D. MẬT ƯỚC
Ngày
18/12/1954 [The Pentagon Papers ghi 19/12/1954], nhân dịp họp tay
ba các Ngoại trưởng ở Thoạt
tiên, Mandès-France nói phải ngưng yểm trợ Diệm,
vì có giúp đỡ Diệm tối đa cũng không thể
thành công. [Now he wished [to] add
that he was no longer sure that even maximum would help... We must now
have alternate formula in mind]. Pháp
đề
nghị
hai
giải
pháp:
(a)
Bảo
Ðại sẽ ủy quyền cho một
Khâm sai có toàn quyền giải quyết tranh chấp giữa
các phe nhóm. Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn Tâm hay Phan
Huy Quát có thể được đề cử làm Khâm sai; (b)
Bảo Ðại có thể trở lại Sài Gòn, thành
lập một chính phủ với Hữu làm Thủ tướng, Tâm nắm
Nội Vụ, và Quát, Quốc Phòng. Dulles
đồng
ý
Diệm
có
nhược
điểm,
nhưng
chưa tìm thấy
người tốt hơn. Sự yểm trợ của Mỹ không phải vô giới hạn
và không thể rút lại. Cần áp lực Diệm hơn
nữa trước khi quyết định. [Diem appears to
be man constitutionally incapable of making decisions. US not committed to Diem in any irrevocable sense. We have
accepted him because we knew of no one better. . . Now
it
is
claimed
that
only
Bao
Dai
can save the situation. If that is the
case, then we must be indeed desperate. Secretary’s view we should
continue back Diem but exert more pressure on him to make changes we
consider necessary].(
97) Cuối
cùng, Mandès-France đồng ý với Dulles, nêu
ra 3 điểm: (a) Tiếp tục ủng hộ Diệm; (b) Nghiên cứu một giải
pháp khác; (c) Chỉ thị cho Collins và Ely
nghiên cứu giải pháp khác Diệm, kể cả việc sử dụng
Bảo Ðại. Collins và Ely cũng nghiên cứu thời gian
còn có thể tiếp tục yểm trợ Diệm, và đặt ra thời
hạn chót. Dulles đưa thêm điểm thứ tư: Nếu thấy
không một ai khá hơn Diệm, Mỹ sẽ xét duyệt vấn đề
có nên tiếp tục đầu tư vào Ðông Dương nữa
hay chăng. Trường hợp này, sẽ phải xét lại chính
sách Ðông Dương, và tham khảo ý kiến của
các tiểu ban Quốc Hội (TNS Mansfied và Dân biểu
Roberts). Ngắn và gọn, trên thực tế Dulles chỉ đồng
ý với Pháp một điểm: Ely và Collins sẽ cùng
nghiên cứu những người có thể thay Diệm. Dulles quyết định
sẽ tiếp tục viện trợ cho Nam Việt Ngày
29/12, Dulles chỉ thị cho Collins rằng sự hồi hương của Bảo Ðại rất
khó chấp nhận; và, Mỹ sẽ viện trợ trực tiếp cho Diệm từ
ngày 1/1/1955, bất kể sự chống đối của Pháp.( 99) Ngày
30/12,
Pháp
và
Mỹ
đồng
ý
rằng
mật ước Ely-Collins
(13/12/1954) phải được viết dưới dạng “đề nghị” với Việt Các
viên chức Pháp không hài lòng.
Pháp muốn thay Diệm hoặc biến Diệm thành một lãnh
tụ không quyền lực. Tại Paris,
ngày 6/1/1955, La Chambre bàn với Ðại sứ Dillon về
việc thay Diệm và Mật ước ngày 18/12/1954. La Chambre
than phiền rằng sự thỏa thuận giữa ba Ngoại trưởng đi ngược lại những
gì Smith và La Chambre đã đồng ý vào
tháng 9/1954, khi Pháp chấp thuận ủng hộ Diệm:
Ðó là cho Diệm một thời gian vừa phải, rồi sẽ
nghiên cứu một thí nghiệm khác. Theo La Chambre,
“thời gian vừa phải” chấm dứt đã lâu, nếu Mỹ từ chối thực
hiện một thí nghiệm khác, sẽ không còn đủ
thì giờ đương đầu Việt Minh trong kỳ Tổng Tuyển cử. Tuy
nhiên, La Chambre tạm yên lòng khi Dulles sẵn
sàng nghiên cứu biện pháp khác Diệm, hy vọng
rằng Dulles sẽ cho Collins toàn quyền để phối hợp với Ely
tìm ra biện pháp khác ấy. La Chambre thấy
không còn hy vọng gì ở Diệm nữa, dù chưa
có ý kiến rõ rệt nào về
biện-pháp-khác-Diệm. La Chambre đề nghị Bảo Ðại về
nước, Hữu làm Thủ tướng, và Tâm nắm Nội Vụ. Diệm
có thể được mời tham gia chính phủ mới. Dillon nói
cho tới nay, chưa có đề nghị nào tốt hơn chính
thí nghiệm Diệm. La Chambre đồng ý, nhưng đã chỉ
thị cho Ely trở lại Sài Gòn để làm việc với
Collins, tìm ra một phương thức trước cuối tháng 1/1955.
Chính phủ Pháp cũng duy trì 75,000 quân đội
viễn chinh Pháp cho tới ngày 1/6/1955. Sau đó,
triệt thoái từ từ cho tới trước ngày Tổng tuyển cử
vào tháng 7/1956.( 100) Hôm sau, 7/1, Roux trao cho
Dillon một đề nghị tu chính mật ước Ely-Collins ngày
13/12/1954.( 101) Tại
Sài Gòn, ngày 8/1, Collins cũng gặp Ely thảo luận
về đề nghị sửa đổi Mật ước Ely-Collins. Ely nói theo biên
bản buổi họp giữa ba Ngoại trưởng ngày 18/12/1954, hạn
chót để hai người nghiên cứu về khả năng thành
công của Diệm, cũng như một giải pháp thay thế, rồi
báo cáo về Ngày
14/1,
Ely
lại
yêu
cầu
Collins
thảo
luận về việc thay Diệm trước
ngày 10/2, nhưng Collins nói chỉ có thể
nghiên cứu việc này (theo tinh thần Mật ước 18/12/1954)
sau khi về Mỹ tham khảo vào thượng tuần tháng 2/1955. Hơn
nữa, Diệm đang có tiến bộ, ngoại trừ việc mở rộng chính
phủ. Phần Ely cho rằng sẽ là một sai lầm chiến lược nếu
đánh bạc trên một cá nhân [Ely
said
that
it
might
be
a
tragic
mistake to gamble everything on one
single man], và theo Ely, nếu Diệm thất bại, chỉ còn
Bảo Ðại hoặc không còn gì nữa [Ely
thinks
that
if
Diem
failed,
it
is
Bao Dai or nothing]. Ely
còn cho Collins biết là La Chambre đã nhân
dịp nghỉ ghé qua Thời gian
này, Collins cùng đại sứ Miên (McClintock)
và Lào (Yost) mới họp tại Ðà Lạt và đi
đến kết luận rằng cơ hội ngăn chặn CS ở Ðông Dương xứng
đáng để thử nghiệm. Tiền viện trợ cho NVN chỉ khoảng 440.5 triệu
MK, Miên, 55, và Lào, 62 tới 67 triệu MK. (Trong
tổng số từ 557.5 triệu tới 562.5 triệu, 100 triệu MK dành cho
quân viễn chính Pháp). Bởi thế, Dulles muốn Collins
trình bày vấn đề Ðông Dương trong phiên
họp Hội đồng An Ninh Quốc Gia [HÐ/ANQG] ngày 27/1/1955.
Ngày 20/1, Collins hoàn tất báo cáo về
Ðông Dương. Theo Collins, Diệm là Thủ tướng tốt nhất
hiện có để cầm đầu Việt Nam trong cuộc chiến chống Cộng; nhưng
Collins thất bại trong việc thuyết phục Diệm mở rộng chính phủ” [Diem was
”the best available Prime Minister to lead Vietnam in its struggle
against Communism.” . . . But Collins
failed to ask Diem to broaden his govt.]( 103) Ngày
24/1/1955, đúng Nguyên đán Ất Mùi, Collins
về tới Oat-shinh-tân. Họp ngay với Dulles. Sau đó Dulles
viết thư cho Thủ tướng Pháp để giải quyết “sự hiểu lầm” quanh
việc thay hay không thay Diệm. Ðề nghị Ely viết thư
báo cho Diệm rằng từ ngày 1/7/1955, quân đội QGVN
được hoàn toàn tự trị. Rồi Ely viết một lá thư cho
Collins, thông báo các cố vấn Mỹ và
Pháp sẽ do MAAG điều động, dưới sự chỉ huy tổng quát của
Ely.( 104) Ngày
27/1, Collins thuyết trình tại phiên họp thứ 234 của
HÐ/ANQG Mỹ do Eisenhower chủ tọa. Theo Collins, cơ hội duy
trì một miền Cuối
cùng, HÐ/ANQG Mỹ quyết định: (1) Tại hội nghị
SEATO ở (2) Vì VN
Tự Do khó tồn tại nếu không có Pháp yểm trợ,
phải áp lực Pháp thực thi thỏa ước Smith-La Chambre trong
hội nghị 27-29/9/1954, và những nguyên tắc căn bản trong
qui ước ngày 13/12/1954 giữa Ely và Collins. (3) Tiếp tục yểm
trợ chính phủ Diệm. Ngoài ra,
yểm trợ các chương trình cải tổ quân đội, cải
cách điền địa, tái định cư dân tị nạn, và
thiết lập một Quốc hội. Trong vòng 2 tháng tới, BNG Mỹ sẽ
nghiên cứu và đệ trình kế hoạch về tổng tuyển cử
7/1956. Chấp thuận viện trợ cho NVN, về quân sự và
các lãnh vực khác. Tái khẳng định yểm trợ
Việt Nam Tự Do của Nghị quyết NSC 5429/5, tiết 10-a. (105) Một biến cố
khác khiến liên hệ giữa Pháp và Diệm
thêm căng thẳng là ngày 26/12/1954, Pháp
khai trương Tòa Tổng Ðại biểu ở Hà Nội. Jean
Sainteny, người đã ký Hiệp ước sơ bộ 6/3/1946 với Hồ,
được cử làm Tổng Ðại biểu. Mỹ cũng không tán
thành việc lập tổ hợp liên doanh Pháp-Bắc Việt Nhưng BNG Mỹ vẫn
không đồng ý kế hoạch thành lập những công ty
hỗn hợp Pháp-Bắc Việt Ngày
6/2/1955
Mendès-France
từ
chức.
Cựu
Bộ
trưởng
Tài
chính Faure thuộc đảng Xã Hội Quá Khích
(Radical Socialist) lên thay ngày 23/2. Ngoại trưởng
là Antoine Pinay. Henri Laforest làm Bộ trưởng Các
Quốc Gia Liên Hiệp. Mặc dù
Faure “thân” Mỹ hơn Mendès-France, lập trường với Diệm
không thay đổi: Diệm phải ra đi. Tuy nhiên, Faure thỏa
thuận để Mỹ huấn luyện quân đội QGVN từ ngày 12/2/1955,
và được tự trị từ 1/7/1955. Cũng từ ngày 28/2/1955,
Pháp ngưng trả lương binh sĩ phụ lực giáo phái,
và chính phủ Diệm sẽ gánh trách nhiệm
này. Ngày
12/2, theo đúng kịch bản, Diệm họp báo công bố
quyết định chung Pháp-Mỹ nói trên. Uy tín
Diệm còn được nâng cao hơn khi Eisenhower đích
thân viết thư cho Bảo Ðại, tuyên bố yểm trợ Diệm.
Nhân cơ hội này, Diệm quyết ra tay với Bình
Xuyên và các giáo phái, nhất
là Ba Cụt Lê Quang Vinh (1923-1956), lúc đó
đã ly khai, rút ra bưng. Có dấu hiệu cho thấy
các viên chức Pháp ít nhiều liên hệ
đến tình trạng căng thẳng này. Vì Bảy
Viễn đang điều động quân Bình Xuyên vào
thành phố, Diệm yêu cầu Tướng Gambiez trao cho quân
đội VN quyền kiểm soát thủ đô từ ngày 15/2, hầu
có thể phản ứng kịp thời. Diệm cũng gặp riêng Collins tối
Chủ Nhật, 23/2, bàn về tương lai miền Cuối
tháng 2/1955, trên đường qua Cũng ngày
1/3 này, viên chức ngoại giao Mỹ xuống Chẳng hiểu
có được thông báo hay chăng, ngay ngày 2/3,
các giáo phái công bố thành lập Mặt Trận Thống Nhất Toàn Lực Quốc Gia, một
liên minh chống Diệm. E. DIỆM & CÁC GIÁO PHÁI:
Sự ủng hộ mạnh
mẽ của Mỹ, ít nữa từ phe tình báo và
quân sự tại Sài Gòn, khiến Diệm quyết thanh trừng
Bình Xuyên, đang nắm giữ ngành Cảnh
Sát-Công An và bảo vệ an ninh Sài
Gòn/Chợ Lớn. Ðây là một nhu cầu cần thiết
vì ngay sau khi loại bỏ được Tướng Hinh, Diệm mới chỉ kiểm
soát được ít khu phố ở Sải Gòn và
các trại lính. 1.
“Chia
Ðể
Diệt”: Cuối năm 1954,
Diệm quyết định rút lại giấy phép kinh doanh các
sòng bạc và ổ mãi dâm của Bảy Viễn. Rồi
ngày 15/2/1955, Diệm cho lệnh đóng cửa sòng bạc Kim Chung Ðại Thế Giới. Vì hãi sợ Diệm
sẽ tiêu diệt mình sau khi dẹp xong Bình
Xuyên, hai giáo phái Hòa Hảo và Cao
Ðài (Hộ pháp Phạm Công Tắc) muốn liên kết
với Bình Xuyên. Tuy nhiên,
Trung tướng Nguyễn Thành Phương và Ðại tá
Trình Minh Thế vẫn liên minh với Diệm. Tháng
9/1954, Phương được mời làm Quốc Vụ Khanh, Ủy viên Hội
đồng Quốc Phòng (cùng Trần Văn Soái). Ngày
30/1/1955, Diệm cùng Hồ Thông Minh và một sĩ quan
xuống Tây Ninh gặp Thế. Thế đồng ý qui thuận với cấp bậc
Thiếu Tướng. Về tới Sài Gòn, Diệm vội công bố tin
này. Ngày 13/2/1955, Diệm chủ tọa lễ qui thuận 2,500
quân của lực lượng Cao Ðài Liên Minh. (Theo
Lansdale, chính ông đã chiêu mộ Thế về yểm
trợ Diệm). (111) Ngày
22/2, Phạm Công Tắc, Lê Văn Viễn, Nguyễn Thành
Phương, Lâm Thành Nguyên, Lê Quang Vinh, Trần
Văn Soái, và Trình Minh Thế ký mật ước
liên minh chống Diệm. Ngày 1/3, Tắc triệu tập một buổi họp
gồm các lãnh tụ Cao Ðài, Hoà Hảo
và Bình Xuyên. Hôm sau, 2/3, Mặt
Trận Thống Nhất Toàn Lực Quốc Gia [các lực lượng
giáo phái] ra đời. Hai ngày sau nữa, 4/3, MTTNTLQG
ra tuyên cáo là các lãnh tụ
Hoà Hảo, Bình Xuyên và Trần Văn Hữu
đã quyết định “hành động.” Phe Diệm cũng
có chuẩn bị: Ðưa hai đại đội từ Phan Thiết về bảo vệ Dinh
Ðộc Lập, tăng cường thêm 5 chiến xa và 2 thám
thính xa (blinder). Một số đơn vị của Tướng Thế được điều về
quanh Sài Gòn, chặn hậu Bình Xuyên.( 112) Ðầu mối hiềm
khích giữa Năm Lửa và Diệm là tiền trợ cấp cho
binh sĩ Hòa Hảo. Từ đầu tháng 2/1955, Diệm thay
Pháp trả tiền cho các giáo phái. Mỗi
tháng 5 triệu đồng cho Cao Ðài và Hòa
Hảo (và Bảo Ðại 4 triệu đồng). Diệm trả trợ cấp cho Cao
Ðài vào ngày 12/2 và 19/2/1955, nhưng
định không trả Năm Lửa; nêu lý do Năm Lửa sẽ
dùng tiền trợ cấp cho Ba Cụt. Nhân vật mà
viên chức Pháp mệnh danh là “enfant terrible” [đứa
trẻ ngỗ nghịch] này tuyên bố “ly khai” từ tháng
12/1954, và nhiều lần chạm súng với quân đội, kể cả
cuộc phục kích một đơn vị QÐVN tại vùng Long Mỹ,
khiến 3 sĩ quan chết, và gây thương tích cho 30
quân nhân.( 113) Liên hệ
giữa Diệm và Năm Lửa căng thẳng thêm vì tin đồn
Diệm sẽ dùng quân của Thế để tấn công Ba Cụt. Bởi
thế, ngày 4/3, trước khi trở lại Cái Vồn, Năm Lửa đề nghị
với nhân viên Mỹ ba biện pháp: (1) Diệm thay đổi lề
lối làm việc; (2), cách chức vài Tổng trưởng;
và (3), loại bỏ vài người thân cận của Diệm.( 114)
Chẳng những không chấp thuận đề nghị của Năm Lửa, ngày
10/3, đại diện Collins gặp Ưng Ân, đặc sứ của Bảo Ðại, đe dọa
Mỹ sẽ tái xét vấn đề viện trợ nếu các giáo
phái lật đổ Diệm bằng vũ lực. Ngày
13/3, Ðại biểu chính phủ tại Nam Phần là Trần Văn Lắm
bị ám sát nhưng không chết. Hung thủ, theo tin đồn,
tẩu thoát về hướng Bộ Chỉ huy Hòa Hảo. Ngày
này, Diệm tâm sự với Hôm sau,
Diệm lập lại với Collins tương tự như trên: Nguy hại nhất
là Bình Xuyên. Diệm thêm rằng Năm Lửa
nói không thể giải ngũ lực lượng của mình vì
cần chống lại Việt Minh. Phần Phương muốn đồng hóa thêm
3000 lính vào Quân đội, đưa tổng số lên
6,000. Riêng Tướng Lê Văn Tỵ, theo Diệm, vẫn còn
đáng nghi về chính trị, thiếu can đảm và thiếu khả
năng phán xét [not “safe” politically, lacking in
courage and deficient in judgment].(
116) Collins đề nghị cho Tướng O'Daniel, Tư lệnh MAAG, giúp Hồ
Thông Minh điều động các đơn vị quân đội, đề
phòng bất trắc. Ngày 17/3, Oat-shinh-tân cũng gợi
ý Collins về việc mua đứt các giáo phái
cũng như Bảo Ðại. Theo Nguyễn Ngọc Thơ nói với Fishel tại Diệm
lại
có
ý
khác,
muốn
chia
rẽ
nội bộ các
giáo phái bằng tiền bạc. Thứ Sáu, 18/3, Diệm
nói với Collins nếu có 15 triệu đồng trong vòng 3
hay 4 tháng, thì có thể mua được một số
lãnh tụ giáo phái bất mãn. Theo Diệm,
Lê Văn Viễn đã đau yếu, lại giàu có,
không muốn gây sự, nhưng bị cố vấn chính trị Lai Hữu
Tài và Tổng Giám đốc Cảnh Sát Lai Văn Sang
xúi bẩy. Hơn nữa, Bảy Viễn biết Bảo Ðại không
có ý định yểm trợ các giáo phái.
