phải là trong dòng họ của Đức
Ngài, [1] một dòng họ uy liệt đang được số mệnh ưu
đãi, lại có Ngài là người tài đức?
Với sự phù hộ của Thượng đế và Giáo hội (mà
một người trong tộc họ đang lèo lái) chắc chắn
Ngài có thể là người lãnh đạo cuộc giải
phóng. Thi hành sứ mệnh thiêng liêng
này cũng chẳng khó khăn gì nếu Ngài
luôn đặt trước mắt tấm gương lịch sử và sự nghiệp của
các tiền nhân mà tôi đã kể trong
sách này. Thật vậy, những người đó toàn
là nhân vật tài ba hiếm thấy. Nhưng dù sao
họ cũng chỉ là người, và lại không được gặp thời cơ
tốt đẹp như Đức Ngài. Công cuộc của họ đâu có
hợp lý, dễ dãi như công cuộc của Đức Ngài,
hơn nữa họ đâu có được Thượng đế nâng đỡ như Đức
Ngài hiện giờ. Công lý tối cao đang đứng về
phía Đức Ngài: “Chiến tranh rất hợp lý cho những
ai lâm cảnh phải cần đến nó. Võ khí trở
nên thiêng liêng khi người ta chỉ còn hy vọng
ở nó”. Toàn dân cũng thành tâm, nhiệt
tình, sự thành công không còn
khó nữa, miễn Người Hùng cứu Quốc biết noi gương ý
chí những nhân vật tôi đã nhắc tên
trong sách này. Thêm nữa, giữa lúc khởi sự
thi hành nhiệm vụ, Thượng đế đã ban cho nhiều điềm lạ kỳ:
nước triều rút cạn, mây tan trời sáng, suối nước
trong khe chảy ra, mưa nắng thuận hòa đem lại hoa mầu tươi tốt.
Tất cả như đã góp phần xây đắp uy quyền cho người
cứu Quốc. Ngài phải tự tay thi hành sứ mạng. Thượng đế
không ôm đồm tất cả mọi việc, muốn dành phần chủ
động cho người cứu Quốc để về sau hưởng lấy uy danh.
Không phải sự kỳ dị, nếu ta thấy cho đến nay không một
người dân Ý nào làm nổi những việc mọi người
đang mong đợi ở một vị Anh hùng thuộc dòng họ Đức
Ngài. Ta thấy sau bao nhiêu biến đổi, bao nhiêu
chiến cuộc, tinh thần thượng võ của quân dân
Ý hầu như bị dập tắt; trạng thái ấy đã được
gây nên do chế độ hủ nát của thời đại cũ, đến nay
chưa người cải thiện. Người Hùng cứu Quốc nắm giữ quyền
hành, nếu biết sáng lập kỷ cương mới, ban hành
pháp luật mới, sẽ hưởng thụ biết bao vinh dự. Những điều
đó một khi đã được xây dựng trên nền
móng vững chắc huy hoàng sẽ mang uy danh lừng lẫy đến cho
người cứu Quốc. Trong nước ta thiếu gì việc để cải cách,
chỉ cần có đầu não hoàn hảo, chân tay thi
hành cứng rắn. Thử nhìn những cuộc tranh chấp, ẩu đả lặt
vặt giữa các cá nhân, ta thấy người dân ta
sức lực khôn khéo thông minh có thừa; nhưng
đến khi phải đương đầu với cuộc chiến đấu quy mô, tất cả đều mang
bộ mặt hèn nhát thảm hại. Điều đó là do sự
bất tài bất lực của cấp chỉ huy. Cũng có một số người chỉ
huy hiểu biết đôi chút, nhưng không đủ cho
thiên hạ phục tùng. Ai ai cũng cảm thay chưa tìm ra
được người lãnh đạo có đủ tài năng đức độ nổi bật
khiến tất cả phải tuân theo. Cho nên trong thời gian
kéo dài 20 năm qua, một đạo quân nào gồm
toàn binh sĩ bản quốc, gặp chiến cuộc là thất bại, như
những trận Fornoue, Alexandrie, Capoue, Genes Agnadel, Bologne.
Mestre...
