Năm Thứ 4890

www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com



Giới Thiệu Sách
(bấm vào đề tài đọc thêm chi tiết) 

  STT
Tác Phẩm                      
 Tác Giả



24
Tủ Sách Tiếng Quê Hương
   Tiếng Quê Hương
23
Tủ Sách Khởi Hành
   Khởi Hành
   22
  Chuyển Thể - Đạo Đức Kinh Thời Nay
Nguyễn Kim Anh
   21
       Giới Thiệu: KHI ĐÔNG TÂY GIAO HỘI
Việt Nhân
20
Lịch Sử Chính Trị Cận Đại Việt Nam - Quyển 1: Bang Giao Việt-Mỹ ...
Phạm Đăng Lưu
  19
Góp Phần Nhận Thức Lại Lịch Sử Văn Hóa Việt   Khám Phá Lịch Sử T Hoa
Hà Văn Thùy
  18
 Giới Thiệu Sách Của Vơ Đại Tôn (Bấm vào đọc tiếp)
Vơ Đại Tôn
17
 The Last Hero of the Vietnam War
 Đào Tăng Dực
 16
 Dự Thảo Hiến Pháp Việt Nam- Ấn bản 2012 (ebook)
Đào Tăng Dực
 15
 Vũ Trụ Trong Một Nguyên Tử - Uyên hạnh giới thiệu
Đạt Lai Lạt Ma
14
Sống C̣n Vớí Dân Tộc (trong trang nầy)
Hà Thúc Kư
13
Thời Đại Cuả Tôi (trong trang nầy)
 Vũ Quốc Thúc
12
Chế Bồng Nga Anh Hùng Chiêm Quốc
 Ngô Viết Trọng
11
 Phạm Trần Anh
10
 Phạm Trần Anh
9
 Phạm Trần Anh
8

Văn Hoá Thái Hoà

 Việt Nhân
7

Kinh Thư Việt Nam

 Nguyễn Xuân Khoan
6
 Lê Đắc Trọng
5
 Nguyễn Tiến Hưng
4
 Vơ Đại Tôn
3
 Trọng Đạt
2
 Đào Tăng Dực
1
Đào Tăng Dực








Hà Thúc Kư : SỐNG C̉N VỚI DÂN TỘC
Đăng tải ngày: 16/09/2009

Sau cùng, với niềm tin lạc quan, cụ Hà Thúc Kư tin vào một tương lai tươi sáng cho dân tộc Việt. Cụ cho biết “Đất có tuần, dân có vận” có lẻ nào “vận’ của người dân Việt Nam đen đủi măi.
Tóm lại, qua văn phong giăn dị cùng tấm ḷng cởi mở và khách quan nhằm nêu lên những sự thật của lịch sử, cụ Hà Thúc Kư đă để lại cho thế hệ trẻ những tài liệu qúi báu .





Đôi gịng giới thiệu tác phẩm
SỐNG C̉N VỚI DÂN TỘC
Hồi Kư Chính Trị Của Cụ HÀ THÚC KƯ
 