Hoà Hảo thì thế lực đã xuống, và Diệm
đã gián tiếp cho Năm Lửa biết có thể rời chức Quốc
Vụ Khanh bất cứ lúc nào. Hai thành viên
Hoà Hảo khác trong chính phủ cũng có vẻ bỏ
rơi Năm Lửa.( 117) 2. Diệm Diệt Bình Xuyên:
Ngày
21/3, các giáo phái ra tối hậu thư bắt Diệm phải
cải tổ chính phủ trước ngày 26/3. Chỉ có Nguyễn
Giác Ngộ và Ðại tá Huê không
ký.( 118) Ngày
24/3, Diệm đọc diễn văn truyền thanh, công bố tối hậu thư
trên và kêu gọi các phe nhóm ngồi lại
với nhau để thảo luận. Trong khi đó, ban hành Dụ số 87,
thành lập Nha Cảnh Sát & Công An Ðô
Thành Sài Gòn/Chợ Lớn, và Dụ số 23, cấm
mang vũ khí và lửa tại Sài Gòn/Chợ Lớn
(Phạt từ 500 tới 10,000 đồng, hoặc từ 15 ngày tới 2 năm tu). Hai
ngày sau, lúc 12G15 ngày 26/3, Diệm còn gửi
công văn cho Ðại biểu Lắm và Sang, chỉ thị phải đặt
lực lượng Cảnh Sát dưới quyền Nha Cảnh Sát-Công An
Ðô thành, bản doanh lúc đó đặt tại Trung
tâm huấn luyện Cảnh Sát. Diệm cũng quyết định giải
tán lực lượng Công An Xung Phong [CAXP] Bình
Xuyên và sẽ thay Sang trong ba hoặc bốn ngày tới.
Sang công khai chống lại. Những cuộc chạm súng lẻ tẻ xảy
ra tại vài nơi trong đô thành và Chợ Lớn.(
119) Ngày
27/3, Ely đề nghị cho Bảo Ðại đứng ra hòa giải. Nhưng
viên chức Mỹ không muốn Bảo Ðại dính líu,
và ra sức mua chuộc Cao Ðài ngả theo chính
phủ. Ngoài ra, các viên chức Mỹ, đặc biệt là
Lansdale, nghi rằng Pháp nghiêng về phía
Bình Xuyên, qua việc bỏ tiền mua chuộc các sĩ quan
VN, dùng Phòng 6 (Tâm Lý chiến) làm
tình báo, tung tin Diệm khát máu, người
Việt kỳ thị da trắng, có thể diễn lại biến cố ngày
19/12/1946 như Việt Minh.( 120) Ngày
28/3,
8
đại
diện
Cao
Ðài
và
Hoà Hảo trong
chính phủ từ chức. Hôm sau, 29/3, đến lượt Tổng trưởng
Quốc Phòng Hồ Thông Minh. Theo lời Minh nói với
Collins, sau khi Lai Văn Sang từ chối trả lời điện thoại Diệm,
và cho CAXP chiếm đóng một số đồn bót cảnh
sát, Diệm gọi Tướng Tỵ và Minh vào Dinh Ðộc
Lập, tiết lộ đã cử Ðại tá Nguyễn Ngọc Lễ làm
Tổng Giám đốc Cảnh Sát Công An và cho lệnh
chiếm đóng Nha Công An do CAXP canh gác (trên
đường Catinat). Minh đề nghị Diệm nên tạm hoãn, chờ Hội
Ðồng Tổng Trưởng họp; nhưng Diệm không đồng ý. Minh
xin từ chức. Diệm yêu cầu Minh viết đơn ngay tức khắc, rồi sai Tỵ
thi hành lệnh. Tỵ bèn phái một đại đội Dù
chiếm Tổng Nha Giám Ðốc Cảnh sát.( 121) Ngay sau
đó, Wintrebert cùng hai Tướng Jacquot và Gambiez
vào gặp Diệm, cảnh cáo Diệm không được dùng
vũ lực, và hứa sẽ can thiệp để CAXP Bình Xuyên
rút khỏi các bót Cảnh Sát trong khu
Pháp kiểm soát. Diệm phải tạm ngưng kế hoạch tấn
công. Collins cũng cảnh giác Diệm rằng Diệm đang vi phạm
một lỗi lầm lớn nhất trong sự nghiệp của mình–Diệm phải tập
làm quen chấp nhận ý kiến đối lập; mời Minh trở lại; cải
tổ chính phủ; nhất là phải tham khảo Ely cùng
Collins trước khi có một hành động nào
khác. Collins cũng nói rằng nếu không vì
dân di cư, đã yêu cầu Mỹ ngưng yểm trợ miền Nam.(
122) Nhưng lúc
1G30 sáng 30/3, Bình Xuyên đồng loạt tấn công
Bộ Tổng Tham Mưu QÐQGVN (bị đẩy lui, 5 chết, 21 bị thương), Nha
Cảnh Sát Ðô Thành gần Trung tâm Huấn
luyện Cảnh Sát trên đường Trần Hưng Ðạo do lực lượng
Nhảy Dù bảo vệ (khoảng 10 người chết; 50 bị thương), và
pháo kích Dinh Ðộc Lập bằng cối 81 ly (2 quả rơi
vào cánh dinh, 3 quả rơi vào trong hàng
rào dinh, và ít quả khác lạc ra
ngoài; 5 lính phòng vệ Dinh Ðộc Lập bị thương). Do đề nghị của
Collins, chiều ngày 30/3, Tướng Gambiez đứng ra hoà giải
[mediator], đạt được hưu chiến 48 giờ. Collins cũng áp lực Diệm
triển hạn hưu chiến thêm 7 ngày, tới 12/4. Sau đó,
Bảo Ðại chỉ thị kéo dài thêm 15 ngày
nữa. Ðể bảo đảm an ninh cho kiều dân Pháp và
khu thương mại tại trung tâm thành phố, Ely điều 20,000
quân Pháp vào thành phố, phân
cách lực lượng chính phủ và Bình
Xuyên. Do sự khuyến khích của Tòa Ðại sứ Mỹ,
ngày 31/3, Tướng Phương đồng ý sát nhập
toàn bộ 8,000 binh sĩ Cao Ðài vào QÐ/QGVN,
và như thế cắt đứt liên hệ giữa Phương cùng
Bình Xuyên và Hòa Hảo.( 123) 3. Nỗ Lực Hòa Giải:
Trong
thời
gian
hưu
chiến,
cả
Pháp
lẫn
Mỹ cố gắng dàn xếp một
giải pháp chính trị. Trong khi Pháp muốn lập một
Hội Ðồng Tối Cao, Dulles muốn Diệm thành lập một
chính phủ mới, mở rộng và hữu hiệu hơn.( 124) Chiều
ngày 30/3, khi gặp Collins, Ely nói sẽ là một tội
ác nếu Pháp mở hành quân chống lại
Bình Xuyên như Diệm yêu cầu. Ely tin rằng Diệm muốn
bảo toàn sĩ diện và danh dự, không phục vụ quyền
lợi quốc gia. Diệm đang bị hành hạ bởi chứng “hallucinations”
[ảo tưởng bệnh] và không nhận hiểu giới hạn phương tiện
của Diệm. Collins nói Diệm đang lâm cảnh khó khăn,
chính phủ đang đối diện phản loạn. Collins thêm rằng
không có chút cảm tình nào với
Bình Xuyên. Ely nói đây không phải
là vấn đề thiện cảm với Bình Xuyên, mà do sự
đánh giá chính phủ Diệm. Collins không đồng
ý, khẳng định rằng không thể duy trì tình
trạng sứ quân giáo phái, và cũng chưa ai đề
ra một giải pháp tốt hơn Diệm. Collins đề nghị phải cách
chức Sang, trục xuất Bình Xuyên khỏi Nha Công An,
và cắt điện nước, v.. v.. để cô lập vị trí
này. Bằng không, Diệm sẽ đánh chiếm vị trí
trên. Collins tin rằng Diệm sẽ không tiến vào Tổng
Hành Dinh Bình Xuyên nếu không bị tấn
công trước. Và nếu chuyện này xảy ra, Collins sẽ
nghiêng về phía Diệm. Collins cũng tin rằng Bình
Xuyên đã sử dụng bạo lực để chứng minh Diệm không
kiểm soát được xứ sở. Nếu Diệm không đánh lại,
chính phủ sẽ thua. Ðể tránh tái diễn cảnh
đánh nhau, Ely nên khuyên Bình Xuyên
đừng tăng viện cho Sài Gòn. Ely nói từ ngày
29/3, Bình Xuyên không còn đưa thêm
quân vào thành phố. Hơn nữa có những yếu tố
cho thấy Bình Xuyên chưa chắc đã tấn công
trước; từ ngày 29/3, Diệm đã có kế hoạch tấn
công Nha Công An. Collins nói tình trạng nguy
hiểm, và hy vọng sẽ không có giao chiến đêm
nay (30-31/3). Bằng không Diệm sẽ tấn công cả Tổng
Hành Dinh Bình Xuyên, và sẽ sử dụng
pháo binh. Ely nói sẽ cố gắng khuyên Bình
Xuyên di tản Nha Công An trong hòa bình,
nhưng sợ khó thành công. Trong
báo
cáo
về
Oat-shinh-tân,
Collins
ghi
nhận
Pháp
không có vẻ ngạc nhiên về chuyện xảy ra
như Mỹ, khi muốn chính phủ và các giáo
phái được đối đãi ngang hàng, và Ely
không tin rằng Bình Xuyên đã tấn công
trước.( 125) E. ELY
& COLLINS LẠI ÐỀ NGHỊ THAY
DIỆM:
Ngày
30/3, Collins lại được tin Trần Văn Ðỗ và Tổng trưởng
Xã Hội-Y tế (Chương) từ chức. Khi cho Collins biết tin
này, Ely nhấn mạnh rằng đang có khủng hoảng chính
trị và chính phủ Diệm chỉ còn là
chính phủ của một người.( 126) Phần Collins cũng tin rằng nếu
Ðỗ từ chức, chính phủ Diệm sẽ khó tồn tại. Chiều hôm
sau, 31/3, Diệm yêu cầu Collins vào gặp. Diệm nói
mới nhận được hai công điện của Bảo Ðại, một ngụy hóa,
một bạch văn. Bảo Ðại bày tỏ sự lo ngại về việc giao chiến
đêm 29 rạng 30/3, và muốn biết “ý định” của Diệm.
Collins hỏi Diệm Bảo Ðại có hàm ý gì?
Diệm đáp có lẽ Bảo Ðại muốn biết thực chăng Diệm đang
muốn chiến tranh với các giáo phái. (Theo
Lansdale,
đã
ở
trong
Dinh
từ
buổi
sáng, Luyện nghĩ rằng
Bảo Ðại muốn Diệm từ chức, vì Quân đội đã ra
tay trước). Diệm xin ý kiến Collins là có
nên giải thích cho Bảo Ðại lý do cuộc xung đột
hay chăng. Collins nói sẽ báo cáo về Mỹ, nhưng
không muốn làm trung gian giữa Diệm và Bảo Ðại.
(Trong báo cáo cùng ngày,
Collins đề nghị nhân viên đại sứ Mỹ ở Nhân cơ
hội này, Collins hỏi Diệm về Trần Văn Ðỗ. Diệm nói
Ðỗ muốn giải quyết bằng đường lối chính trị, và Diệm
đã yêu cầu Ðỗ trình lên một dự thảo kế
hoạch hòa giải. Khi Collins hỏi Diệm rằng các Bộ trưởng
thuộc nhóm Tinh Thần còn trong chính phủ hay
không, Diệm đáp còn, và giải thích
thêm là họ từ chức để “giúp Diệm dễ lập
chính phủ mới.” Collins cảnh cáo Diệm rằng nếu Ðỗ rời
chính quyền, Diệm khó duy trì được ghế Thủ tướng.
Diệm nên tham khảo Hội đồng chính phủ trước khi ra tay
và tìm một giải pháp chính trị trong
vòng 10 ngày. Nếu Diệm dùng võ lực,
Pháp sẽ không yểm trợ, và quân đội cũng
không ủng hộ. Collins còn khuyên Diệm nên đưa
những khuôn mặt mới vào chính phủ và tản bớt
quyền cho các Bộ trưởng có khả năng. Rồi thêm, đại
diện Collins cũng lưu
ý Diệm rằng chỉ có Hòa Hảo và Bình
Xuyên chống Diệm, Cao Ðài vẫn hợp tác. Diệm
đồng ý sẽ tiếp xúc các giáo phái
ngay tối đó để lập chính phủ mới. Khi Collins hỏi Diệm
có mời Quát hay chăng; Diệm nói sẽ tham khảo
Quát. Collins đề nghị Diệm nhờ Ðỗ tiếp xúc các
phe nhóm để lập chính phủ; Diệm hứa sẽ nói chuyện
với Ðỗ. Diệm còn nói đang nghiên cứu
thành lập Hội đồng Bô lão để mời các
giáo phái tham gia (không quyền lực, nhưng
có danh vọng). Diệm rất bất mãn việc Pháp
không cho tấn công Nha Công An và đe dọa sẽ từ
chức, ra Bạch thư nếu không giải quyết được vấn đề Bình
Xuyên.( 127) Ngay
tối
31/3,
Ðỗ
gặp
Collins.
Nhân
viên
sứ quán
giúp Ðỗ thảo kế hoạch cải tổ chính phủ và danh
sách nội các. Ðỗ dự định gặp Diệm vào
sáng hôm sau, 1/4/1955. Ðỗ và nhóm Tinh
Thần cũng đồng ý rút đơn từ chức với điều kiện Diệm
tìm một biện pháp chính trị hơn quân sự;
và hứa tham khảo các Bộ trưởng trước khi hành
động. Chính phủ Diệm, Collins báo cáo về Bộ Ngoại
Giao Mỹ, trên thực tế chỉ còn là chính phủ
của một người, với hai cố vấn Nhu và Luyện. Diệm thiếu khả năng
làm việc theo tinh thần đội ngũ với bất cứ ai ngoại trừ
các anh em. Diệm đang cai trị với một chính phủ chỉ biết
tuân lệnh, dù có thể không nhận ra điều
đó [Diem might,
without consciously being aware of it, attempt to govern with
rubber-stamp cabinet]. Theo
Collins,
Việt
Tại
Oat-shinh-tân, lúc 12G13 ngày 1/4 [01G13
ngày 2/4 VN], Eisenhower bàn luận với Dulles về
công điện đòi thay Diệm của Collins. Chính Dulles
cũng cảm thấy ngạc nhiên. Eisenhower nói Mỹ đã
đánh cá lớn trên Diệm và muốn Collins đừng
nên bỏ rơi Diệm quá sớm [“not to give
up on Diem because we bet on Diem heavily”]. Dulles thêm rằng Ngày
1/4,
lúc
11G14
[00G14
ngày
2/4
Việt
Trước
khi
nhận
được
công
điện
trên,
Collins
đã gặp Ely
vào tối ngày 1/4. Ely nói Diệm quyết định sẽ
dùng võ lực chiếm lại Tổng Nha Cảnh Sát-Công
An, đồng thời tấn công các bót Cảnh sát do
Bình Xuyên trấn giữ, thiết lập uy quyền bằng lưỡi gươm.
Diệm đang ở ngưỡng cửa hoang tưởng bệnh [megalomania].
Ely yêu cầu Collins hợp tác để ngăn chặn một cuộc nội
chiến. Collins đề nghị gặp lại nhau để bàn kỹ việc này.
Tuy nhiên, Collins cho Ely biết rõ những ý
chính của mình: Diệm cần tấn công Bình
Xuyên, cách chức Sang ngay lập tức; và đó
là sự dị biệt quan điểm giữa Ely và Collins. Collins nghĩ
rằng trong vài ngày nữa, Diệm phải bổ nhiệm một tân
Giám đốc Cảnh sát. Diệm cần kêu gọi Bình
Xuyên rút khỏi các cơ sở của Cảnh
sát-Công An. Theo Collins, Ely phải bắt giữ Bảy Viễn thay
vì Diệm. Collins cũng muốn cùng Ely hoàn tất kế
hoạch giải giới các giáo phái. Hôm sau, 2/4,
Ely đề nghị cả Pháp lẫn Mỹ yêu cầu Bảo Ðại đứng ra
hòa giải. Pháp chẳng thương quí gì Bảo
Ðại hơn Mỹ, nhưng hiện tại Bảo Ðại là giải pháp
duy nhất. Có thể đề nghị Bảo Ðại ra lệnh hưu chiến 10
ngày. Ngoài ra, Bảo Ðại gọi Diệm và các
lãnh tụ qua Pháp tham khảo. Pháp sẽ mời Diệm qua
Pháp như một quốc khách để phân biệt Diệm với những
người khác.( 132) Nếu đề nghị của Ely được chấp nhận, Ely
và Collins sẽ qua Pháp. Nơi gặp mặt sẽ là Ngày
2/4,
Pháp
chuyển
cho
Mỹ
một
văn
thư giải thích lý
do sẽ rút lại sự ủng hộ “thí nghiệm Diệm,” và
khẳng định rằng Diệm “phải lập ngay một chính phủ mở rộng hoặc
phải nhường cho người khác.”( 134) Hôm sau, 3/4, Dulles
cho Collins biết không chấp thuận đề nghị của Ely vì sợ
rằng Diệm sẽ bị yếu thế về nhân số ở (1)
Pháp-Mỹ
hoàn
toàn
ủng
hộ
Diệm
với
điều kiện Diệm
mở rộng chính phủ. (2)
Kế
hoạch
của
Diệm
phải
gồm
các
điều khoản (a) tái tổ chức
chính phủ, (b) sát nhập số lượng cần thiết quân đội
sứ quân nhất là Cao Ðài, Hòa Hảo,
và trợ cấp cho các nhân viên dân sự
không được sát nhập, (c) đối xử đặc biệt với các sứ
quân (quĩ mật, lợi nhuận vật chất, v.. v..), (d) chính phủ
kiểm soát cảnh sát, (e) phân biệt rõ
ràng cách đối xử với Bình Xuyên và
hai giáo phái Cao Ðài, Hòa Hảo, (f)
tái khẳng định kế hoạch cải lương quốc gia nhất là
thành lập Quốc Hội lâm thời, và (g) lập Hội đồng
bô lão (Council of Elders) mà không
làm trở ngại việc Diệm cai trị. Hội đồng này không
được có Tâm, Hữu và Bửu Hội. (3)
Pháp
và
Mỹ
cần
đạt
thỏa
thuận
để Diệm có những
biện pháp cần thiết chống Bình Xuyên để bảo vệ uy
tín và quyền lực của chính phủ. Hưu chiến để
Pháp, Mỹ hoặc bất cứ ai đó giúp giải quyết sự
tranh chấp Pháp và Mỹ cần được sự ủng hộ của
[Pháp?] cho chương trình này. (4)
Nếu
không
đạt
được
thỏa
thuận
với
Pháp, Mỹ sẽ tái
xét chính sách yểm trợ Việt Thứ Ba, 5/4,
Collins gửi công điện trả lời CÐ ngày 1/4/1954 của BNG
về cán cân quân sự hai phe. Diệm có 6 tiểu
đoàn tại thủ đô, và 7 tiểu đoàn tại Trung
tâm huấn luyện Quán Tre. Trong số này có 3
tiểu đoàn Nùng. Cấp chỉ huy các đơn vị Nùng
này là Pháp, nên Pháp phản
kháng. Chính phủ dự định mang thêm 3 tiểu
đoàn [TQLC] từ Nha Trang vào. Collins không đồng
ý việc coi Diệm như người duy nhất ở miền Trong
khi
đó,
ngày
4/4,
Ely
nói
với
Collins là
đồng ý cần thay Sang; nhưng vấn đề thời điểm khiến Ely do dự.