Vấy nếu Đức Ngài muốn noi gương các vĩ nhân xưa,
việc đầu tiên là phải thành lập ngay một quân
lực thuần túy Quốc gia để làm căn bản cho tất cả
các công nghiệp của mình. Như thế mình mới
có được đoàn binh sĩ trung kiên, thuần nhất
và hoàn hảo. Khi tư cách cá nhân của
mỗi người được hoàn mỹ, tập thể sẽ trở nên hùng
cường nhất là khi họ cảm thấy được lãnh đạo hẳn
hòi, được Vua Chúa quý mến và dung dưỡng
đầy đủ. Ta thấy rõ sự cần thiết phải thành lập ngay một
binh lực theo cách trên, để giá trị dân tộc
có thể đương đầu đối phó với quân xâm lăng
ngoại bang. Sau đây xin nêu một tỷ dụ đoàn
quân bộ binh Thụy Sĩ và Y Pha Nho nổi danh oai hùng
nhưng cả hai đều có nhược điểm, nên đến khi có một
đệ tam lực lượng nào tấn công, cả hai đều bị bại.
Lính Y Pha Nho không bao giờ dám đương đầu với
quân kỵ mã địch, và lính Thụy Sĩ rất sợ đụng
độ với đoàn bộ binh nào mạnh bạo hung hăng. Do đó
ta thấy quân Y Pha Nho đã thua kỵ binh Pháp,
và quân Thụy Sĩ bị bộ binh Y Pha Nho đánh bại. Tuy
điều này chưa có biến cố nào chứng minh rõ
rệt, ta cũng thấy nhiều việc tương tự đã xảy ra trong mấy
ngày ở thành Ravenne, lúc đoàn bộ binh Y
Pha Nho tấn công đội quân Đức hàng ngũ chỉnh đốn,
mạnh mẽ không kém gì quân Thụy Sĩ.
Lính Y Pha Nho thân hình dẻo dai, tay cầm mộc, tay
cầm dáo mác tung hoành trên mặt trận
không ai địch nổi; nếu không có đội kỵ binh Đức
kéo tới như vũ bão phản công lại, họ đã giết
hết cả bọn bộ binh ấy rồi.
Sau khi biết ra các nhược điểm của hai đạo bộ binh kia, ta
có thể thành lập một đạo tân binh có đủ tư
cách không sợ một loại bộ binh nào khác,
cũng đủ sức đương đầu với các đoàn quân kỵ
mã của địch. Được như vậy là nhờ những đoàn
quân hoàn toàn mới mẻ, hàng ngũ được thay
đổi chỉnh đốn. Những công tác cách mạng trong cương
vị này sẽ mang lại cho tân Chúa biết bao danh vọng
và oai phong.
Ta không bỏ qua cơ hội này để cho Tổ quốc (nước Ý)
đã đợi chờ quá lâu, nay mới thấy xuất hiện một vị
cứu tinh. Tôi không thể nói sao cho đủ để bày
tỏ hết lòng kính mến vô biên của toàn
dân trong nước khi tiếp rước Ngài. Đất nước đã bao
phen bị dày xéo dưới gót quân thù
ngoại bang, đang khao khát phục thù, ấp ủ trong
lòng niềm tin bất diệt với biết bao giọt lệ. Cửa nào
không rộng mở đón Ngài? Dân nào
dám từ nan không tuân theo mệnh lệnh? Kẻ nào
dám tỏ lòng ghen tỵ? Người dân Ý nào
không nghiêng mình kính cẩn trước mặt
Ngài? Nền thống trị tàn khóc dã man
đã làm cho toàn dân ghê tởm.
Thành khẩn xin Ngài nhận lấy sứ mệnh, cùng bầu
nhiệt huyết, cùng niềm hy vọng như một Đấng Anh Hùng khai
cuộc chiến đấu bảo vệ công lý. Ngài tung cờ khởi
nghĩa để đưa Tổ quốc lên đường vinh quang. Dưới quyền lãnh
đạo của Ngài, thơ của (Petarque) sẽ được chứng minh:
Đạo lý chống bạo
tàn, võ khí sẽ sớm thành công
tiêu diệt quân thù.
Trí dũng cảm từ xưa vẫn đó và
còn mãi mãi trong người dân ta.
Chú thích
[1] Laufent de Medici.
----------------- HẾT
-------------
Nguồn:
http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237nvn0ntn0nqn31n343tq83a3q3m3237n1n4n
Trang mạng Việt Nam Văn Hiến
Trang Binh Pháp Tôn Tử
www.vietnamvanhien.net
email: thuky@vietnamvanhien.net
Lấy Nhân Tâm làm phương
tiện, dụng Dân Tâm làm kế sách " An Dân
- Lạc Quốc" là kim chỉ nam của thể chế Dân Chủ Văn Hiến.
|