 
 NGUYỄN VẠN B̀NH
 
Tác phẩm“Sống C̣n Với Dân Tộc”  hồi kư chính trị của cụ Hà Thúc Kư, một nhà cách mạng, một lănh tụ cao cấp của đảng Đại Việt sẽ được các thân hữu của cụ cho ra mắt tại hội trường TownHomes America Community tọa lạc tại 1955 Quimby Road, San Jose (góc đường Quimby và Tully)  vào 2 giờ 30 trưa ngày thứ bảy 10-10-2009 tới đây.Buổi ra mắt tác phẩm nầy cũng nhằm  tưởng niệm một năm ngày cụ qua đời ngày 16-10-2008 tại tiểu bang Maryland, Hoa Kỳ.
Với tựa đề của tác phẩm “Sống C̣n Với Dân Tộc” và nội dung là hồi kư chính trị của một nhà cách mạng, một chính trị gia, thế nên tác phẩm của cụ đă liên quan  đến cuộc sống thăng trầm của bản thân cụ , đồng thời cũng đă ghi lại những biến động của đất nước Việt Nam trong cuộc sống của cụ.Chính v́ thế, tác phẩm “Sống C̣n Với Dân Tộc” đă có một giá trị về khía cạnh đấu tranh của người Việt Quốc Gia trong giai đoạn chống thực dân Pháp, chống Cộng Sản thời cận đại từ năm 1930 đến nay.
Đọc qua nội dung của tác phẩm “Sống C̣n Với Dân Tộc”, người ta thấy rơ nơi cụ Hà Thúc Kư một tấm ḷng yêu quê hương và dân tộc Việt. Cụ đă bày tỏ lập trường chính trị kiên định của ḿnh là một người Quốc Gia yêu chuộng sự tự do, dân chủ và bảo vệ nền độc lập của nước nhà.Cụ chủ trương chống bọn thực dân Pháp cũng như lên án chế độ độc tài Cộng Sản Việt Nam.
Được biết cụ Hà Thúc Kư sanh năm 1920 tại Thừa Thiên.Tốt nghiệp kỷ sư Thủy Lâm.Năm 1943 cụ làm phó quận trưởng Thủy Lâm tại Cà Mau. Vào tháng 9 năm 1945, cụ tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp tại Mặt Trận Lào.Tháng 2 năm 1946, cụ rời bỏ hàng ngũ kháng chiến ra Hà Nội và gia nhập đảng Đại Việt do đảng trưởng Trương Tử Anh sáng lập.Năm 1950,  cụ được bổ nhiệm làm Xứ Bộ Trưởng Miền Trung.Năm 1953, cụ được bầu vào Hội Đồng Chủ Tịch Trung Ương Đảng Bộ Đại Việt.
Năm 1954, cụ tham gia Phong Trào Đại Đoàn Kết và Ḥa B́nh.Năm 1955, v́ bất đồng chính kiến với chính phủ Ngô Đ́nh Diệm và v́ có liên quan đến vụ biến động Ba Ḷng ở miền Trung, cụ đă bị chính quyền Ngô Đ́nh Diệm tuyên án khiếm diện chung thân khổ sai. Đến tháng 11 năm 1958 cụ bị chính quyền Ngô Đ́nh Diệm bắt và bị biệt giam cho đến sau ngày đảo chánh 1-11-1963 mới được thả tự do.
Năm 1963, cụ tham gia Hội Đồng Nhân Sĩ .Năm 1964 cụ là tổng trưởng nội vụ.Nhưng chỉ được vài tháng, cụ lại từ chức v́ bất đồng chính kiến với đại tướng Nguyễn Khánh. Tháng 5 năm 1965 cụ ra  một Bản Tuyên Ngôn 9 điểm đ̣i thực hiện đại đoàn kết quốc gia để cải cách về kinh tế, chính trị và xă hội.