Bảo Ðại ủng hộ Bảy Viễn; bởi thế, cần Bảo Ðại đứng ra
làm trung gian. Chẳng hạn Bảo Ðại có thể tuyên
bố hưu chiến 10 ngày, rồi triệu tập các lãnh tụ
giáo phái và Diệm qua Pháp. Pháp sẽ
đón tiếp Diệm với nghi lễ ngoại giao. Trong ngày 4/4,
XLTV Ðại sứ Mỹ tại Ngày 6/4,
BNG Mỹ đồng ý chính phủ Mỹ và Pháp
“cùng yêu cầu Bảo Ðại yểm trợ Diệm hoàn
toàn không chỉ trong việc cách chức Sang mà
còn lấy luôn quyền kiểm soát cảnh sát trong
tay Bình Xuyên.” Nhưng phải theo đúng đề nghị của
Collins trong CÐ 4349 của Collins và phải có thời
điểm rõ ràng. (Ngày 7/4, Lúc 11G00
sáng 7/4, Ely yêu cầu được thảo luận riêng với
Collins về Diệm. Theo Ely, vì lợi ích chung của Thế Giới
Tự Do, không thể giữ Diệm [it was in the
interest of the Free World Diem could not be saved]. Yêu cầu Collins cùng Ely đề nghị
hai chính phủ bắt Bảo Ðại thay Diệm càng sớm
càng tốt. [We should not say
Diem experiment had been a mistake, but rather that his time is now
past and choice of a new man is imperative]. Ely chấp nhận bất cứ ai (như Ðỗ,
Quát, Thoại, Minh) làm Thủ tướng, ngoại trừ Diệm. Collins
muốn Bảo Ðại yểm trợ việc lấy quyền chỉ huy cảnh sát khỏi
tay Bình Xuyên. Ely nói không chống lại việc
này, nhưng phải trong khuôn khổ thay Diệm. Cả hai đồng
ý báo cáo lên hai chính phủ. (139) Thời
gian
này,
chính
Collins
cũng
muốn
thay
Diệm. Khuya
ngày 7/4 [11G00 sáng 7/4 tại Oat-shinh-tân] Collins
gửi CÐ cho BNG, nhận xét rằng Diệm không có khả
năng tạo sự đoàn kết cần thiết để ngăn chặn miền Collins đề nghị
một giải pháp thay Diệm. Ðỗ sẽ làm Thủ tướng hoặc
Quát. Sở dĩ chọn Ðỗ trên Quát vì
Quát là người Bắc, Quát liên hệ với Ðại
Việt, không được ủng hộ ở miền Nam và bị mang tiếng
là làm mất Bắc Việt. Nhưng đề nghị trước khi loại bỏ
Diệm, cần áp lực Bảo Ðại lấy quyền chỉ huy Cảnh sát
và An ninh khỏi tay Bình Xuyên trước [tránh
cho Diệm mặc cảm bị thua, và Bảy Viễn mặc cảm chiến thắng].( 140) Tại Mỹ,
ngày 7/4, HÐ/ANQG Mỹ họp phiên thứ 244. Eisenhower chủ
tọa. Khi bàn về Việt
Ngày 8/4
này, Bộ Ngoại Giao Mỹ yêu cầu Collins trình
bày kế hoạch thay đổi chính phủ ở Sài Gòn
và giải quyết vấn đề các giáo phái; ngắn,
và dài hạn. Hôm sau, 9/4, Collins đề nghị: 1.
Diệm sẽ phải từ chức hay bị Bảo Ðại cách chức. Ðể gỡ sĩ diện cho Diệm, Bình
Xuyên phải trao trả ngành Cảnh Sát-Công An
cho chính phủ. Người thay Diệm có thể là Trần Văn
Ðỗ hay Phan Huy Quát. 2.
Thiết lập Thượng Hội Ðồng Quốc Gia, gồm đại diện mọi giới. Nhưng phải loại những người cũ như Hinh,
Tâm và Hữu. 3.
Chính phủ sẽ cải tổ; có thêm chức Phó Thủ
Tướng để phụ giúp Thủ Tướng lúc cần. (143) Sau khi thảo
luận với Eisenhower, ngày 9/4, Dulles chỉ thị Collins phải lưu
ý hai vấn đề: (1) Các nước Ðông Nam Á
đều nghĩ rằng Diệm được Mỹ yểm trợ, và Pháp phải miễn
cưỡng nghe theo. Loại Diệm, sẽ tạo ảnh hưởng xấu: Các nước
Ðông Nam Á sẽ cho rằng Mỹ lùi bước trước
áp lực của “thực dân.” (2) Quốc Hội Mỹ có thể chống
đối; ảnh hưởng đến việc biểu quyết 100 triệu Mỹ Kim cho Quân viễn
chinh Pháp tại Ðông Dương.( 144) Ngày 10/4,
Collins tái khẳng định chẳng có biện pháp
nào khác hơn thay Diệm.( 145) Ngày 11/4, Dulles
chấp thuận, nhưng sau đó lại đổi ý, tạm đình
hoãn.( 146) Ngày
11/4, Dulles và Merchant, Phụ tá Âu châu vụ,
nói chuyện với Ðại sứ Pháp về Diệm. Ðại sứ
Pháp cho biết sẽ theo đề nghị của Ely. Dulles nhấn mạnh
đây không thể là dấu hiệu chiến thắng của
Bình Xuyên. Ngoài ra, còn có
khó khăn ở Quốc Hội.( 147) Ngày
12/4, Collins lập lại yêu cầu Oat-shinh-tân phải có
quyết định càng sớm càng tốt. Theo Collins, việc thay
Diệm cần thực hiện sau ngày Diệm dự Hội nghị Tại
Oat-shinh-tân, ngày 12/4, Dulles chỉ thị Ðại sứ Tại Sài
Gòn, ngày 13/4, Collins gặp Diệm, khuyên tổ chức
bầu cử Quốc Hội trước ngày 15/5/1955. Diệm nói với
Collins là có người [Nguyễn Văn Thoại] đề nghị Diệm
thành lập một chính phủ tạm thời trong hai tháng
trước ngày bầu cử Quốc Hội lập hiến; và Diệm định
làm như vậy. Collins khuyên Diệm cứ tiếp tục tổ chức bầu
cử. (151) Hôm sau,
14/4, Ely yêu cầu Collins cùng làm đề nghị thay
Diệm. Collins từ chối, nói chính Oat-shinh-tân sẽ
quyết định. Theo Collins, nên đưa ra những đề nghị biệt lập [unilateral
recommendation], không nên
làm đề nghị chung [joint recommendation]. (152) Ngày
16/4,
Hội
Nghị
Á
Phi
khai
mạc
tại Ngày
16/4,
tại
a.
Hỗn
hợp
Pháp-Mỹ:
Ely
và
Collins
sẽ
lập 4 danh
sách: những người có thể làm Thủ tướng; các
bộ trưởng có thể lưu giữ; những người trong chính phủ
hiện tại còn có thể sử dụng; và, những người sẽ
được gọi qua b.
Hỗn
hợp
Pháp-Mỹ-Việt:
Ðại
diện
Mỹ-Pháp
gặp
Bảo
Ðại, đưa ra đề nghị thay đổi; và tiếp xúc những người
sẽ qua Cannes, cùng những người có thể vào
chính phủ mới. c.
Hoàn toàn Việt Nam: Tại Hội nghị ở Cannes, Bảo Ðại sẽ
công bố sự thay đổi. Tuyên
bố
thành
lập
một
Thượng
Hội
Ðồng
hay Hội Ðồng Tối cao;
bầu cử các thị xã gần ngày bầu cử Quốc Hội;
sát nhập các giáo phái; cho các
giáo phái vào THÐ; tạo một chính phủ
đoàn kết quốc gia; sát nhập lực lượng các
giáo phái vào quân đội. Tóm lại:
Ðây là giải pháp chung Pháp-Mỹ;
không thể giải thích là chiến thắng cho phe chống
chính phủ; không phải tạo nên một chính phủ
do ngoại bang thống trị.( 153) Ngày
16/4,
với
sự
đồng
ý
của
Eisenhower
(đang nghỉ ở Vì thế,
ngày 18/4, khi gặp Ðại sứ Maurice Couve de Murville, Dulles
nhấn mạnh Pháp nên đưa ra đề nghị thay Diệm và Mỹ
sẽ cứu xét. Pháp thì muốn hành động chung.
Theo Dulles, điểm khác biệt giữa Mỹ và Pháp
là Mỹ muốn thay Diệm vì Diệm không có khả
năng chống lại Bình Xuyên; trong khi Pháp kết luận
Diệm thiếu khả năng tổng quát. Mỹ không kết hôn với
Diệm [US [was] not wedded to Diem]. Diệm không do Mỹ lựa chọn [He
was not picked by the Sáng
ngày 19/4, Collins gặp Ely. Ely nói Diệm đang mở chiến
dịch tuyên truyền chống Ely, gọi Ely là “thực dân”
[colonialist]. Ely cảnh giác Collins: “Nếu muốn cứu Việt Lúc 15G00
chiều 19/4, Collins gặp Ðỗ, Quát, Minh và Trần Văn
Văn. Quát nói Diệm không thể thành lập được
một chính phủ mở rộng, và bầu cử Quốc hội Lập hiến
có lợi hơn việc Bảo Ðại triệu tập một Hội nghị. Ðỗ nghĩ
Diệm không thể tổ chức được một chính phủ lâm thời
như Thoại đề nghị. Trần Văn Văn tuyên bố sẽ không tham dự
chính phủ lâm thời của Diệm.( 156) Tối ngày 19/4,
Collins gặp Diệm, nói nếu Diệm không thay đổi, có
thể sẽ bị Bảo Ðại cách chức. Collins cũng đề nghị Bộ Ngoại
Giao cho thay Diệm càng sớm càng tốt.( 157). Hôm
sau, 20/4, Collins về Mỹ. Trước khi Collins lên phi cơ, Lansdale
hỏi phải chăng nhóm Collins về tới Ngày Thứ
Năm, 21/4, đại diện Ðại sứ Pháp, Pierre Millet, thăm TNS
Mansfield, tham khảo việc thay Diệm. Ngày
22/4, Tướng Collins họp với Bộ Ngoại Giao về tình hình
Việt Collins
được gặp Dulles hai lần, trong bữa ăn trưa ngày 25/4, và
tại Bộ Ngoại Giao ngày 27/4. Dulles đồng ý sẽ ủng hộ
Quát hay Ðỗ, và hứa sẽ gửi điện tín qua
Sài Gòn. Tuy nhiên, Dulles chưa muốn thông
báo cho Ngày
27/4,
Collins
hoàn
tất
báo
cáo
để
trình
bày trước HÐANQG vào hôm sau. Theo Collins, sau
nhiều tháng làm việc với Diệm, Collins thấy Diệm
không có khả năng hành pháp để chỉ huy những
người có ý chí mạnh [độc lập], chỉ chú
tâm vào tiểu tiết và chưa có một tư tưởng
xây dựng nào. Những người có khả năng trong
chính phủ bị ghẻ lạnh bởi thái độ vượt qua đầu họ, Diệm
chẳng chú tâm gì đến quan điểm của họ, chỉ dựa
trên hai em và một số người gọi dạ bảo vâng [“yes
men”]. Chắc chắn Diệm lương thiện, chống Cộng và chống thực
dân, nhưng vô cùng cố chấp, khổ hạnh [ascetic]
và thày tu đến độ không thể đối diện với những thực
thể như Bình Xuyên hay Cao Ðài. Diệm trở
thành tử thù của Bảy Viễn khi đóng cửa sòng
bạc ở Sài Gòn. Rồi tiến cử Quát và Ðỗ.
Collins nghĩ rằng Bảo Ðại không thể bị loại bỏ hay cho hồi
hương. Bảo Ðại là sợi giây chính thống [he
was
the
thread
of
legitimacy].
Giải
pháp cho Nam Việt Thời gian
này, vài biến cố quan trọng xảy ra. Ngày 17/4, Bảo
Ðại đề nghị với Mỹ cách giải quyết khủng hoảng. Ngày
20/4, Nguyễn Ðệ gặp William M. Gibson và David Bane của
Tòa Ðại sứ Mỹ ở Ngô
Ðình Diệm cũng có kế hoạch riêng. Thứ Bảy,
23/4, Diệm đọc diễn văn, tuyên bố sẽ trưng cầu dân ý
về 4 vấn đề lớn, hứa sẽ bầu cử Quốc Hội trong vòng 3 hay 4
tháng, và yêu cầu các giáo
phái thương thuyết.( 164) Ngày 26/4, Diệm chính
thức cách chức Lai Văn Sang (SL 239-NV ngày 25/4/1955);
thay thế bằng Ðại tá Nguyễn Ngọc Lễ, “vì quyền lợi
quốc gia và dân tộc, sở Cảnh Sát và
Công An quốc gia không thể để trong tay một đảng
phái nữa,” và căn cứ trên “những lỗi nặng trong
công vụ và các hành vi phiến loạn” của Sang.
Diệm còn cử Thiếu tá Nguyễn Vĩnh Ðắt làm
Giám đốc Công An Nam Việt thay Nguyễn Văn Tôn
(NÐ số 19-NV ngày 25/4/1955). Nha Tổng Giám đốc Cảnh
Sát Công An cũng như Nha Công An Nam Việt được tạm
thời chuyển từ đường Catinat (Tự Do) về số 274 Ðại lộ Trần Hưng
Ðạo, tức Trung tâm huấn luyện Cảnh sát. Tất cả
nhân viên các cấp phải trình diện tại trụ sở
mới trước 14G30 ngày 28/4, nếu chậm trễ sẽ bị sa thải và
có thể bị truy tố. Các đơn vị Cảnh Sát Xung Phong
bị giải tán, nhưng nếu ai muốn tiếp tục phụng sự chính
nghĩa sẽ được sử dụng, chuyển qua một ngành khác.( 165) Lai Văn Sang
không tuân lệnh. Trong tuyên cáo gửi thuộc
cấp, Sang khẳng định không chịu bàn giao và tiếp
tục chiến đấu chống lại “tà lực” của một chính phủ đang
bị lung lay, và chỉ tuân lệnh Bảo Ðại. Sang còn
dẫn lời Hiệp sĩ d’Assas: “Nếu tôi tiến tới, hãy theo
tôi; nếu tôi lui bước, hãy giết tôi đi; nếu
tôi chết hãy trả thù cho tôi.”( 166) Bảo
Ðại cũng tích cực tìm cách giải quyết; muốn
gọi Diệm và Tướng Tỵ qua Pháp tham khảo, nhưng các
viên chức Mỹ yêu cầu tạm hoãn lệnh trên, chờ
kết quả phiên họp Hội đồng ANQG Mỹ ngày 28/4. Ngày
Thứ Ba, 26/4, từ Paris, Bảo Ðại yêu cầu Mỹ có biện
pháp trong vòng 24 giờ, bằng không sẽ đơn phương
hành động. Trong cuộc điện đàm với Young lúc 16G00
[23G00 Tại Việt Trưa ngày
28/4, hai bên bắt đầu nổ súng. Theo chính phủ Diệm,
lúc 1G15, Dinh Ðộc Lập bị pháo kích bằng cối
81 ly. Quân đội Quốc Gia bèn phản công, tiến
vào khu Ðại Thế Giới ở Chợ Lớn. Tài liệu Pháp
thì ghi nhận lúc 11G45 sáng, quân
chính phủ chạm súng với Bình Xuyên ở khu vực
trường Petrus Ký, số thương vong lên tới vài chục.
(Theo Ðại tá André Ðôn nói với Tướng
O’Daniel, quân Bình Xuyên bắn vào một xe vận
tải chở quân chính phủ) Lúc 11G45, pháo binh
chính phủ bắn vào khu Bình Xuyên, khiến 6-7
binh sĩ Pháp gác trạm biến điện ở khu vực cầu chữ Y bị
thương. Bình Xuyên phản công bằng cách
pháo kích Dinh Ðộc Lập lúc 13G15.( 169) 14G00 chiều
28/4, Diệm điện thoại cho Ely, nói nếu Bình Xuyên
không ngưng bắn, Diệm sẽ phản công. Khoảng ba tiếng sau,
Diệm cho lệnh quân đội tấn công các vị trí
Bình Xuyên tại đô thành và Chợ Lớn.
(Theo Ely, Trần Văn Minh, Tư lệnh Ðệ nhất Quân Khu,
không muốn tấn công nhưng Diệm trực tiếp cho lệnh
các đơn vị).( 170) Tại Chợ Lớn,
khoảng 17G00, khu vực cầu Nancy–từ giữa đường Trần Hưng Ðao
[Galliéni] và Kinh Tàu Hủ [Arroyo
Chinois]–cháy dữ dội. Nhảy Dù chiếm được các đồn
bót dài theo Kinh Tàu Hủ, và một vị
trí gần trường Petrus Ký. Ðại Thế Giới
cũng bị cháy. Bình Xuyên cho phá cầu
chữ Y.( 171) Trong
đêm 28/4, quân QGVN bắt được hai Pháp kiều trong
các đồn bót Bình Xuyên. Các đơn vị
cũng báo cáo 6 trực thăng Pháp di tản thương binh
Bình Xuyên.( 172) Theo Tướng
O’Daniel, quân đội QGVN sử dụng 4 tiểu đoàn Dù. 13
giờ ngày 29/4, chiếm được mục tiêu dài theo Kinh
Tàu Hủ, rồi chiếm Bộ Tư lệnh Bình Xuyên trên
đường Trần Hưng Ðạo, cùng các mục tiêu
khác tại Sài Gòn và Chợ Lớn. (Sức tiến
quân chỉ chậm lại cho binh sĩ thu nhặt chiến lợi phẩm khá
hậu hĩ). Một cánh quân khác chiếm được trụ sở
Bình Xuyên trong trường Petrus Ký. Ðại
Thế
Giới
bị
đốt
cháy.