Tháng 12 năm 1965, đảng Đại Việt Cách Mạng được thành lập và cụ được đại hội đề cử làm Tổng Bí Thư .Tháng 9 năm 1967, cụ cùng ông Nguyễn Vặn Định ra ứng cử Tổng Thống và Phó Tổng Thống. Sau tết Mậu Thân 1968, cụ vận động 6 đảng quốc gia có thực lực để thành lập Mặt Trận Quốc Gia Dân Chủ Xă Hội nhằm tạo sức mạnh để chống Cộng Sản Bắc Việt.Năm 1972, cụ cùng giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và ông Trần Quốc Bửu thành lập Mặt Trận Tự Quyết.
Ngày 30-4-1975, khi cộng sản Bắc Việt cưỡng chiếm được miền Nam, cụ cùng gia đ́nh vượt biển bằng tàu Trường Xuân và đến định cư tại Hoa Kỳ.Năm 1978, cụ cùng một số nhân sĩ, đảng viên Đại Việt, các bạn trẻ thành lập Mặt Trận Việt Nam Tự Do , đồng thời củng cố những cơ sở của Đại Việt Cách Mạng Đảng. Trong 3 kỳ đại hội đảng năm 1995, 1999 và 2003 của Đại Việt Cách Mạng Đảng, cụ được đại hội bầu làm Chủ Tịch Đảng. Cụ qua đời ngày 16-10-2008 tại tiểu bang Maryland, Hoa Kỳ hưởng thọ 89 tuổi.
Tác phẩm “Sống C̣n Với Dân Tộc” dầy 400 trang, b́a cứng, tŕnh bày trang nhă kèm theo một số h́nh ảnh của tác giả và sinh hoạt của đảng Đại Việt.
Trong phần mở đầu của tác phẩm, cụ Hà Thúc Kư cho biết cụ tôn trọng sự thật, những ǵ cụ viết ra đều là người thật, việc thật.V́ thế, nếu có phê b́nh một số nhân vật , nhận định một số dữ kiện , th́  cụ luôn đứng ở vị thế khách quan, cốt để nêu ra điều ngay lẻ phải mà thôi.
Nhận định về thời gian gia nhập kháng chiến, cụ  Hà Thúc Kư cho biết cụ lên đường tranh đấu với một tâm hồn trong sáng, không vướng mắc định kiến chính trị, không bận bịu gia đ́nh và không tơ tưởng bă lợi danh. Nhưng chỉ qua một thời gian ngắn, cụ đă tỉnh thức qua hành vi tỵ hiềm cá nhân, kỳ thị giai cấp của một ủy viên chính trị cộng sản, nên cụ đă dứt khoát rời bỏ hàng ngủ kháng chiến, nơi mà đảng CSVN đă lợi dụng ḷng yêu nước của đồng bào chống Pháp, nhưng chủ đích là mưu đồ bành trướng chủ nghĩa cộng sản quốc tế hầu đưa đất nước vào ṿng nô lệ Nga, Tàu.
Nhận định về Cựu Hoàng Bảo Đại, cụ Hà Thúc Kư cho biết có nhiều giai đoạn cụ không đồng ư về cung cách lănh đạo của cựu hoàng, nhưng không bao giờ chống đối hay công khai chỉ trích. Theo cụ th́ cựu hoàng Bảo Đại cũng có công lao không nhỏ với đất  nước trong giai đoạn 1945-1955  qua việc tranh thủ với Pháp để giải tán chính phủ Nam Kỳ tự  trị; thành lập lưc lượng liên tôn chống Cộng.
Nhận định về cá nhân tổng thống Ngô Đ́nh Diệm, cụ Hà Thúc kư cho biết cá nhân cụ khi c̣n là sinh viên đă từng ngưỡng mộ ông Diệm.Cụ có cảm t́nh với ông Diệm trước hành động từ chức Thượng Thư v́ không không muốn bị lệ thuộc vào bọn thực dân Pháp.Cho đến khi ông Ngô Đ́nh Diệm nắm vai tṛ tổng thống th́ cụ lại bị bắt bỏ tù.Cho đến nay, cụ cho biết mỗi khi nghĩ  đến việc tổng thống Diệm bị sát hại th́ cái thiện cảm mà cụ đă dành cho ông Diệm lúc  thời sinh viên lại trở lại. Cụ Hà Thúc Kư cho biết mỗi khi nghĩ đến tổng thống Diệm, cụ vẫn bùi ngùi tiếc thương cho con người suốt đời nặng ḷng lo toan cho đất nước.
Nhận định về cá nhân tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, cụ Hà Thúc Kư cho biết ông Thiệu tuy là người khôn ngoan, nhưng lại quá ỷ vào Mỹ, nên dần dà để mất chủ quyền quốc gia, rồi đưa đến sự bại trận của Việt Nam Cộng Ḥa khi bị đồng minh Hoa Kỳ bỏ rơi.
Nhận định về vai tṛ của Hoa Kỳ ở Việt Nam, cụ Hà Thúc Kư cho rằng chính sách của Mỹ luôn luôn là ngăn chận cộng sản.Qua từng giai đoạn, trước tiên Mỹ giúp Pháp chống Việt Minh, sau đó ủng hộ giải pháp Bảo Đại, ủng hộ giải pháp Ngô Đ́nh Diệm và cuối cùng can thiệp trực tiếp bằng cách gởi quân sang Việt Nam. Tất cả chỉ tùy thời đưa ra lập luận nầy hay lập luận khác, chứ chưa bao giờ thực sự là v́ dân tộc Việt Nam.Việc chủ trương Việt Nam Hóa chiến tranh chỉ là phương thức để qút quân ra khỏi Việt Nam trong danh dự. Nhưng theo cụ danh dự của cường quốc Hoa Kỳ đă hoen ố bởi quyết định bỏ rơi Miền Nam Việt Nam.Đây là một vết nhơ trong lịch sử của Hoa Kỳ.
Nhận định về đảng Cộng Sản Việt Nam, cụ Hà Thúc Kư cho rằng sau hơn 30 năm cai trị miền Bắc và trên 30 năm cai trị toàn lănh thổ Việt Nam, đảng CSVN đă chứng tỏ họ đă không có đủ khả năng để giải quyết những vấn đề dân sinh căn bản cho người dân.Cụ cho biết trên b́nh diện quốc tế, sự thực trước mắt đă chứng tỏ rơ rệt là chủ nghĩa Cộng Sản sai lầm đă bị phá sản.
Đối với các đảng viên của đảng Đại Việt, cụ Hà Thúc Kư đă có lời tâm huyết nhắn nhủ là con đường chông gai mà các anh chị em đă đi qua từ mấy chục năm qua , kế tục truyền thống cách mạng của cố đảng trưởng Trương Tử Anh là con đường chính nghĩa. Anh chị em hăy mạnh dạn cố gắng tiếp nối trên con đường đó cho đến ngày đất nước thực sự có Tự Do, Dân Chủ.
Sau cùng, với niềm tin lạc quan, cụ Hà Thúc Kư tin vào một tương lai tươi sáng cho dân tộc Việt. Cụ cho biết  “Đất có tuần, dân có vận” có lẻ nào “vận’ của người dân Việt Nam đen đủi măi.
Tóm lại, qua văn phong giăn dị cùng tấm ḷng cởi mở và khách quan nhằm nêu lên những sự thật của lịch sử, cụ Hà Thúc Kư đă để lại cho thế hệ trẻ những tài liệu qúi báu .
Xin chúc cho buổi ra mắt tác phẩm ‘Sống C̣n Với Dân Tộc” của cụ Hà Thúc Kư được thành công và nguyện xin hương linh của cụ Hà Thúc Kư, người luôn quan tâm đến vận mệnh của đất nước và dân tộc Việt được an lành về cơi Phật.
Mọi thắc mắc về buổi ra mắt tác phẩm “Sống C̣n Với Dân Tộc”, xin liên lac về ban tổ chức:  (209) 430 - 9178 hay (408) 667-0961.Email: hoangmai2006@sbcgloabl.net ª
NGUYỄN VẠN B̀NH