Bình Xuyên cho
tháo gỡ ván lót cầu chữ Y khiến tạm thời
không sử dụng được. Sáng 29/4, mới dập tắt được đám
cháy khủng khiếp ở khu Thật
khó kết luận phe nào đã ra tay trước. Ngày
28/4, khi nói chuyện với Cách
nào đi nữa–trong khi Dulles chỉ thị tiến hành việc loại
bỏ Diệm– từ Sài Gòn sáng ngày 28/4 Ðề nghị của Tối đó,
Dulles nói với viên chức Tòa Ðại sứ Pháp
ở Oat-shinh-tân rằng thật khó khăn cho một Thủ tướng
không có quyền chỉ huy Cảnh Sát; và, Bảo
Ðại nên thu hồi quyền chỉ huy Cảnh Sát từ tay
Bình Xuyên, cũng như đồng hóa quân đội
giáo phái vào quân đội quốc gia. Collins sẽ
trở lại Sài Gòn ngày 2/5/1955. Dulles mong Bảo
Ðại không có quyết định nào trước khi Ely gặp
Collins. Cuộc khủng hoảng hiện tại khiến Mỹ phải điều chỉnh lại
chính sách cơ bản về Việt Nhưng
Pháp cảm thấy đã quá đủ. Tại Paris, ngày
29/4, Faure tiếp kiến Ðại sứ Dillon. (Laforest và nhiều
nhà ngoại giao tham dự). Faure nói Pháp bắt buộc
phải duyệt xét lại chính sách đối với NVN,
và không có ý định can thiệp với Bảo
Ðại. Nửa năm qua, Pháp đã nói thẳng rằng Diệm
không đủ khả năng để ổn định tình hình chính
trị miền Nam, và mới đây, Pháp đã cố thuyết
phục Mỹ cùng tái xét tình hình
Sài Gòn, hầu đạt được sự thỏa thuận về những gì
cần làm để ngăn chặn nội chiến. Từ ngày làm Bộ
trưởng Tài chính, Ngoại giao, và rồi Thủ tướng,
Faure chưa gặp một ai nghĩ rằng Diệm có thể ổn định tình
hình ở Sài Gòn. Dẫu vậy Pháp không
muốn hiềm khích với Mỹ về vấn đề này. Pháp
không có một chính sách nào rõ
ràng, và muốn đạt được giải pháp chung với Mỹ. Về việc Bảo
Ðại gọi Diệm qua Pháp ngày 28/4, Faure sợ rằng
quá chậm để ngăn chặn một cuộc nội chiến. Pháp
không chủ trương “đòn sóc hai đầu” khi duy
trì liên hệ kinh tế và thương mại với Bắc Việt.
Pháp chẳng có ảo vọng gì về Hồ Chí Minh,
nhưng cần bảo vệ quyền lợi tại Bắc Việt. Với áp lực của Quốc hội
và dư luận, không thể triệu hồi Sainteny. Về việc Bảo
Ðại cử Nguyễn Văn Vỹ làm Tổng Tham Mưu trưởng, Laforest giải
thích, là do Vỹ thâm niên nhất, được nhiều
người kính trọng, và không muốn nội chiến xảy ra.
Diệm, với sự yểm trợ của khoảng 10 tiểu đoàn “Bắc Kỳ,” kể cả
Nhảy Dù, có thể kiểm soát được Sài
Gòn, nhưng chiến tranh sẽ bộc phát ở vùng
quê trong vòng vài tuần lễ tới. Chỉ có Việt
Minh hưởng lợi. Faure lập lại lời tuyên bố trong buổi họp
báo buổi sáng là nếu có nội chiến, Việt
Minh sẽ chiếm miền Ngày 29/4
này, Mỹ và Pháp ký qui ước viện trợ cho
quân viễn chinh Pháp tại Ðông Dương 100 triệu
MK. Số tiền này chưa bằng 1/4 phí tổn dự trù. Mỹ
còn thông báo với Bộ trưởng tài chính
Pflimlin rằng nếu hai nước khác biệt nhau về chính
sách đối với VN sẽ phải tái xét việc viện trợ. Tai
Oat-shinh-tân, Tại
Sài Gòn, ngày 30/4/1955, O’Daniel và
IV. NGÀY TÀN CỦA BẢO ÐẠI:
Việc Diệm quyết định
đánh dẹp Bình Xuyên, ngược lại chỉ thị “ôn
hòa” của Bảo Ðại, khiến Bảo Ðại chẳng còn lựa
chọn nào khác hơn phản ứng mạnh với Diệm. Tuy
nhiên, phản ứng của Bảo Ðại chẳng khác gì tiếng
vạc kêu sương. Uy quyền của Bảo Ðại chỉ là thứ uy
quyền trên giấy tờ, với sự phê chuẩn của những thế lực sau
lưng.( 180) A. TIẾNG VẠC KÊU SƯƠNG:
Tai Cannes, ngày
28/4 (29/4 VN)–như đã lược nhắc–Bảo Ðại ký nghị định
bổ nhiệm Tướng Nguyễn Văn Vỹ làm Tổng Tư lệnh QÐQGVN
và cho phép Vỹ sử dụng mọi phương tiện để ngăn chặn nội
chiến giữa quân đội, cảnh sát và các
giáo phái. Ðược tin này, Dulles điện thoại cho
Couve de Murville, yêu cầu minh xác. Dulles nói nếu
lấy quân đội khỏi tay Thủ tướng, Pháp và Diệm
đã thực sự ủng hộ Bình Xuyên, và như thế
khó được Mỹ yểm trợ.( 181) Cùng
ngày
28/4,
Bảo
Ðại
cũng
gửi
điện
văn chỉ thị Diệm bàn
giao quân đội cho Vỹ, rồi cùng Lê Văn Tỵ qua Tại
Sài Gòn, sáng ngày Thứ Sáu 29/4 Diệm
họp bàn với Hội đồng Tổng trưởng và tham khảo Tướng Cao
Ðài Nguyễn Thành Phương, Trình Minh
Thế,và Ðại tá Nguyễn Giác Ngộ về hai
công điện của Bảo Ðại. Nội các cùng Phương,
Thế, và Ngộ đều cố vấn Diệm chống lại.( 182) Trưa
đó, Diệm yêu cầu được gặp XLTV Ðại sứ Mỹ Kidder,
tuyên bố không bàn giao quân quyền cho Vỹ.
Diệm cũng nói sẽ gửi điện văn cho Bảo Ðại phản đối việc thay
Tÿ bằng Vỹ; đồng thời thông báo không thể qua
Paris vì chẳng ai chịu xử lý thường vụ chức Thủ tướng.
Nếu Bảo Ðại cương quyết bắt Diệm rời nước, Diệm nhấn mạnh, Bảo
Ðại sẽ chấm hết. Diệm còn thêm rằng Pháp yểm
trợ Bình Xuyên. Trực thăng Pháp tải thương
lính Bình Xuyên. Quân đội bắt được hai
lính Pháp trong đồn Bình Xuyên đêm
28/4. Theo Diệm, Bình Xuyên là sản phẩm của thực
dân. Khi được Kidder cho biết phản ứng của Diệm, Ely gọi Diệm
là “thằng khùng vô trách nhiệm.” Ely cũng
tuyên bố nếu Diệm còn tại chức, Ely sẽ phủi tay mọi
trách nhiệm.( 183) Theo
nhân chứng, sáng ngày 29/4, Diệm còn triệu
tập một buổi họp ở Dinh Ðộc Lập các chính
khách, “nhân sĩ” và 18 đoàn thể, như Việt
Nam Dân Xã Ðảng (Nguyễn Bảo Toàn đại diện),
Việt Nam Phục Quốc Hội (Hồ Hán Sơn), Mặt Trận Quốc Gia
Kháng Chiến Việt Nam (Nhị Lang). Sau đó, công bố
lá thư của Bảo Ðại đòi Diệm phải qua Pháp.(
184) Cùng
ngày,
do
sự
dàn
xếp
của
Nhu
và các cố vấn
Mỹ, một buổi họp khoáng đại được tổ chức ở Toà
Ðô chính Sài Gòn, qui tụ 200 người của
18 đoàn thể. Nguyễn Bảo Toàn, Hồ Hán Sơn và
Nhị Lang chủ xướng việc thành lập Hội Ðồng Nhân
Dân Cách Mạng Quốc Gia [HÐNDCMQG], bầu ra một ban chấp
hành với 33 người. Ðưa ra 3 đòi hỏi: (1) Truất phế
tức khắc Bảo Ðại. (2) Giải tán chính phủ Diệm. (3) Ủy
nhiệm “chí sĩ Ngô Ðình Diệm” thành lập
một chính phủ mới để trừng trị bọn phiến loạn Bình
Xuyên, thu hồi độc lập toàn vẹn, yêu cầu quân
viễn chinh Pháp triệt thoái, và tổ chức bầu cử
Quốc hội. Giữa
lúc đó bỗng có tin Tướng Vỹ bắt giữ một số tướng
tá, kể cả Lê Văn Tÿ và Ðại tá
André Trần Văn Ðôn v.. v..., ép họ vào
Dinh Ðộc Lập bắt Diệm từ chức. Thế, Phương và Ngộ bèn
kéo đoàn Chủ tịch HÐNDCM đi theo sang Dinh Ðộc
Lập. Họ dùng súng uy hiếp Vỹ, giữa lúc 2 tiểu
đoàn Ngự Lâm Quân đang vây quanh Dinh. Vỹ bị
áp lực phải ký giấy xin qui phục Diệm. Sau đó, bỏ
lên Ðà Lạt, rồi qua Pháp. Biểu tình của
các UB/HÐNDCMQG lan tràn khắp nơi trong tháng
5 và 6/1955.( 185) Phát
súng
lục
bắn
vào
“con
thác
cách
mạng”
bài phong đả thực của Bảo Ðại bị phản công bằng đại
pháo “cộng hòa.” Tại
Cannes, ngày Thứ Sáu, 29/4, Bảo Ðại tiếp Gibson. Bảo
Ðại qui trách mọi tội lỗi của Diệm cho sự yểm trợ “mù
lòa” [blind support] của Mỹ. Vì Mỹ không
hành động, chiến tranh đã xảy ra, khiến hàng trăm
người thiệt mạng, một hoang phí nhân lực cần thiết để
chống Cộng. “Sự không hành động của Mỹ không thể
chấp nhận được nữa” [US inaction could no longer be admitted]. Do sự
can thiệp của Mỹ trong hai ngày 26 và 27/4, Bảo Ðại
đã tạm ngưng hành động. Nhưng máu đã đổ.
Nên ngày 28/4, Bảo Ðại không thể không
hành động. Bảo Ðại yêu cầu Mỹ thuyết phục Diệm
buông khí giới qua Pháp để nói chuyện với
những ngườợi quốc gia chống Cộng. Khi nào Diệm làm như
vậy, phe chống đối sẽ ngưng bắn.
Theo Bảo Ðại, sự chống đối Diệm xảy ra
khắp nơi và việc Mỹ yểm trợ Diệm đang khiến dân Việt bất
bình Mỹ [Bao Dai alleged that resistance to Diem is so
universal in Vietnam that support of Diem was serving discredit US in
eyes of [the] Vietnamese people]. Diệm
chắc chắn có thể đánh đuổi các giáo
phái khỏi Sài Gòn, nhưng họ sẽ tản mác về
vùng nông thôn mà Diệm không kiểm
soát được. Diệm đang trở thành một thứ “bệnh thần kinh” (psychopath), muốn làm một thứ thánh tử đạo
bất kể giá sinh mạng hàng ngàn người vô tội
và tài sản đất nước. Diệm khoan khoái với ý
nghĩ mạng sống mình đang bị nguy hiểm và chào
đón cái chết thiêng liêng–cái chết
mà hẳn Diệm sẽ phải đón nhận. Vì, sự thù
ghét Diệm đã lên cao độ và sẽ có
người ám sát Diệm trong một tương lai gần nếu Diệm nhất
quyết cai trị bằng bạo lực chỉ “với sự giúp đỡ của gia
đình [họ Ngô] và nước Mỹ.” [In Bao Dai’s opinion Diem has now become a psychopath who
wishes to martyr himself even at price of thousands of lives and
national treasury. He enjoys thought that his life
is in danger and would welcome martyrdom which is what he will get,
said Bao Dai, for feeling is so intense against him that someone is
bound to assassinate him in near future if he persists in trying to
establish his rule by force “with the support of no one but his own
family and the US,” Bao Dai said]. Bảo Ðại cũng nhận xét thêm
vai trò của Diệm như một tín đồ Ki-tô. Diệm, theo
Bảo Ðại, tin rằng mình đang tham dự một cuộc thánh
chiến; nhưng làm thế, Diệm khiến Ki-tô giáo bị mọi
người oán ghét. Chính gia đình bên vợ
Bảo Ðại cũng là Ki-tô lâu đời. Tuy nhiên,
thực tế là chỉ vì người ta ghét Diệm, bất cứ người
Ki-tô nào cũng lo sợ khi ra khỏi phạm vi các
thành thị. [Bao Dai spoke of
Diem’s role as a Catholic, stating that the latter regarded his task as
leading a holy war. Instead of doing that, he had
turned Bảo Ðại đã dự đoán việc
Diệm không tuân lệnh qua Pháp; và, quyết định
trên chứng tỏ Diệm không phải là người muốn phục vụ
đất nước, mà chỉ vì tham vọng độc tôn của một
lãnh chúa, muốn loại bỏ mọi chống đối, qui tụ quyền lực
trong tay mình và gia đình. [Diem’s refusal to obey Bao Dai’s summons . . . did not surprise him. He had expected it
and, in a sense, welcomed it as it might serve to clear the air and
prove to the people that Diem is not acting as servant of the state as
he claimed but rather as a self-seeking Warlord who wished to eradicate
all opposition and hold total power within his own hands and that of
his family]. Bảo Ðại sẽ kết tội Diệm là “phiến
loạn;” và sẽ đoàn kết mọi người chống lại Diệm cho tới
khi Diệm bị loại khỏi chức vụ đang tiếm đoạt. [Bao Dai . . . would
take legal steps to have him declared a rebel and would then proceed to
unite the country against him until he was removed from position he was
usurping]. Bảo Ðại thêm
rằng đã cho lệnh triệu tập các nhân sĩ và
lãnh tụ đảng phái để tham khảo ý kiến. Trong số
những người được mời có Phạm Công Tắc, Lê Hữu Từ
và đại diện các tôn giáo khác. Bảo
Ðại cũng đã gửi Tướng Nguyễn Văn Hinh về Ðông
Dương như Khâm sai kinh lược bên các giáo
phái. Vẫn theo Bảo Ðại,
Diệm đã sai Luyện tới Những lời tuyên bố
của Bảo Ðại, dĩ nhiên, chỉ là thứ chống đối chiếu lệ.
Với người Mỹ, Bảo Ðại–và ngay cả sự hợp tác của
Pháp tại Ðông Dương–đã trở thành dĩ
vãng. B. DIỆM DIỆT BÌNH XUYÊN:
Chiều ngày 29/4,
Ely cử Wintrebert gặp Diệm, và cho tăng chốt cầu Tân Thuận
và Khánh Hội. Vỹ cũng điều hai tiểu đoàn Ngự
Lâm Quân vào Sài Gòn. Tối đó,
Vỹ gặp Tÿ và Ðôn để tìm ra một giải
pháp ôn hòa. Diệm cũng điều các đơn vị Cao
Ðài của Phương và Thế vào thành phố.
Các lực lượng Pháp, dù giữ trung lập, không
cho các đơn vị của Phương vào tăng cường cho Dinh Ðộc
Lập. Ngày
Thứ
Bảy,
30/4,
QÐQGVN
bắt
đầu
tiến
sang cầu chữ Y. Ely rất bất
mãn, nhấn mạnh rằng Diệm chịu mọi trách nhiệm. Theo Ely,
Diệm không còn là Thủ tướng, và không
còn chính phủ. Ely cũng muốn XLTV Ðại sứ Mỹ ký
một tuyên cáo chung tuyên bố thuyết phục Diệm ngưng
bắn nhưng bị từ chối.( 187) Thứ Hai, 2/5, quân
đội vượt kinh Tàu Hủ, tiến vào đại bản doanh của Bảy
Viễn. Khoảng 1,300 quân Cao Ðài Liên Minh của
Trình Minh Thế cũng được điều vào mặt trận. Bảy Viễn,
Sang, và Lai Hữu Tài chạy thoát. 200 CAXP bị bắt
và 500 xin hàng Ðại tá Lễ. Hôm sau, 3/5,
quân Bình Xuyên biến dạng khỏi khu vực Sài
Gòn/Chợ Lớn. Cũng trong ngày
Thứ Ba, 3/5, Tướng Thế đột ngột tử trận. Buổi sáng hôm
đó, Thế bị thương nhẹ khi đang tiến qua cầu Tân Thuận.
Buổi chiều, Thế đến gặp Ngày
Thứ
Tư,
4/5,
Collins
đề
nghị
Ely
nên đóng cửa vài
đồn Bình Xuyên trong khu Pháp kiểm soát,
vì tinh thần bài Pháp ngày một dâng
cao. Collins cũng nói quân đội QGVN chỉ tạm hưu chiến 3, 4
ngày.( 189) Ngày
4/5
này,
Diệm
ban
hành
Dụ
số
30, tịch thu tài sản
của những kẻ phiến loạn trong trường hợp nội loạn, và Dụ số 31,
đặt ra ngoài vòng pháp luật “bọn phiến loạn
Bình Xuyên” (Lê Văn Viễn, Lai Văn Sang, và
Lai Hữu Tài). Nhờ sự tiếp tay của một số viên chức
Pháp, Bảy Viễn cùng các thuộc hạ tẩu thoát
về mật khu. Một số đơn vị xin hàng. Ngày 21/9/1955, Diệm
mở chiến dịch Hoàng Diệu để tiễu trừ quân Bình
Xuyên trong vùng Rừng Sát. Bảy Viễn trốn
thoát qua Miên, rồi sang tị nạn tại Pháp. Một số dư
đảng Bình Xuyên, do Bảy [Võ Văn] Môn cầm đầu
được Cộng Sản–Ba Thu (Thuận), Lâm Quốc Ðăng (Nguyễn Văn
Thược) và Tám [Lê] Thanh–thuyết phục, đưa về chiến
khu D và Dương Minh Châu. (190) Ðáng lưu
ý rằng Năm Lửa và Ba Cụt không hề yểm trợ
Bình Xuyên. Lực lượng của Năm Lửa đang ở vùng Long
Xuyên. Cao Ðài cũng không tăng viện cho
Bình Xuyên. ( 191) Phụ
chú :
97. FRUS,
1952-1954, XIII:2:2401. 98. US-Vietnam
Relations,
1945-1967,
Bk
1,
IV:A3:22-25;
The
Pentagon
Papers (Gravel),
I:227-229; 1K 233, carton 40; Tel 2601, 19/12/1954, Dillon to BNG;
FRUS, 1952-1954, XIII:2:2400-2405. 99. Tel 2644, 29/12/1954,
Dulles to Collins; FRUS, 1952-1954, XIII:2:2435-2436. 100. FRUS,
1955-1957, I, tài liệu 15 [ I:19-21]. 101. FRUS,
1955-1957, I:22-24. 102. FRUS,
1955-1957, I:tài liệu 14, 19, 20. 103. FRUS,
1955-1957, I:54-57; US-Vietnam Relations, 1945-1967, Bk 10:865-882. 104. FRUS, 1955-1957,Tài liệu 26. [Ngày 28/1/1955, Mendès-France chấp thuận đề nghị của Dulles trong thư ngày 24/1/1955]. 105. FRUS, 1955-57, I, tài liệu 28[pp. 66-70]. 106. FRUS,
1955-1957, I, tài liệu 43. 107. FRUS,
1955-1957, I:89n3. 108. FRUS,
1955-1957, I:91-92. 109. FRUS, 1955-1957,
I:99-102 (Diem) & 103-104 (Do). 110. Ibid., I:98-99.