Vũ Quốc Thúc
Thời Đại Cuả Tôi

Wednesday, November 10, 2010

Phạm Xuân Đài

Trong năm 2010 này, nhà xuất bản Người Việt đă phát hành một lúc hai tác phẩm mang tên chung là Thời Đại Của Tôi của giáo sư Vũ Quốc Thúc, cuốn I có tên riêng là Nh́n Lại 100 Năm Lịch Sử, cuốn II là Đời Tôi Trải Qua Các Thời Biến.

Cuốn thứ nhất, Nh́n Lại 100 Năm Lịch Sử, dày hơn 400 trang hẳn nhiên là một cuốn sách về lịch sử, nhưng được tác giả khẳng định không phải là một thiên khảo luận về lịch sử Việt Nam, cũng không phải là một luận đề về chính trị hay xă hội học, mà chỉ là một bản tóm lược những điều mà tác giả thâu thái được trong khi cố gắng t́m hiểu về thời đại của ḿnh. Không kể phần Phụ Lục, sách chia ra làm năm hồi: Hồi thứ nhất: Việt Nam dưới chế độ thuộc Pháp; hồi thứ hai: Việt Nam trong cuộc thế chiến 1939- 1945; hồi thứ ba: Việt Nam tranh đấu giành lại độc lập; hồi thứ tư: Việt Nam trong cảnh qua phân lănh thổ; hồi thứ năm: Việt Nam tái thống nhất dưới chế độ Cộng sản. Trong mỗi hồi, tác giả chia ra từng giai đoạn hay từng vấn đề để xem xét riêng rẽ, trong mục đích, như tác giả khẳng định từ đầu, là để cố gắng t́m hiểu thời đại của ḿnh. Đó là những đề tài tác giả khai triển lịch sử phần nào theo cái nh́n riêng, cốt để nhấn mạnh đặc tính của giai đoạn đó mà không bị bóp méo đi như một số tài liệu khác. Nh́n chung, cuốn thứ nhất chính là cái khung thời gian và không gian cần thiết phải được giới thiệu trước để chuẩn bị cho cuốn sau trong đó tác giả kể những sự việc của đời ḿnh qua từng giai đoạn. Đây là công việc phần nào mang đặc tính của một nhà giáo, rất sư phạm: đó là, trước khi kể chuyện đời ḿnh, tác giả đă vẽ ra trước cho độc giả thấy cái bối cảnh rộng lớn làm nền cho cả tấn kịch đời của tác giả sẽ được kể trong cuốn II. Sự chuẩn bị đó rất cần thiết, có lẽ tác giả nhắm cho các thế hệ độc giả mai sau để hiểu được câu chuyện sẽ được kể trong từng giai đoạn lịch sử tương ứng với tất cả đặc điểm của nó.

Cuốn thứ hai với tên gọi Đời Tôi Trải Qua Các Thời Biến th́ đích thực là một cuốn hồi kư. Về cái tên chung Thời Đại Của Tôi, theo tác giả là để xác định ranh giới cho cuốn sách, rằng đây là một cái ǵ “của tôi” chứ không phải là một cuốn lịch sử, đ̣i hỏi một quá tŕnh làm việc rất khoa học và phiền toái của một sử gia. Trái lại tác giả chỉ chú trọng vào những phản ứng về mặt tâm lư và tinh thần mà các biến cố lịch sử gây ra trong tâm khảm của ḿnh. Khoảng thời gian mà tác giả gọi là “Thời đại của tôi” để nh́n lại và suy ngẫm được ấn định là 90 năm, kể từ khi tác giả được sinh ra năm 1920 cho đến năm nay 2010, khi tác giả viết những ḍng cuối cho cuốn sách này. Cuốn sách cũng được chia làm năm hồi. Hồi thứ nhất: trước khi Thế chiến II (1939- 1945) bùng nổ; hồi thứ hai: từ tháng 9 năm 1939, tức thời điểm xảy ra cuộc thế giới chiến tranh thứ 2, cho tới cuộc đảo chánh ngày 9 tháng 3 năm 1945 ở Việt Nam, ngày Nhật đảo chánh Pháp; hồi thứ ba: từ 9 tháng 3, 1945 tới hiệp định Genève ngày 20.7.1954, chia đôi đất nước Việt Nam; hồi thứ tư: từ tháng 7.1954 tới 30.4.1975, Việt Nam tái thống nhất do sự xâm chiếm của chế độ Cộng sản Việt Nam; hồi thứ năm: Từ tháng 4, 1975 tới nay.