Ngày 25/2/1955, báo Paris-Presse loan tin Dulles
tuyên bố ở 111. Ngày
17/10/1954, Trung tá Lê Văn Thái “trắng”
thành lập Ðoàn Thanh Niên Quốc Gia Dân
Chủ Xã Hội hay Thanh Niên Quốc Dân Xã. Tổ
chức này làm lễ ra mắt ngày 17/10/1954 dưới sự chủ
tọa của Nguyễn Thành Phương. Sáu đức lớn là
Nhân, Cần, Trung, Trí, Dũng, Liêm. Thái cực
lực bài Pháp vì bị Pháp bắt giữ trong hai
năm 1950-1951. Làm việc dưới quyền Trung tướng Phương; SHAT ( 112. CÐ 3695,
ngày 4/3/1955, Kidder gửi BNG; FRUS, 1955-1957, I:106-108. Xem
thêm “Note pour le Président du Conseil, 22/3/1955;” SHAT ( 113. CÐ 3267,
ngày 8/2/1955, Kidder gửi BNG; FRUS,1955-1957, I:79-80, 86-87;
SHAT ( 114. FRUS,
1955-1957, I:75. 115. Memorandum (Lansdale
to Collins), 116. CD 3906, 15/3/1955, Collins gửi BNG; FRUS, 1955-1957, I:127. 117. CD 4012, 21/3/1955,
Collins gửi BNG; FRUS, 1955-1957, I:137-140 [Doc 68]. 118. CD 4042, 22/3/1955,
Collins gửi BNG; FRUS, 1955-1957, I:140-142 [Doc 69]. Ngày
22/3/1955, Collins mời Phương và Thế tới gặp, hạch hỏi về bản
tuyên cáo của các giáo phái. Collins
đặc biệt nặng lời với Thế, bảo thẳng Thế rằng chính Thế
đã tình nguyện qui thuận chính phủ, được trả tiền
hậu hĩ; nếu Diệm bị lật đổ, liệu Mỹ có tiếp tục trả lương cho
lính Cao Ðài hay chăng? Thế cải chính rằng chỉ
theo phe giáo phái để dò tâm ý họ.
Theo Collins, nói chuyện với Phương và Thế giống như đối
thoại với hai đứa trẻ 4 tuổi, cứng đầu; Ibid., I:Doc. 70. [Ðể đề
phòng bất trắc, và phần vì Diệm không muốn
rời nước, Thế được tham gia phái đoàn dự Hội nghị
Á Phi ở Bangdung ( 119. Có tin đồn
Collins mời Bảy Viễn gặp mặt, nhưng Viễn từ chối. Cũng có tin
Viễn rời khu Bình Xuyên; SHAT ( 120. The
Pentagon Papers (Gravel), I:232-3. 121. CÐ 4192,
ngày 29/3/1955, Collins gửi BNG; FRUS, 1955-1957, I:158-1159
[Tài liệu 79]; The Pentagon Papers (Gravel), I:230. Việc
cách chức Minh, thực ra, còn có những lý do
khác. Sau này, Ngô Ðình Nhu nhắc đến
việc Minh đã dèm pha với Ðặc sứ Collins kế hoạch tổ
chức Bảo An Ðoàn, cho rằng Diệm muốn thành lập một
đạo quân thân tín làm thế tựa. Vì vậy,
kế hoạch tổ chức Bảo An bị đình trễ, và chỉ thống thuộc
vào Bộ Nội Vụ mà không phải Bộ Quốc Phòng. 122. CÐ 4194, ngày 30/3/1955, Collins gửi BNG; FRUS, 1955-1957, I:159-163 [Tài liệu 80]. 123. CÐ 4230, 30/3/1955, Collins gửi BNG; FRUS, 1955-1957, I:166-167 [Doc 82]; CÐ 4263, ngày 31/3/1955, Ibid., Collins gửi BNG; I:169; CÐ 4264, ngày 31/3/1955, Collins gửi BNG; Ibid., I:171; Memorandum ngày 4/4/1955, Kent gửi Allen Dulles, Ibid., I:199. 124. CÐ 4260,
ngày 31/3/1955, Dulles gửi Collins; FRUS, 1955-1957, I:168. 125. CÐ 4263
ngày 30/3/1955, Collins gửi BNG; FRUS, 1955-1957, I:168-169n2,
174. 126. CÐ 4234, 30/3/1955, Collins gui BNG; FRUS, 1955-1957, I:168-169. Dulles gửi điện văn, tán thành kế hoạch của Collins; FRUS, 1955-1957, I:168. Sự từ chức của Ðỗ tạo nên hiềm khích đầu tiên giữavợ chồng Nhu và Ðỗ. Lệ Xuân đã điện thoại chửi rủa Ðỗ, chú ruột Lệ Xuân, với những lời lẽ cực kỳ thô tục. 127. CÐ 4264, 31/3/1955, Collins gui BNG; FRUS, 1955-1957, I:172-174 [Doc. 85]. 128. Ibid., I:174. 129. Memorandum (phone call from Eisenhower); FRUS, 1955-1957, I:175-176 [Doc. 87]. 130. Memorandum ( 131. CÐ 4284, 1/4/1955, Dulles gửi Collins; Ibid., I:179-180. 132. CÐ 4292,
2/4/1955, Dulles gửi Collins; Ibid., I:180-184; . CÐ 4301,
2/4/1955, Collins gửi BNG; Ibid., I:184-189. 133. Ibid., I:189. 134. CÐ 4285,
2/4/1955, 135. CÐ 4309,
3/4/1955, Dulles gửi Collins; FRUS, 1955-1957, I:190-193) [Cùng
ngày, Young thêm rằng vấn đề là thời điểm. BNG
không phải không nghĩ đến những khó khăn quanh Diệm,
nhưng chưa có người thay xứng đáng [no suitable
alternative person has yet been proposed or appeared on the scene.
Ngày Chủ Nhật, Couve de Murville nói Pháp
không có người thay. (I:197-198) Pháp còn
kiều dân và quyền lợi ở Việt 136. CÐ 4348,
5/4/1955, nửa đêm ngày 5/4/1955, Collins gửi BNG; FRUS,
1955-1957, I:205-208. 137. CÐ 3510,
4/4/1955, Dulles gửi 138. CÐ 4366, ngày 6/4/1955, BNG gửi Sài Gòn; FRUS, 1955-1957, I:211-212) [Ngày 7/4/1955, Pháp không đồng ý. Muốn điều kiện tiên quyết là Diệm mở rộng chính phủ, kể cả đại diện của Bình Xuyên; I:212n4] 139. CÐ 4382,
7/4/1955, Collins gửi BNG; FRUS, 1955-1957, I:215-218; The Pentagon
Papers (Gravel), I:232. 140. CÐ 4399,
ngày 7/4/1955, Collins gửi BNG; FRUS, 1955-1957, I:218-221 [Doc
106]. 141. FRUS,
1955-1957, I:213-214. 142. FRUS,
1955-1957, I:221-222. 143. CÐ 4411 &
4412, 8/4/1955, BNG gửi Collins; FRUS, 1955-1957, I:222n2-3; CÐ
4448, ngày 9/4/1955, Collins gửi BNG; FRUS, 1955-1957,
I:Tài liệu 108 [pp.222-229]; US-Vietnam Relations, Bk 10:894-906. 144. CÐ 4438,
9/4/1955, BNG gửi 145. CÐ 4452, 10/4/1955, Collins gửi BNG; FRUS, 1955-1957, I:231-235 [Trả lời các CÐ 4438, & 4444 của BNG] Lý do để loại Diệm không do Pháp mà chính ngay bản thân Diệm. Trong các công điện ngày 15/11, 6/12, 13/12 và 16/12/1954, Collins đề nghị Quát. Ðỗ cũng chưa hề tham gia vào chính phủ nào của Pháp. (CÐ 4452, 10/4/1955, Collins gửi BNG; Ibid., I:tài liệu 110 [231-235]). 146. Ngày 11/4/1955, khoảng 11G13 sáng, Dulles nói chuyện với Giám đốc CIA (Allen W. Dulles): “It look likes the rug is coming out from under the fellow in SEA.” [Trông như tấm thảm dưới chân ông bạn Ðông Nam Á đang bị rút ra]. Sẽ ăn trưa với TT, và mọi chuyện như thế là xong. Có lẽ Quát hay B [Ðỗ?]; FRUS, 1955-1957, I:235. Tuy nhiên, sau phiên họp lúc 17G00 với Eisenhower, vẫn chưa có quyết định dứt khoát; Ibid., I:Tài liệu 111. Tối 11/4/1955, với sự chấp thuận của Eisenhower, Dulles gửi điện cho Collins, cho phép xúc tiến kế hoạch thay Diệm, trong khi chờ đợi quyết định rõ rệt; Ibid., I:237-238; CÐ 4466, ngày 11/4/1955, BNG gửi Collins; Ibid., I:239-241. 147. FRUS,
1955-1957, I:238-239. 148. CÐ 4487,
12/4/1955, 149. CÐ 3622, BNG gửi
150. CÐ 4436,
13/4/1955, 151. FRUS,
1955-1957, I:247n2. Ngày 14/4, Thoại đề nghị Diệm từ chức,
thành lập một chính phủ lâm thời để lo việc tổ chức
Quốc Hội. Theo Thoại, Diệm đồng ý; CÐ 4544, ngày
14/4/1955, Collins gửi BNG; Ibid., I:261n2. Vì việc này,
Thoại rời khỏi chính phủ ngày 10/5/1955. 152. CÐ 4516, 13/4/1955, BNG gửi Collins; FRUS, 1955-1957, I:247-248; CÐ 4529, 14/4/1955, Collins gửi BNG; Ibid. I:248-249. 153. Ngày
17/4/1955, Pháp chuyển cho Dillon công điện trả lời về
việc thay Diệm. Pháp muốn đây là quyết định chung
của hai nước; CÐ 4503, 17/4/1955, 154. FRUS,
1955-1957, I: 337-339 [Document 121]. 155. CÐ 4661, 19/4/1955, Collins gửi BNG; The Pentagon Papers (Gravel), I:260-265. 156. CÐ 4662, 19/4/1955, Collins gửi BNG; FRUS, 1955-1957, I:265-267; US-Vietnam Relations, Bk 10:915-917. [Ðiện tín này bị đốt trong ngày hôm sau, vì Dulles lại quyết định yểm trợ Diệm]. (US-Vietnam, Bk 10:31; The Pentagon Papers (Gravel), I:234. 157. CÐ 4663, 19/4/1955, Collins gửi BNG; FRUS, 1955-1957, I:268-270) I:292-293. 158. US-Vietnam
Relations,
Bk
10,
A-30. 159. FRUS, 1955-1957, I:Tài liệu 128 [tr. 270-272]. 160. FRUS, 1955-1957, I:Tài liệu 130 [tr. 277]. 161. FRUS, 1955-1957, I:Tài liệu 140 [tr. 294-296] 141 [tr.297-298] 162. FRUS, 1955-1957,
I:293 163. FRUS, 1955-1957,
I:272-276. 164. FRUS, 1955-1957,
I:283. 165. VNTTX, số 1516, 26/4/1955; CBVN, VIII:24, 7/5/1955: 1306-7. 166. Xem nguyên bản
tuyên cáo trong SHAT ( 167. The
Pentagon Papers (Gravel), I:233. 168. CÐ 4882, ngày 28/4/1955; FRUS, 1955-1957, I:304-305. 169. FRUS,
1955-1957, I:301-302; CÐ 4882, 28/4/1955, Kidder gửi BNG; Ibid., I:303-305;
CÐ
4908,
29/4/1955,
Kidder
gửi
BNG;
Ibid.,
I:315-316. Theo Cựu
Trung tướng Nguyễn Chánh Thi, Tiểu đoàn 5 Dù của
ông tham gia trận đánh này. (Ðàm thoại
ngày 10/2/2004 tại 170. The
Pentagon Papers (Gravel), I:233-4; 171. FRUS, 1955-1957,
I:324-5. 172. FRUS, 1955-1957,
I:317. 173. FRUS, 1955-1957,
I:324-325. 174. FRUS, 1955-1957,
I:301-303. 175. FRUS, 1955-1957, I:307-312.160. I:270-272. 176. CÐ 3849,
ngày 28/4/1955, 21H37 [10G37 ngày 29/4/1955 tai VN],
Dulles gửi 177. Memorandum ngày 29/4/1955 của Dillon; FRUS, 1955-1957, I:320-323 [tài liệu 154]. 178. NYT,
30/4/1955; FRUS, 1955-1957, I:338. 179. FRUS, 1955-1957,
I:339. 180. Bernard Fall đề cập
đến khả năng Bảo Ðại có thể bay về Ðà Lạt, sử
dụng 3 tiểu đoản Ngự Lâm Quân, để chống Diệm; Two Vietnams,
1964:255. Nhận định này chứng tỏ Fall không đánh
giá đúng bản chất Bảo Ðại, người đã được
rèn luyện thành một thứ vòng hoa vương giả, chỉ ở
ngôi cho người khác cai trị. Về khả năng giúp đỡ
của quân viễn chinh Pháp, Fall không được tham khảo
tài liệu văn khố về các cuộc mật đàm
Mỹ-Pháp, nên khó nhận định chính xác. 181. FRUS, 1955-1957,
I:316-317n2. 182. CÐ 4926, 29/4/1955, Kidder gửi BNG; FRUS, 1955-1957, I:317-318. Tối đó, Diệm đọc diễn văn truyền thanh, tuyên bố không bàn giao quân đội cho Vỹ, và cũng không qua Pháp. Xem thêm CÐ 4956, ngày 30/4/1955, Kidder gửi BNG; Ibid., I:331. 183. FRUS,
1955-1957, I:318. 184. Chúng
tôi xử dụng tài liệu của CIA đã giải mật và
chụp microfilm. Xem thêm Ðỗ Mậu, Việt Nam Máu Lửa
Quê Hương Tôi, ấn bản lần thứ ba (Santa Ana: Văn Nghệ,
1993), tr. 117-119. Nhị Lang, Phong trào kháng chiến
Trình Minh Thế [ 185. Tài liệu Mỹ cho rằng Nhu đứng sau tổ chức này; The Pentagon Papers (Gravel), I:303. Ngoài ra, có ít nhất 2 cá nhân bị tình nghi là Cộng Sản nằm vùng trà trộn vào. Bởi thế từ ngày 30/10/1955, tổ chức bị giải tán; Ibid., I:304. 186. FRUS, 1955-1957, I:Tài liệu 160. Hai cựu Tướng Pháp viết hồi ký cho Bảo Ðại–Le Dragon d’Annam [Con Rồng An Nam] (Paris: Plon, 1980)–không được đọc biên bản cuộc nói chuyện này, hoặc muốn lược qua. Cần nhấn mạnh tập sách gọi là hồi ký của Bảo Ðại chứa đựng nhiều chi tiết sai lầm về ngày tháng cũng như dữ kiện. Nó cũng tạo nên cuộc thưa kiện vì tranh chấp tác quyền. Sử dụng tài liệu này phải cực kỳ thận trọng. 187. Theo Kidder, từ
ngày 15/4, Ely không còn gặp Diệm, sử dụng
Wintrebert như trung gian. Một trong những lý do là “sự
hiện diện của Ely cũng giống như ngọn cờ đỏ trước con bò Diệm.” FRUS, 1955-1957, I:Tài liệu 157. 188. Thứ Tư, 4/5, Collins gặp Diệm theo lời yêu cầu. Theo Diệm, Trình Minh Thế bị bắn từ một giang thuyền của Pháp do Bình Xuyên giữ. Một nguồn tin khác cho biết Thế bị bắn từ sau lưng. Lúc 18G00, Ely giải thích vo71i Collins rằng các giang thuyền Bình Xuyên sử dụng do Pháp giao cho Cảnh sát VN; FRUS, 1955-1957, I:tài liệu 172. 189. FRUS,
1955-1957, I:tài liệu 172. 190. CBVN, VIII:24, 7/5/1955:1304; Trà 1993:68-9. Ngày 24/10, chiến dịch Hoàng Diệu chấm dứt. Ngày 6/11/1955, Diệm tổ chức mít-tinh chào đón chiến sĩ Rừng Sác. Dương Văn Minh và Lê Văn Nghiêm được phong Thiếu tướng. 191. FRUS,
1955-1957, I:363. C. CHẤM DỨT LIÊN MINH MỸ-PHÁP:
Ngày
Chủ
Nhật,
8/5,
nhân
Hội
nghị
Tam
cường và Hội nghị Bắc
Ðại Tây Dương từ ngày 9 tới 11/5/1955 tại Dulles
trả
lời
rằng
tình
hình
nghiêm
trọng
hiện nay cần Mỹ
và Pháp chung sức làm việc. Hiện đang có
một cuộc cách mạng, Diệm là cơ hội tốt nhất để cưỡi con
sóng cách mạng ấy và giữ nó trong
biên độ chấp nhận được. Mỹ thấy Diệm là phương tiện duy
nhất để cứu Nam Việt Về
Bảo Ðại, theo Dulles, nếu có thể giữ lại được, chỉ
còn khả năng làm lãnh tụ không quyền lực.
Cho tới ngày bầu cử Quốc Hội, Bảo Ðại phải yểm trợ Diệm,
không được lấy đi quyền hành trong tay Diệm. Cao
Ðài và Hòa Hảo có thể dùng,
nhưng Bình Xuyên thì không. Mỹ thấy chỉ
có Diệm đáng để viện trợ. Pháp và Mỹ cần
làm việc với nhau để giúp Diệm cưỡi trên cuộc
cách mạng. Dulles cũng nói, khi có đại diện
Bri-tên vào họp chung, là Mỹ không chọn Diệm,
đã sẵn sàng chọn giải pháp khác Diệm. Nếu
có ai khá hơn Diệm, Mỹ sẵn sàng cứu xét,
nhưng chẳng thấy một ai được đề nghị. Collins cũng ủng hộ Diệm. Faure
không đồng ý. Theo Faure, đã đến lúc phải
nói thẳng. Diệm lợi dụng cơ hội Collins vắng mặt để làm
một cuộc đảo chính; nhưng thắng lợi chỉ phiến diện. Tinh thần
bài Pháp của Diệm quá khích. Pháp
không ủng hộ Diệm vì Diệm sẽ mang lại chiến thắng cho Việt
Minh. Diệm không những thiếu khả năng mà còn
khùng (fou). Pháp không thể tiếp tục chấp nhận sự
liều lĩnh với Diệm. Tiếp tục yểm trợ Diệm sẽ có 3 kết quả tai
hại: (1) Sẽ mang lại chiến thắng của Việt Minh; (2) Sẽ tạo sự
thù hận Pháp; và, (3) Sẽ tạo nên sự xa
cách giữa Pháp và Mỹ. Ai cũng tin rằng Mỹ yểm trợ
Diệm và xúi Diệm chống Pháp, dù rằng
chính phủ Mỹ không làm điều đó. (192) Bảo
Ðại là lá bài xấu, nhưng còn có
thể sử dụng được; với Diệm thì thất bại hoàn toàn.
Ngày nào còn Diệm, không thể có một
giải pháp. Diệm là một lá bài bất khả,
và không có một cơ hội nào để thắng lợi hay
cải đổi tình thế. Mặc dù Pháp không
có ai để thay Diệm, nhưng bất cứ ai cũng có cơ hội
thành công, ngoại trừ Diệm. “Diệm là
một sự lựa chọn tồi dở, một giải pháp không thể
thành công hay cải thiện tình thế. Không
có Diệm, một giải pháp còn khả dĩ, nhưng nếu Diệm
ở đó thì bất khả.” [Diem is a bad choice, impossible
solution, with no chance to succeed and no chance to improve the
situation. Without him some solution might be possible, but with him
there is none]. Rồi Faure đặt câu hỏi liệu Mỹ muốn
Pháp triệt thoái hoàn toàn khỏi VN,
và liệu Mỹ có thể bảo đảm quyền lợi Pháp kiều tại
VN hay chăng? Dulles
nói
vấn
đề
chính
là
sự
khác
biệt quan điểm
giữa Pháp và Mỹ về Diệm. Mỹ nghĩ Diệm có khả năng.
Mỹ cũng có thể sẽ rút khỏi Việt Ngày
Thứ
Hai,
9/5,
Laforest,
Berard
và
Renerucci
[Resterucci] với
Robertson, Young và Gibson họp cùng hai đại diện
Bri-tên. Sau khi trao đổi những khiếu nại về hành vi
và thái độ của một số viên chức trung cấp tại
Sài Gòn, hai bên đi đến những vấn đề sau: Nếu muốn
duy trì Diệm, cần phải làm chính phủ ấy mạnh hơn
bằng một sự liên kết rộng rãi, dựa trên mật ước 7
điểm Collins-Ely; Pháp đã cố gắng yểm trợ Diệm, nhưng sự
chán ghét Diệm ngày một tăng vì thái
độ bài Pháp của Diệm; đặc biệt là việc dùng
xe phóng thanh đi khắp phố phường rêu rao khẩu hiệu chống
thực dân Pháp; Laforest lập lại vấn đề triệt thoái
quân Pháp khỏi Nam Việt Nam mà Faure đã
nêu lên ngày Thứ Bảy, và muốn biết Mỹ
có bảo đảm tính mạng và quyền lợi Pháp kiều
hay chăng.( 194) Ngày
9/5
này,
từ
Oat-shinh-tân,
XLTV
Ngoại
trưởng
Hoover cho
Young biết chỉ có Collins mới đủ thẩm quyền về tầm quan trọng
của việc triệt thoái quân Pháp khỏi Nam Việt Nam.(
195) Theo
lời yêu cầu của Dulles, Bộ Tổng tham mưu Liên quân
[JCS], với sự đồng ý của Bộ trưởng Quốc Phòng, có
ý kiến là hiện tại QÐQGVN khó thể bảo vệ an
ninh nội địa nếu không có sự trợ giúp từ bên
ngoài, và càng khó tự vệ nếu có sự
tấn công từ bên ngoài [Bắc Việt]. Ngoài ra
còn vấn đề liệu quân đội có trung thành với
Diệm trong mọi hoàn cảnh hay chăng. Muốn bảo đảm an ninh nội bộ
và chống lại đe dọa tấn công từ bên ngoài,
Nam Việt Phần
Collins, từ ngày 8/5 đã được tham khảo ý kiến.
Ngày 9/5, Collins nhận định rằng quân viễn chinh
Pháp cần ở lại Việt Tối
Thứ Ba, 10/5, Hội nghị Ngoại trưởng bàn về việc phòng thủ
Âu Châu; nhưng vấn đề Việt Dulles
trao
cho
Faure
một
dàn
bài
tóm
lược quan điểm
và lập trường của Mỹ: (1) Mặc dù Ðông Dương
quan trọng, nó không xứng đáng để Pháp
và Mỹ kình chống nhau [serious discord]; (2) nếu
Pháp rút lui, Mỹ sẽ tiếp tục yểm trợ một chính phủ
chống Cộng ở miền Nam VN, nhưng Mỹ vẫn muốn sự hợp tác của
Pháp; (3) Mỹ sẽ dùng hết ảnh hưởng để bảo vệ kiều
dân Pháp; tuy nhiên hiện nay QÐVN chưa đủ sức
giữ an ninh; (4) Mỹ hy vọng Mỹ và Pháp có thể đạt
tới một chính sách chung. Mỹ không chấp nhận loại
bỏ Diệm một cách đột ngột, không lý do, và
mong Pháp sẽ giúp thành lập một chế độ chống Cộng
mạnh hơn ở miền Nam theo thủ tục dân chủ, dù có hay
không có Diệm. Mỹ đã và sẽ tiếp tục
áp lực Diệm phải ôn hòa. Faure
nói dư luận Pháp đang nghiêng về phía chấp
nhận Bắc Việt và bỏ rơi miền Ðại diện
Bri-tên, Caccia, đồng ý rằng việc cần thiết nhất là
mở rộng chính phủ. Theo MacDonald, Diệm ngày một mạnh
hơn. Tam cường nên cho đại diện địa phương nhiều quyền hạn hơn để
khuyến khích Diệm mở rộng chính phủ. Nếu Diệm không
hành động, sẽ xét lại việc thay Diệm Nhưng
Dulles cho rằng Diệm không “nằm trong túi Mỹ,” và
cũng không là một thí nghiệm có thể vứt bỏ
dễ dàng. Diệm thiếu nhiều đặc tính và không
phải là một lãnh tụ hoàn toàn, nhưng
là sự xuất hiện của một lực lượng quốc gia chống Cộng cần thiết
nếu muốn cứu quốc gia này khỏi họa Cộng Sản. Về các sứ
quân, Bình Xuyên không thể khoan nhượng được.(
198) Tối
11/5, Dulles đề nghị Pháp tiếp tục ủng hộ Diệm cho đến
ngày bầu cử Quốc Hội, để quyết định thể chế miền Dulles
đồng
ý,
nhưng
không
thể
viết
thành
khế ước
vì liên quan đến một nước thứ ba mà cả Mỹ lẫn
Pháp đều không thể kiểm soát. Dulles đề nghị mỗi
nước công bố riêng chính sách và đường
lối của mình. Ðiều này có nghĩa Mỹ tách
dần khỏi kế hoạch liên minh Pháp-Mỹ tại Việt Nam.( 199) Ngày 12/5, Dulles
chỉ thị cho Collins rằng Mỹ yểm trợ Diệm không điều kiện,
và thông báo cho Diệm những điểm đã đồng
ý trong Hội nghị Tam cường.( 200) Hôm sau, 13/5,
Dulles chỉ thị cho G. Frederick Reinhardt, tân Ðại sứ được
chỉ định, về những việc phải làm: (1)
Tiếp tục yểm trợ chính phủ Diệm, và đối xử với
chính phủ này như một chính phủ độc lập, có
chủ quyền mà chúng ta tin rằng nó là như
thế và phải như thế. (2)
Chúng ta muốn thấy chính phủ này mạnh hơn. (3)
Chính phủ sẽ có quyền không những với quân
đội mà cả cảnh sát. Bình Xuyên phải bị giải
tán. (4)
Cần chấm dứt việc chống Pháp. (5)
Mỹ và VN đều không ký hiệp ước (6)
Quân Pháp sẽ triệt thoái nhanh khỏi Nam Việt (7)
Tự do không thể duy trì được ở VN nếu các lực lượng
cách mạng được mang ra chơi ở VN. Chắc chắn VM sẽ tìm
cách điều khiển vì họ là những bậc thày
trong ngành này. Diệm cần thi hành một
chính sách ôn hòa và xây dựng. Hôm
sau,
Thứ
Bảy,
14/5,
Collins
rời
Sài
Gòn. Kidder XLTV một
thời gian. Từ ngày này, lá bài Bảo Ðại
tại Việt Thứ Năm,
19/5/1955–đúng ngày Pháp triệt thoái khỏi
Hải Phòng và Việt Minh rút khỏi Bình
Ðịnh và Quảng Ngãi–HÐ/ANQG Mỹ họp lần thứ thứ
249. Dulles tường trình về chuyến đi Hai
ngày sau, 21/5, XLTV Ðại sứ Kidder báo cáo từ
Sài Gòn là đã thông báo với
Ely về kết quả hội nghị Tam cường ở D. ÐẢ BẠI HÒA HẢO-CAO ÐÀI:
1. Hòa Hảo:
Từ
sau ngày ký Hiệp định Ngày
1/6/1955,
Ðại
tá
Ngộ
chính
thức
về
hợp tác với
chính phủ Diệm. Ngày 5/6/1955, sau một cuộc chạm
súng nhỏ ngày hôm trước giữa Hòa Hảo
và QÐVN tại đảo Cái Khế, Ngô Ðình
Diệm–qua Trần Trung Dung–cho lệnh QÐVN mở chiến dịch Ðinh
Tiên Hoàng tấn công các lực lượng của “Thống
lĩnh” Năm Lửa. Ðại tá Dương Văn Ðức chỉ huy chiến dịch
với sự phụ tá của Thiếu tá Nguyễn Hữu Có. Ngay
trong ngày 5/6, QÐVN làm chủ Cần Thơ và
Cái Vồn. Năm Lửa chạy về Sa Ðéc, rồi Hồng Ngự
(Châu Ðốc). Bốn ngày sau, 10/6, Diệm ký Dụ đặt
Năm Lửa và Ba Cụt ra ngoài vòng pháp luật.
Ba Cụt rút khỏi Thốt Nốt (Long Xuyên). Hai Ngoán
đầu hàng ở Chợ Mới (Long Xuyên). Ngày 14/6,
QÐVN hoàn toàn kiểm soát Quốc lộ 4 và
đường Long Xuyên-Châu Ðốc. Một số Hòa Hảo chạy
vào các căn cứ cũ của Việt Minh trong Ðồng
Tháp Mười. Một số đơn vị khác bị cán bộ Cộng Sản
xâm nhập và chi phối. (203) Ngày
18/8,
Diệm
tuyên
bố
với
Ngày
28/11/1955,
Quân
đội
chiếm
thánh
địa
Hòa
Hảo
(Long-Xuyên). Khoảng một tháng sau, ngày
29/12/1955, Tương Dương Văn Minh được giao chỉ huy Chiến dịch Nguyễn
Huệ, tảo thanh vùng Ðồng Tháp Mười với mục
đích tách rời áp lực của VC với Hoà Hảo;
phá mọi kế hoạch của VC; tiến hành công tác
tâm lý, lôi kéo giáo dân
Hoà Hảo về phe Quốc Gia; bí mật chiêu hàng
Năm Lửa vì sau khi vào Ðồng Tháp, Soái
đã thấy rõ mặt thực của VC. Ðiều kiện để trở về: Giữ
được những tài sản còn lại. Ngày 9/1/1956, hai sứ
giả của Lê Thị Gấm mang thư về xin hàng. Ngày
11/2/1956, Năm Lửa và vợ bí mật về hàng.
Ngày 16-17/2/1956, đến lượt các lãnh tụ Hoà
Hảo khác. Tổng cộng khoảng 1400 binh sĩ Hòa Hảo đã
ra đầu thú. (Tân Phú, 950; Cái Công,
200; Cao Lãnh, 250). Tất cả tập trung ở Cái Vồn.
Ngày 29/2, Huỳnh Công Bộ tới Sài Gòn gặp
Soái và Tướng Minh. Ngày 8/3/1956, Diệm tổ chức lễ
qui thuận của Hòa Hảo tại Cái-Vồn. Ngày
19-20/3/1956, 4,943 binh sĩ HH được đưa từ Cái Vồn về TTHL
Quán Tre, Gia Ðịnh. (205) Trong khi đó, tại
Châu Ðốc, từ ngày 29/2/1956, Nguyễn Ngọc Thơ bí
mật gặp Ba Cụt tại Cồn Ðảo, trên sông Cửu Long gần
Tân Châu, bàn việc về hàng. Có tin Ba
Cụt nhận lời qui thuận với cấp bậc Trung Tướng. Nhưng ngày13/4,
Ba Cụt bị một toán tuần tiễu Bảo An, qua tố cáo của một
chủ hãng xe đò, bắt sống tại Chắc Cà Ðao,
cách Long Xuyên khoảng 7 cây số. Khi bị bắt, Ba Cụt
tự xưng đang trên đường về Long Xuyên để thương thuyết. Bộ
Tư lệnh chiến dịch thì tuyên bố Ba Cụt bị bắt sống. Sau
đó bị đưa ra tòa quân sự xét xử. Ngày
13/7/1956, Diệm xử tử Ba Cụt tại Cần Thơ. Chỉ có Bảy Ðởm
mang tàn quân qua Miên. Bảy Ðởm và “Sư
thúc” Huỳnh Văn “Mười” Trí thề sẽ trả thù. Khoảng
4 tiểu đoàn Hòa Hảo tiếp tục chống chính phủ Diệm
cho tới năm 1962. “Mười” Trí sau này ngả theo VC.( 206) 2. Cao
Ðài:
Như
đã lược thuật, nhờ trung gian của Mỹ, lực lượng Cao
Ðài dưới quyền hai Tướng Nguyễn Thành Phương
và Trình Minh Thế ủng hộ chính phủ Diệm từ đầu năm
1955. Tuy nhiên, Diệm không ưa Phạm Công Tắc
(1893-1959)–người Diệm nghi có tham vọng làm Quốc trưởng.
Cái chết của Thế vào tháng 5/1955 khiến các
phe nhóm Cao Ðài thêm phân hóa.
Văn Thành Cao, thừa kế Lực lượng Cao Ðài Liên
Minh, và Phương tiếp tục ủng hộ Diệm. Nhưng Hộ Pháp Tắc
ngả dần về đối lập, chống việc trưng cầu dân ý truất phế
Bảo Ðại. Chiến
thắng khá dễ dàng Bình Xuyên và
Hòa Hảo khiến Diệm quyết định xuống tay với đối thủ chót
là Phạm Công Tắc. Trong hai tháng 8-9/1955,
viên chức chính phủ bắt đầu nêu lên “vấn đề
Cao Ðài.” Ngày 11/8/1955, Ðại biểu chính
phủ Trần Văn Lắm mật báo Cao Ðài sắp gây hấn
với QÐVN; Phạm Công Tắc cho lệnh rút quân từ
Vĩnh Long và Long Xuyên về Tây Ninh; nhiều
Pháp kiều cũng tiếp xúc với PCT.( 207) Ngày
25/8/1955, Giám Ðốc ANQÐ Mai Hữu Xuân báo
cáo Cao Ðài tiếp xúc với đại diện Hội
Liên Việt (Việt Minh) vào đầu tháng 7/1955; Cao
Ðài giúp tiền cho Liên Việt; ngày
4/8/1955, Hà Nội chỉ thị cho Liên Việt tổ chức giúp
Cao Ðài lớp tuyên huấn; ngày 16/8/1955, Bộ Tư
lệnh Miền Nam được lệnh giúp huấn luyện Cao Ðài;
ngày 18/8, thêm một công điện khác cho BTL
Miền Nam giúp Cao Ðài tập trung quân lẻ tẻ về
vùng ranh giới Gia Ðịnh-Tây Ninh. Ngày
30/8/1955, Tổng trưởng tư pháp Nguyễn Văn Sỹ báo
cáo một Thiếu úy Cao Ðài ở đồn Rạch Miễu,
làng Nhơn Nghĩa “A”, huyện Cái Răng, Cần Thơ, giết 2
nông dân thả trôi sông. Ngày 20/9/1955,
có tin Phạm Công Tắc họp mật với một số chính
khách tại Tây Ninh. Ngày
5/10/1955,
Trung
Tướng
Phương
mang
quân
chiếm
Tòa
Thánh Tây Ninh. Bắt 300 người, kể cả vợ con Phạm
Công Tắc. Từ
giữa tháng 11/1955, Phạm Công Tắc bí mật cho
thành lập Cao Ðài Tự Do [CÐTD] trong Ðồng
Tháp Mười. Ðại tá Nguyễn Văn Kiết–chỉ huy cơ
Thánh vệ, con rể Hộ Pháp Tắc, mới được Tướng Phương
phóng thích cùng hai con gái PCT (Phạm Thị
Tranh và Phạm Thị Hồ Cầm) ngày 28/10/1955, đã trốn
khỏi Tây Ninh ngày 12/11–làm Chỉ huy trưởng. Phụ
tá là Trung tá Trần Ngọc Thoại. (208) Cuối
tháng 11/1955–sau cuộc chạm súng giữa CÐTD và
Cao Ðài Nguyễn Thành Phương ngày 21/11, khiến
CÐTD chết 3, bị thương 6, và phe NTP chết 14, 1 trọng
thương–Tỉnh trưởng Nguyễn Văn Vàng thông báo sẽ đưa
Thiết Giáp tới bảo vệ Tòa Thánh Tây Ninh.
(209) Ngày 11/1/1956,
Phạm Công Tắc rời Tây Ninh chạy qua Miên tị nạn.
Tháp tùng Tắc có Hồ Tấn Khoa, Lê Văn Tất v..
v... Một số binh sĩ Cao Ðài bỏ trốn theo Thiếu tá
Nguyễn Thanh Mừng. Một số khác ngả theo VC, tụ họp trong
Ðồng Tháp Mười. Chủ nhật, 19/2/1956, Diệm cho lệnh chiếm
Toà thánh Tây Ninh và núi Bà
Ðen. Ðại tá Nguyễn Hữu Có được giao chỉ huy cuộc
hành quân bình định vùng Tây Ninh, với
sự tham dự của Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến.
Hoàng Minh, Trưởng đoàn Trung Kiên Ðại Ðạo,
gửi thư ngỏ tố cáo Văn Thành Cao “mượn binh lực người
ngoài về chiếm đóng Thánh địa, đem xe tăng thiết
giáp vô cửa chính nội ô, chạy rầm trời khắp
chỗ. . .” Ví Cao như “Gia Long, Lê
Chiêu Thống.” E. TRUẤT PHẾ BẢO ÐẠI:Theo
tài liệu tuyên truyền của chế độ Diệm, việc truất phế Bảo
Ðại là một “cuộc cách mạng nhân vị” nhằm
tiêu diệt tàn tích phong kiến, thực dân tại
miền Nam. Tài liệu văn khố đã giải mật chưa đủ chứng thực
điều này. Cuộc
truất phế Bảo Ðại, như đã trình bày ở
trên, do cả Pháp lẫn Mỹ chủ trương, đã lâu.
Bảo Ðại, giống như các vua Nguyễn khác thời
Pháp thuộc, chỉ là vòng hoa trang điểm cho chế độ,
hoặc, một dụng cụ hữu ích, nhằm cung cấp cho chế độ một sự
chính thống hay hợp pháp. Năm 1885, “ông nội” Bảo
Ðại là Ðồng Khánh (1885-1889) đã được
Roussel de Courcy đưa lên ngai vàng để “trung hưng
dòng chính thống [Tự Ðức],” lấy đi chính nghĩa
của phong trào Cần Vương, biến Hàm Nghi thành “một
chú bé hoàng gia lang thang.” Hơn 60 năm sau,
Paris lại muốn dùng Bảo Ðại như biểu tượng của tinh thần
Quốc Gia, biến Hồ Chí Minh–Chủ tịch nước VNDCCH, người từng
ký với Pháp hai Tạm ước 6/3/1946 và
14/9/1946–thành một cán bộ Quốc tế Cộng Sản lang thang
trong các rừng núi. Khác biệt chăng là Thế
chiến thứ hai đã hoàn toàn quốc-tế-hóa đất
Việt, cuốn hút Việt Cuộc
truất phế Bảo Ðại, bởi thế, chỉ là đoạn kết khó
tránh, một khi quân viễn chinh Pháp triệt
thoái, và Diệm đã loại bỏ được mọi đối thủ
không Cộng Sản, thu nắm hết quyền hành dân và
quân sự trong tay. Ngoài ra, số tiền lương của Bảo
Ðại–5% thu nhập hàng năm của quốc gia– cũng là một
món chi tiêu khổng lồ. Như
đã lược nhắc, sáng ngày 29/4, Diệm triệu tập một
buổi họp các chính khách, “nhân sĩ”
và 18 đoàn thể ở Dinh Ðộc Lập để thông
báo về lá thư đòi Diệm phải qua Pháp. Trưa
đó, 29/4, trong một buổi họp khoáng đại ở Toà
Ðô chính Sài Gòn của 18 đoàn thể
“cách mạng,” Hội Ðồng Nhân Dân Cách Mạng
Quốc Gia [HÐNDCMQG] ra đời, đòi truất phế Bảo Ðại,
yêu cầu quân viễn chinh Pháp triệt thoái,
và tổ chức bầu cử Quốc hội. Vì áp lực của Collins,
kể cả lời đe dọa sẽ không công nhận và cắt viện trợ,
Diệm tạm gác lại ý định truất phế Bảo Ðại tức khắc.
Nhưng các cuộc biểu tình của HÐNDCMQG lan tràn
khắp nơi trong tháng 5 và 6/1955.( 210) Ở một
cái nhìn phiến diện, lệnh gọi Diệm và Tỵ qua Trong
buổi nói chuyện với Ðại sứ Heath ở Paris ngày
21/6/1954, Diệm và Luyện đã tiết lộ ý nghĩ
chân thực của họ Ngô: không muốn thấy Bảo Ðại về
nước.( 212) Ngày 5/1/1955, Diệm lập lại ý định này
với Collins.( 213) Tối Chủ Nhật, 20/2/1955, khi Collins mời Diệm tới
Toà Ðại sứ ăn cơm tối, Diệm nói thẳng rằng gia
đình Bảo Ðại đã bị mất uy tín ở Việt Nam; ngay
việc đưa Bảo Long lên ngôi cũng không được. Chế độ
tương lai sẽ theo Mỹ hay Turkey.( 214) Tháng 3/1955, khi
cuộc tranh chấp với Bình Xuyên bùng nổ, Diệm
đã xa gần muốn tiếm quyền, thành lập một chế độ Cộng
Hòa, theo khuôn mẫu Mỹ. Từ
ngày 9/4, các đảng phái họp để thảo luận về việc
thành lập một Hội Ðồng Tối Cao Chính Trị. Có:
Bùi Diễm (ÐV), Lê Trung Nghĩa (MTQGLH), Nhị Lang
(Lê Khắc Hoài, MTQGKC), Bác sĩ Nguyễn Văn
Phát (Tập Ðoàn Công Dân), Lê
Phúc Thiện (VNPQH), Nguyễn Bảo Toàn (Dân Chủ
Xã Hội), Nguyễn Hữu Khai và Ung Hải Thọ (PTCMQG). Hẹn gặp
lại ngày 13/4/1955 vì có người không
dám tự quyết. Hai ngày sau, 11/4, Diệm tiếp Trình
Minh Thế. Ngày 12/4, Diệm họp với một số chính
khách, như Trần Văn Ðỗ, Nguyễn Tăng Nguyên, Huỳnh Kim
Hữu (Tinh Thần), Trần Quốc Bửu và Bùi Lương (Lao
Ðộng), Huỳnh Minh Ý, Phan Huy Quát. Sau đó gặp
Nguyễn Thành Phương, Phạm Xuân Thái, Nguyễn Mạnh
Bảo (Cao Ðài & VNPQH), Nguyễn Bảo Toàn, Nguyễn
Xuân Chữ, Nguyễn Ðức Thuận, Trần Trung Dung (Phong
Trào Ðại Ðoàn Kết), Nguyễn Hữu, Phạm Quỳ (Tranh
Thủ Tự Do), Nguyễn Văn Phát (Tập Ðoàn Công
Dân), Huỳnh Công Hậu (QGDC), Nguyễn Trác (Hội
Ðồng Quốc Gia Lâm Thời). Vào cuối tháng 4/1955,
thật dễ hiểu là Diệm cương quyết không qua Sau
hậu trường, Ngô Ðình Nhu lập nên HÐNDCMQG
phát động phong trào truất phế Bảo Ðại và ủng
hộ Diệm. Nòng cốt của Hội Ðồng Cách Mạng này
là Tướng Phương, Thế của Cao Ðài và các
chính khách di cư. Từ
ngày này–trong khi quân đội QGVN liên tiếp mở
những cuộc tấn công các giáo phái–Diệm đẩy
mạnh hơn chiến dịch truất phế Bảo Ðại. Ngày 1/5/1955–sau khi
được tin Mỹ không chấp nhận kế sách thay Diệm của
Collins-Ely–Diệm chính thức dò hỏi Kidder liệu Mỹ
có “hoàn toàn và lập tức ủng hộ” nếu lật đổ
Bảo Ðại.( 216) Hôm sau, 2/5, khi Collins về tới Sài
Gòn, Diệm lại nêu lên vấn đề loại bỏ Bảo Ðại.
Diệm yêu cầu Mỹ đề nghị Bảo Ðại từ chức. Collins bảo Diệm
nên cải tổ chính phủ và vãn hồi trật tự, để
việc Bảo Ðại cho Quốc Hội định đoạt.( 217) Thực ra, ngày 1/5,
khi Collins đang trên đường trở lại Việt Diệm
cũng đã có định ý. Diệm muốn triệu tập một đại hội
các đại biểu địa phương để lật đổ Bảo Ðại, mời 700 đại diện
của 39 tỉnh về họp. Một Ủy Ban đặc biệt gồm 50 người cũng thảo kế hoạch
yêu cầu Bảo Ðại trao quyền cho Diệm, trong khi chờ đợi Quốc
Hội bầu xong trong vòng 6 tháng.( 219) Chiều 3/5,
Giám đốc Thông tin, Trung tá Phạm Xuân
Thái, dò ý Mỹ về vấn đề Hội đồng Cách mạng
sẽ truất phế Bảo Ðại thì được trả lời rằng Mỹ không
chấp thuận, và muốn để Quốc hội quyết định. Từ
Oat-shinh-tân, chiều ngày 3/5 [sáng 4/5 tại
Sài Gòn], Dulles chỉ thị cần khuyên Diệm nên
“ôn hòa” (moderation) cũng như sẽ khuyên Bảo Ðại
nên “tự chế và ôn hòa” (restraint and
moderation), vì nếu HÐNDCM có thể truất phế được Bảo
Ðại cũng có thể truất phế Diệm trong tương lai.( 220)
Ngoài ra, còn có tin Cộng Sản đã xâm
nhập HÐNDCM. Bởi
vậy, khi gặp Diệm ngày 4/5, Collins cảnh cáo rằng truất
phế Bảo Ðại là một cuộc cướp chính quyền (coup
d’etat) và Diệm sẽ phải hoàn toàn chịu
trách nhiệm. Collins khuyên Diệm nên tạm thời
hòa hoãn, tổ chức bầu cử Quốc Hội, và để Quốc Hội
quyết định. Nghĩ rằng Diệm đang tìm cách lật đổ Bảo
Ðại mau chóng và bằng mọi giá, Collins đề nghị
Oat-shinh-tân phải áp lực mạnh, kể cả việc không
nhìn nhận chế độ Diệm và ngưng viện trợ nếu Bảo Ðại
bị truất phế.( 221) Chiều đó, khi Collins gặp lại Diệm để chuyển
lệnh của Oat-shinh-tân, Diệm không nhắc gì đến việc
truất phế tức khắc nữa. Ngày 8/5, Diệm tiết lộ với Dẫu
vậy, ngày 31/5, Hội đồng NDCM bắt mở cửa Ngọ Môn, tịch thu
ấn tín và nhiều vật dụng trong văn phòng Bảo
Ðại. Ðứa con “tập ấm” của “bát cơm Bảo hộ Pháp”
quyết tâm vùi chôn một lần và mãi
mãi “tàn dư phong, thực, cộng.” Người cầm đầu chiến dịch
chống Pháp này là Bùi Văn Thinh và
Trần Chánh Thành. Rồi ngày 15/6/1955, Hội đồng
Hoàng tộc–dưới bóng đen dọa nạt của Ngô
Ðình Cẩn–tuyên bố Bảo Ðại phải thoái vị. Ngày 5/7/1955, Hồ
Hán Sơn họp báo chỉ trích Diệm chậm trễ truất phế
Bảo Ðại “kẻ thù của nhân dân, của cách
mạng” [“the enemy of the people, of the revolution”], và
thành lập Chính Phủ Cách Mạng Quốc Gia, vì
chính phủ Diệm là một nhóm quan lại phong kiến bất
lực trong việc kiến thiết quốc gia và chiến đấu nhưng rất
khôn ngoan trong việc trộm cắp công quĩ và
bóc lột nhân dân” [Diem’s cabinet was a group of
“feudalist mandarins who were incompetent in reconstruction and
struggle but were very smart in stealing public treasure and exploiting
the people.”]( 223) Hai ngày sau,
nhân dịp lễ “Song Thất” (7/7) mừng đệ nhất chu niên
ngày Diệm lập chính phủ, Diệm tuyên bố sẽ trưng cầu
dân ý vào ngày 23/10/1955 để chọn người
lãnh đạo miền Nam.( 224) Kết
Từ:
Có
thể
nói,
buổi
nói
chuyện
đầy
xúc
động giữa Bảo
Ðại và Gibson tại Ngày
5/5/1955,
Collins
báo
cáo
dư
luận
chống
đối Bảo Ðại
vì việc gửi Hinh về Việt Trong
khi đó, uy tín Diệm ngày một tăng. Ðiều
này chứng tỏ qua việc Diệm phản ứng mạnh mẽ với Bình
Xuyên ngày 28/4; quân đội QGVN tiếp tục trung
thành; quân đội thành công trong việc đẩy
Bình Xuyên khỏi Sài Gòn/Chợ Lớn; sự cay đắng
của Pháp với Diệm; sự bất lực của Bảo Ðại khi đối xử với
Diệm, và thành công của Diệm trong việc đương đầu
với Bảo Ðại; sự tiếp tục yểm trợ của Mỹ. Nhưng Diệm cũng có
nhược điểm: Nguy hiểm bị HÐNDCMQG “cầm tù;” sự trung
thành của quân đội có điều kiện (vì Diệm
là người cầm đầu chính phủ hợp pháp); Bảo Ðại
có thể cách chức Diệm nếu HÐNDCMQG truất phế Bảo
Ðại; khó kiểm soát khuynh hướng Cộng Hòa; Diệm
có thể bị lật đổ bởi một nhóm muốn truất phế Bảo Ðại,
và rồi lại lập Diệm lên cầm quyền. Theo
Collins, tốt nhất là duy trì chế độ quân chủ lập
hiến cho tới khi bầu cử Quốc Hội. (226) Dulles đồng ý,
nhưng ngày 11/5 từ chối tiếp kiến Bảo Ðại trong dịp tham dự
Hội nghị Tam cường ở Trung
tuần tháng 7/1955–nhân dịp kỷ niệm một năm “Quốc hận”–Diệm
cho phát động chiến dịch Tố Cọng. Chính phủ ứng ra 1
triệu đồng để chuẩn bị bích chương, truyền đơn, khẩu hiệu
và những cuộc biểu tình tuần hành. Cao điểm của
chiến dịch Tố Cọng là ngày 20/7/1955, ngày dự
trù bàn thảo về việc Hiệp thương Bắc-Nam. Diệm tổ chức
học sinh, sinh viên di cư biểu tình tấn công
phái đoàn quân sự BV của Tướng Văn Tiến Dũng
(1915-2002) tại khách sạn Majestic và khách sạn
trên đường Trần Hưng Ðạo. Hồ Anh Tuấn, một phụ tá của
Dũng, bị thương hư một mắt. Chiến
dịch tuyên truyền chống Cộng còn là bàn
nhún cho một mưu toan khác–tức phủ nhận Hiệp định Từ
ngày 29/6/1955, Ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu đã tiết lộ với
Ðại sứ Mỹ kế hoạch từ chối Tổng tuyển cử của Diệm. Theo Mẫu, Diệm
sẽ chính thức công bố kế hoạch trên vào
ngày 20/7/1955 hoặc trễ hơn. (227) Nhưng tối Thứ Sáu,
15/7 [sáng Thứ Bảy, 16/7, Việt Ba
ngày sau, Thủ tướng VNDCCH Phạm Văn Ðồng chính thức
viết thư cho Ngô Ðình Diệm, yêu cầu bàn
thảo về tổng tuyển cử như Hiệp định Geneva qui định. Ngày
23/7/1955, khi gặp Ngày
3/8,
Dulles
chỉ
thị
Reinhardt
khuyên
Diệm
nên trả lời thư
ngày 19/7/1955 của Ðồng. Tuy nhiên, mãi tới
ngày 9/8, chính phủ Diệm mới phát thanh lại lời
tuyên bố ngày 16/7 của Diệm. Ngoại trưởng Mẫu cũng chỉ nhờ
Bri-tên và Pháp chuyển thư của Diêm đến
các nước liên hệ cùng đồng bào phía
Bắc vĩ tuyến 17.( 230) Ngày
10/8/1955,
Hồ
Chí
Minh
lại
kêu
gọi
hiệp thương và
hứa tự do tổng tuyển cử. Nhưng Diệm vẫn từ chối. Một ngày sau
khi Phạm Văn Ðồng viết thư cho Nga và Bri-tên, than
phiền việc trì trễ hiệp thương, ngày 21/9/1955, Diệm lại
tuyên bố không thể hiệp thương hay tổng tuyển cử. Ngày
5/10/1955,
Giám
đốc
Sở
Như
để biểu diễn cho Hà Nội biết thế nào là “bầu cử tự
do” và “dân chủ kiểu Diệm” [Diemocracy], cuộc “trưng cầu
dân ý” truất phế Bảo Ðại ngày 23/10/1955 được
vận động và tổ chức rầm rộ ở miền Nam, hầu mở đường cho
“Chí sĩ” Diệm bước lên ngai Tổng thống. Nhưng ngay đến
Joseph Buttinger, một người ủng hộ Diệm nhiệt thành qua kế hoạch
tái định cư dân miền Bắc, phải ghi nhận: “Cuộc vận động bầu cử một chiều và
các phương cách sử dụng để bảo đảm số phiếu gần như đồng
thuận cho Diệm thật khiến người ta nổi giận. . .
. Cách sử dụng mọi phương
cách để bảo đảm chiến thắng cho một mục đích tốt tạo
nên viễn tượng xấu cho một chế độ mà những người cầm đầu
thường thích tự quảng cáo về các hành động
đạo đức” (233) Một nhà ngoại giao
Mỹ, Chester Cooper, ghi nhận rằng cuộc trưng cầu dân ý
trên đập tan mọi ảo tưởng rằng Diệm và gia đình sẽ
đủ khả năng, và ngay cả ước muốn, để thiết lập một chế độ
dân chủ ở miền Nam. Cooper tiếp: Vào cuối năm 1955, Diệm đã
hoàn tất hầu hết những mục tiêu mà Diệm đã
đặt ra. . . .
Mục tiêu duy nhất mà Diệm không hoàn tất năm
1955 là mục tiêu chẳng bao giờ Diệm có thể
hoàn tất: Ðó là sự thành lập một
chính phủ chống Cộng mạnh và được dân chúng
yểm trợ”.( 234) Có
nhiều
lý
do
khiến
Diệm,
dù
đã
thụ hưởng
Thiên Mệnh Mỹ và Phép Lạ Mỹ, nhưng không
thiết lập nổi một chế độ vững mạnh và được đa số dân
chúng ủng hộ. Nhưng yếu tố quan trọng nhất nằm ngay trên
bản thân Diệm. Thực trạng Việt Nam sau 1945 cần một lãnh
tụ mà không phải một Quốc trưởng, Thủ tướng hay Tổng thống
chỉ có thể sinh tồn nhờ ngoại viện. Một
trong những yếu tố để trở nên một lãnh tụ là sức
thu phục nhân tâm [charismatic power]. Diệm không
có khả năng thiên bẩm này. Diệm chỉ có thể
là một tỉnh trưởng hay Thủ hiến tốt, giữa thời thái
bình thịnh trị, khó thể là một lãnh tụ
chính trị có khả năng, xây dựng và cải biến
miền Nam Việt Nam thành một tiền đồn chống Cộng [nation building
như ai đó đã ví von]. Diệm là một
“ông quan” do Pháp huấn luyện, trong bộ Âu phục của
Mỹ, hơn một lãnh tụ cách mạng đủ sức đương đầu với Hồ
Chí Minh, cùng cuộc cách mạng đã phá
vỡ cấu trúc xã hội Pháp thuộc cũ và đang
trong chu trình tái thiết lập một trật tự mới giữa những
cơn cuồng phong, bão táp chính trị quốc tế đang vẽ
lại bản đồ thế giới. Một lãnh tụ đủ khả
năng duy trì miền Với
một xã hội như Nam Việt Nam năm 1954-1955, một lãnh tụ
cần có thành tích yêu nước và tranh
đấu cho nền độc lập. Diệm thiếu thành tích này.
Thành tích hai đời phục vụ Bảo hộ Pháp (Ngô
Ðình Khả, Ngô Ðình Khôi, Ngô
Ðình Diệm) và hợp tác với Nhật trong Thế chiến
thứ hai (1939-1945) được văn công viết lại, biến Diệm
thành người phất cờ cho nền độc lập của Việt Nam qua
thành tích từ quan năm 1933 (và, thành lập
Phong trào Cách Mạng Quốc Gia từ ngày này)
chỉ thuyết phục được những ai muốn bị thuyết phục. Dĩ nhiên,
trong lịch sử nhân loại không thiếu những con cháu
cách mạng đã nhai nuốt cách mạng của cha
ông; và cũng không thiếu những người đổi chủ trong
đời hoạt động. Nhưng tự xưng và sử dụng cơ quan tuyên
truyền suy tôn mình là “cứu tinh của những người
Việt chống Cộng” chỉ tạo nên những phản ứng trái ngược
trong tâm trí người Việt–một dân tộc đã chứng
kiến quá nhiều cảnh dâu bể hay bạo phát bạo
tàn của các tác nhân lịch sử (“chó
nhảy bàn độc” là câu ngạn ngữ bình dân
quen thuộc). Thực ra, thành tích duy nhất của Diệm
là đã xin được viện trợ Mỹ, một siêu cường, giữa
lúc sự sinh tồn của chính chế độ QGVN và sự hiện
hữu của khối giáo dân Ki-tô đang bị đe dọa trầm
trọng. Nhưng xin được viện trợ và giữ vững đựợc viện trợ ấy
là hai việc khác biệt. Ngoài ra, còn vấn đề
sử dụng viện trợ cho hữu hiệu trong mục đích chung Mỹ-Việt:
Ðó là gia tăng khả năng tồn tại của miền Ðể “xây dựng
một quốc gia,” cũng cần biệt tài tổ chức. Nhưng dù
có cố vấn Mỹ và hai Cố vấn Nhu ở Sài Gòn,
Cẩn ở Huế, Diệm thường tập trung công việc hàng
ngày trong tay, ngập đầu giữa tiểu tiết, đến nỗi chỉ thấy
cây rừng mà quên đi toàn cảnh của cả khu
rừng. Sự thất bại của các kế hoạch cải cách nông
thôn, Dinh Ðiền hay Khu Trù Mật là những bằng
chứng quá hiển lộ. Từ năm 1962, còn thêm quốc
sách Ấp Chiến Lược. Muốn bảo vệ miền Về Cảnh Sát-An
Ninh, Diệm không có thực quyền chỉ huy (nằm trong tay
Bình Xuyên từ tháng 4/1954). Ngay đến Dinh Gia Long
không có lực lượng bảo vệ, và Lansdale phải mang
một số thân tín từ Một trong những ưu điểm
của Diệm, so với người đương thời, là Diệm có lực lượng
yểm trợ khá đông và tương đối đoàn kết: tức
hàng giáo phẩm Ki-tô, đang chăn nuôi linh hồn
300,000 giáo dân Ki-tô miền Nam và khoảng
600,000 giáo dân Bắc di cư. Nỗ lực chính của Diệm
trong thời gian 300 ngày tự do di cư sau ngày đình
chiến là đưa về phía Chỗ nương tựa đầu
tiên và cuối cùng của Diệm chỉ còn lại gia
đình khá đông đảo của họ Ngô.( 235) Nên
chẳng có gì ngạc nhiên khi quốc sách của
Diệm là gia đình trị [Diemocracy]. Lối gia đình
trị kiểu Trung Cổ, mà mỗi người trong gia đình trở
thành tâm điểm của những cụm quyền lực [cluster of power]
nho nhỏ, tự trị trong khuôn khổ quốc gia. Luật sư Nguyễn Hữu
Châu, sau khi đào thoát qua Pháp năm 1958,
đã phải bi phẫn phát biểu rằng chẳng có ai được
coi như thân tín [inner circle] của họ Ngô, ngoại
trừ anh chị em nhà Ngô. Tất cả những người cộng tác
khác đều bị coi như nô bộc, theo triết lý “được
chim bẻ ná.”( 236) Diệm
cũng có lợi thế bỗng dưng được hưởng lợi của cuộc kháng
chiến kháng Pháp 9 năm của toàn dân, đặc
biệt là phe Việt Minh. Do nhiều nguyên nhân
khác nhau, Pháp phải triệt thoái khỏi
Ðông Dương. Chính phủ Diệm vội vã khai
thác “chiến thắng” này, nêu cao khẩu hiệu
“bài phong, đả thực”–dù thực tế, thực dân/phong
kiến đã cung cấp “bát cơm của giòng họ Ngô”
từ cuối thế kỷ XIX, và ngay chính chức vụ Thủ tướng
cùng phần lãnh thổ phía Nam vĩ tuyến 17 vào
hạ bán thế kỷ XX. Không chỉ là những chiêu
bài chống Pháp để thu phục nhân tâm,
mà tiềm chứa bao thủ thuật khó thể chấp nhận với thế giới
văn minh. Ngày 1/12/1955, Diệm cắt đứt liên hệ kinh tế
và tài chính với Pháp. Ngày
7/12/1955, ra Dụ số 10 về quốc tịch. Theo một tờ trình của Bộ Tư
lệnh Pháp, ngày 23/1/1956, 6,650 trong số 7,000 người
Việt có quốc tịch Pháp trước ngày 8/3/1949
đã xé bỏ quốc tịch. Trong số này, có Tướng
Trần Văn Minh, André Trần Văn Ðôn và 14 sĩ quan
cao cấp khác. Y sĩ Trần Văn Ðôn, cha André
Ðôn, đại sứ ở Roma, và Trần Văn Chương, đại sứ ở Mỹ,
cũng xin bỏ quốc tịch. Những người có quốc tịch Pháp sau
ngày 8/3/1949 sẽ tự động bị hủy bỏ vì hiệp ước
Pháp-Việt ngày 6/8/1955.( 237) Tháng
4/1956,
Bộ
Tư
lệnh
viễn
chinh
Pháp
giải tán, sau khi hai
nước đồng Chủ tịch Hội nghị Geneva giúp Pháp tháo
bỏ trách nhiệm với Hiệp ước 20-21/7/1954. Nam Việt Trong
những năm đầu, vì thế giới có nhiều chuyển biến,
chính phủ Eisenhower cho Diệm được tự do Tố Cọng, Diệt Cọng.
Ðiều người Mỹ khó ngờ, và ngần ngại không muốn
can thiệp, là Tố Cọng hay Diệt Cọng của họ Ngô chỉ
có khả năng, hoặc chỉ nhằm, tiêu diệt những phần tử chống
đối không Cộng Sản. Khi Hà Nội đã tạm thời chấn
chỉnh xong miền Bắc, quyết định thống nhất đất nước từ tháng
1/1959 (Hội nghị TW thứ 15, khóa II), chế độ Diệm chỉ đủ khả
năng vận động “thánh chiến” giữa giáo mục Ki-tô
và Ðảng Cộng Sản [Lao Ðộng] Việt Nam. Hầu hết phần tử ưu
tú của miền Phần
đám đông, của cả hai miền, chỉ tựa những bè lục
bình nổi trôi theo con triều thô bạo của khói
lửa. Ngắn
và gọn, quan hệ Việt-Mỹ–và dòng lịch sử Việt
Nam–hẳn đã đổi khác nếu Mỹ chấp thuận kế hoạch “thay
ngựa” của Collins và Ely năm 1955, hoặc chấp nhận tổng tuyển cử
theo tinh thần Hiệp định Geneva 1954. Biết bao sinh mạng và
tài sản của hai dân tộc Việt-Mỹ đã được tiết kiệm,
không bị hoang phí cho một “cuộc chiến tiền đồn” mà
khi khói bom đạn loãng tan chỉ có những người thua
cuộc, với những thương tích khó bề hàn gắn. Chính Ðạo
[Trích: Cuộc
Thánh Chiến Chống Cộng [2004], tập I, có hiệu đính] Phụ
chú
: 192. Secto 8, 8/5/1955, Dulles gửi BNG; FRUS, 1955-1957, I:372-375. 193. Tài liệu Ngũ
Giác Ðài ghi là buổi họp này diễn ra
ngày 10/5/1955, nội dung như sau: Trước đó, Dulles
đã khẳng định Diệm là phương tiện duy nhất để cứu Nam
Việt 194. Polto 28, 9 May 1955, BNG gửi Sài Gòn; FRUS, 1955-1957, I:Tài liệu 182 [386-387]) 195. Tosec 10, BNG gửi 196. Tedul 9, 9 May 1955,
197. CÐ 1323,
9/5/1955, Collins gửi 198. Secto 36, 11/5/1955,
Dillon gửi BNG; FRUS, 1955-1957, I:393-399. 199. The
Pentagon Papers (Gravel), I:239; FRUS, 1955-1957, I:401-405. 200. The
Pentagon Papers (Gravel), I:405. 201. FRUS,
1955-1957, I:408. 202. FRUS,
1955-1957, I:431-433. 203. Xem chi tiết về các lực lượng Hòa Hảo trong Trung Tâm Lưu Trữ Quốc Gia [TTLTQG] II (TP/HCM), PTT/1CH, HS 4323-4327. 204. FRUS,
1955-1957, I:519. 205. TTLTQG II (TP/HCM),
PTT/1CH, HS 4320; SHAT ( 206. Phúc
trình của Tướng Dương Văn Minh, ngày 27/4/1956, về việc
bắt Lê Quang Vinh tức Ba Cụt ngày 13/4/1956; TTLTQG II
(TP/HCM), PTT/1CH, HS 4322; The Pentagon Papers, (Gravel), I:305. Mười
Trí, còn có biệt danh “Tư Bà Quẹo,” sinh
năm 1908 tại Tân Sơn Nhì, Gia Ðịnh. Trước năm 1945,
hai lần vượt ngục Côn Ðảo. Từng chỉ huy Trung đoàn 4
Việt Minh; SHAT ( 207. Tất cả những chi tiết về Cao Ðài dưới đây rút ra từ TTLTQG II (TP/HCM), PTT/1CH, HS 4324. Chúng tôi chỉ ghi thêm cước chú nếu sử dụng nguồn tài liệu khác. 208. Cũng có báo cáo ngày 22/9/1955, Ðại tá Trương Lương Thiện, TMT/ Cao Ðài Liên Minh [CÐLM], cùng Ðại úy Ngô Ðình Song và Trung úy Ðinh Khắc [Thạch] Bích đi quan sát Ðồng Tháp Mười [tới 24/9/1955]. Ngày 25/9, triệu tập một phiên họp tại trụ sở CÐLM, 159 đường Trần Quí Cáp. Ibid., PTT/1CH, HS 4325. Ngày 15/11/1955, Nguyễn Tấn Hướng, Tỉnh trưởng Mỹ Tho, báo cáo: Pháp, VC, Hòa Hảo, Cao Ðài Thống Nhất và Cao Ðài Liên Minh Ly Khai phối hợp hành động. Ibid. 209. Ibid., PTT/1CH, HS 4323. 210. The
Pentagon Papers (Gravel),Gravel, I:303. 211. Fall, Two Vietnams,
1964:244; Phụ bản trong Nguyễn Mạnh Quang, Thực chất Giáo hội La
Mã, 2 tập (Tacoma, WA: 1999), II:776-778. (Tài liệu
này do Bà Mộng Ðiệp trao cho ông Nguyễn Ðắc
Xuân). 212. Diệm cũng nói
cần ba bốn tháng để củng cố chính quyền. FRUS,
1952-1954,
XIII:2:1728. 213. FRUS, 1955-1957,
I:19. 214. FRUS,
1955-1957, I:91-92. 215. FRUS,
1955-1957, I:318. 216. CÐ 4985,
ngày 1/5/1955, Sài Gòn gửi BNG; FRUS, 1955-1957,
I:353n2. 217. CÐ 5006,
ngày 2/5/1955, Sài Gòn gửi BNG; FRUS, 1955-1957,
I:353-4n3. 218. FRUS,
1955-1957, I:345-6. 219. The
Pentagon Papers (Gravel), I:235. 220. CÐ 4867, ngày 3/5/1955, BNG gửi Collins; FRUS, 1955-1957, I:353-355. Dulles khuyên Pháp nên tự chế trong tình trạng hiện tại; và yêu cầu Bảo Ðại gọi ngay Tướng Hinh [từ Nam Vang] về Paris. 221. CÐ 4507,
4/5/1955, Collins gửi BNG; FRUS, 1955-1957, I:357-359. 222. FRUS, 1955-1957,
I:370-371. 223. Xem Phụ bản
thông cáo phổ biến cho báo chí ngày
5/7/1955. Ngày 30/10/1955, tổ chức này bị giải
tán. The Pentagon Papers (Gravel), I:304. Ngày
11/1/1956, báo Cách Mạng Quốc Gia phản đối cuộc họp
báo ngày 7/1/1956 của Nguyễn Bảo Toàn. Ðăng
cải chính trên các báo CMQG, Tự Do,
Dân Nguyện. Ngày 11/1/1956 này, Diệm ký Sắc
lệnh số 6, bắt giữ bất cứ ai có hành động làm hại
đến an ninh công cộng. Theo tài liệu chính phủ,
trong năm 1956 có khoảng 20,000 cán bộ CS bị cải huấn tại
các trại tập trung. Ðáng kể nhất là trung
tâm Phú Lợi (6,000). Tài liệu Pháp ghi nhận
vào khoảng 50,000; The Pentagon Papers (Gravel), I:311.
Ngày 17/1/1956, Le Monde loan tin HÐNDCM bị truy bắt. Nhiều
người phải chạy trốn qua Miên, Mỹ (Nguyễn Bảo Toàn), v..
v... Họ cho là bị lừa (double-crossed); Fall, Two Vietnams,
1964:258. Tháng 6/1956, Ðại tá Nguyễn Văn Quan,
Phân khu trưởng Phân khu Cần Thơ, báo cáo:
Có tin đồn Ðại tá Hồ Hán Sơn bị Ban Vô
hình của Nguyễn Thành Phương ám sát
vì xúi dục binh sĩ Cao Ðài chống lại Phương;
TTLTQG II (TP/HCM), PTT/1CH, HS 4324. 224. Fall, Two 225. US-Vietnam, Bk 10:948-954; FRUS, 1955-1957, I:Tài liệu 160 [pp. 332-336]. Ngày 30/4/1955, báo Nice Matin [Buổi sáng Nice] đăng danh sách 25 người được Bảo Ðại mời qua Cannes tham khảo: Phạm Công Tắc, Trần Văn Soái, Bảy Viễn, GM Lê Hữu Từ, một đại diện Phật Giáo, Hữu, Tâm, Lộc, Xuân, Trần Văn Ðỗ, Hồ Thông Minh, Hồ Văn Nhựt, Nguyễn Tôn Hoàn, Phan Huy Qúat, Phan Văn Ngọi, Trần Văn Lý, Nguyễn Xuân Chữ, Trần Văn Tuyên, Nguyễn Ðắc Khê, Nguyễn Văn Tri, Nguyễn Quốc Ðịnh, Nguyễn Nhơn Ứng và Ưng Ân, cùng 2 đại diện khác; FRUS, 1955-1957, I:334n335n. 226. FRUS, 1955-1957,
I:364-365. 227. FRUS,
1955-1957, I:470-471. 228. Gravel, I:287; FRUS, 19551957, I:489-490; VKÐTT, 16:1955, 2002:457-462. 229. FRUS,
1955-1957, I:497-498. 230. FRUS,
1955-1957, I:505. 231. FRUS,
1955-1957, I:540-542. 232. Thực ra,
tháng 1/1956, Bắc Kinh đã đưa ra đề nghị triệu tập một
phiên họp mới về Hiệp định 233. Nguyên văn:
“The one-sided ‘election campaign,’ and the methods employed to assure
an almost unanimous vote for Diem were quite outrageous. . .
. The use of these methods to secure the victory of a good
cause boded ill for the future of a regime whose leaders liked to
advertise his acts as morally inspired;” Joseph Buttinger, Vietnam: A
Dragon Embattled (New York: Prager, 1967), tr. 890-891.
Ngày Thứ Bảy, 19/3/1955, để chuẩn bị cho việc tổ chức Tổng Tuyển
Cử dự trù trong Hiệp ước Geneva, Collins và Diệm
đã bàn kế hoạch cho Diệm tuyên bố chấp nhận tranh
cử dân chủ thực sự. Ngoài ra, chính phủ miền 234. Nguyên văn: “By the end of 1955 Diem had achieved most of the objectives he had originally set for himself. . . . The goal he was not achieved during 1955 was one he would never achieve–the creation of a strong and popular anti-Communist government;”Cooper, The Lost Crusade, tr. 151-152. 235. Ngày
7/3/1955, Diệm và Wesley Fishel bàn về gia đình
Diệm. Theo Diệm, Nhu là linh hồn của Ðảng Cần Lao Nhân
Vị; nhưng Nhu là một “học giả thuần thành,” viết tiếng
Latin và tiếng Greek thạo hơn tiếng Pháp, chỉ muốn vui
vầy với những bản thảo cũ hơn giải quyết những khó khăn
chính trị. Cẩn là một người khôn ngoan nhất trong
nhà, đáng lẽ phải ngồi ghế Thủ Tướng mà
không phải Diệm. Tuy nhiên, Cẩn bị yếu tim, không đủ
sức đi bộ quá 100 thước. Cẩn cũng không thích
chính trị, chỉ hoạt động từ sau ngày anh cả trong gia
đình là Khôi bị giết. Cẩn cũng không muốn
dính líu vào việc cai trị, nhưng ai nấy đều muốn
được Cẩn “cố vấn.” Cẩn không hề có một toán đặc
biệt để ám sát các đối thủ. Luyện, em út
trong nhà, có khả năng nhưng “nóng tính”
(very hot temper). Fishel nhận xét rằng Nhu và Cẩn đều
dấu Diệm sự thực. Họ sợ Diệm, không muốn làm Diệm nổi
giận; như có lần Diệm đã “yêu cầu” Lệ Xuân
phải đi nghỉ mát Hong Kong hai tháng. Diệm rất khó
chịu khi nghe những lời chỉ trích anh em mình; FRUS,
1955-1957, I:111-3. Trong khi đó, buổi tối ngày
25/3/1955, Giám mục Thục gặp Collins theo lời yêu cầu của
Collins. Collins cho Thục biết có nhiều chỉ trích anh em
họ Ngô, đặc biệt là Nhu và Cẩn. Collins đề nghị
nên cho Nhu đi làm Ðại sứ và đưa Cẩn qua Mỹ
chữa bệnh tim. Collins cũng bảo Thục rằng không muốn thấy một
chức sắc Ki-tô nào được mời qua Việt Nam trong vòng
6 tháng tới; và hạ ngay biểu ngữ treo trên đường
phố gần Dinh Ðộc Lập. Thục hứa sẽ thảo luận các vấn đề
này với Diệm sau khi đi Huế trở về; FRUS, 1955-1957,
I:tài liệu 72. Cần Lao Nhân Vị Cách
Mạng Ðảng [CLNVCMÐ] do Hà Ðức Minh làm
Tổng thư ký, trước kia đặt trụ sở tại số 22/27 đường Frostin,
sau đổi qua số 296 đường Tướng Lize. Trần Thanh 236. Chính Ðạo, VNNB, I-C: 1955-1963, tr. 126, 137-138. 237. SHAT (Vinvennes),
Indochine, 10H 4197.
2009,
Copyright by Chieu N. Vu, All Rights Reserved
Trang mạng Việt Nam Văn Hiến
Trang Cuộc Truất Phế Bảo Đại www.vietnamvanhien.net email: thuky@vietnamvanhien.net Trang
mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi bảo tồn di sản văn hóa
và phục hồi nền an lạc
& tự chủ của Việt tộc.
Trở lên đầu trang |