Đọc hết năm hồi này qua 700 trang sách, cảm tưởng đầu tiên của người đọc phải là ngạc nhiên về trí nhớ phi thường của tác giả. Ông bắt đầu viết thiên hồi ư này khá trễ, vào năm 1996 là lúc ông đă 76 tuổi, thế mà ông kể lại tường tận tỉ mỉ từ chuyện xa nhất như môi trường gia đ́nh của ông từ ngày ông sinh ra, đến việc học hành, thi cử, ra đời làm việc, những biến cố trong đời..., không phải chỉ việc riêng của cá nhân ông, mà luôn luôn đầy những nối kết với xă hội, với môi trường thời đại, với vô số nhân vật đương thời. Đúng là những trang sách của ông đă tạo nên bức bích họa của thời đại ông, dù là thời ông c̣n nhỏ, hay thời kháng chiến của Việt Minh, lúc đi thi tiến sĩ và thạc sĩ bên Pháp, hoặc thời giữ những chức vụ quan trọng trong chính quyền miền Nam, hay quăng đời sau 1975 đi tị nạn bên Pháp. Giai đoạn nào ông viết cũng đâu ra đấy, sự việc nào cũng đầy đủ đầu đuôi gốc ngọn, chuyện cá nhân và chuyện thời đại xen kẽ, đan kết nhau, bổ túc cho nhau để làm nên một bức tranh hoàn chỉnh. Đây không phải là những trang hồi kư để đề cao cái ta của tác giả, không, người đọc tuyệt nhiên không nhận thấy điều ấy, mà càng đọc càng say sưa v́ các chi tiết sống động của xă hội đương thời mang đầy sinh khí cho mọi câu chuyện được kể. Đọc ông, người ta thấy rơ cái tinh thần đại học được thể hiện ở từng trang: uyên bác, tôn trọng sự thật đến tối đa, cộng với tài kể chuyện duyên dáng mà thành thật, khiến cho người đọc dễ dàng cảm thấy một niềm tin cậy, khiến cái ông gọi là “thời đại của tôi” biến thành “thời đại của chúng ta” lúc nào không hay. Biến cái riêng của ḿnh thành cái chung của mọi người, đó là sự lớn lao của cuốn hồi kư này. Lời kể của ông đă phản ảnh cả một thời đại trong đó cuộc đời ông đă trải qua, đó cũng là thời đại chứa đựng cuộc đời của hầu hết chúng ta hôm nay, đọc ông chúng ta sẽ đồng cảm với ông, và sẽ thầm cám ơn ông đă nói hộ cho chúng ta vô số điều mà ta không đủ điều kiện để biết hết.

Trước hết cuốn hồi kư này đă cống hiến cho người đọc rất nhiều tư liệu về văn hóa Việt Nam. Chỉ nội một chương đầu tiên, có tên là Môi Trường Gia Đ́nh, chúng ta được biết nhiều điều về thành phố Nam Định từ cổ truyền cho đến khi thuộc Pháp, sự buôn bán làm ăn ở đó, cư dân và truyền thống văn học khoa cử của đất thành Nam v.v...; từ thông tin gia đ́nh ông vốn trước kia họ Phạm, từ thế kỷ 17 đổi sang họ Vũ, chúng ta được đọc hầu như cả một thiên khảo cứu về việc đổi họ ở nước ta; từ một chi tiết “truyền thống thờ tổ tiên của gia đ́nh tôi” chúng ta được biết buổi lễ học vỡ ḷng cuốn Tam Tự Kinh của tác giả đă xảy ra như thế nào, tinh thần Nho giáo “quỷ thần kính nhi viễn chi” đă khiến thân phụ của tác giả thờ ơ đối với mọi tôn giáo khác mà chỉ coi việc thờ cùng tổ tiên là vô cùng hệ trọng ra sao. Với cung cách nghiên cứu đại học, hầu như bất cứ việc nhỏ nhặt nào cũng được tác giả tŕnh bày đến tận nguyên ủy. Chỉ riêng về khía cạnh văn hóa, độc giả có thể học từ cuốn sách này vô số điều.

Giáo sư Vũ Quốc Thúc, là một nhà khoa bảng lớn của Việt Nam, ông đă đậu Tiến sĩ Luật và Thạc sĩ Đại học Kinh tế tại Pháp. Cuốn hồi kư đă cho thấy truyền thống học vấn sâu dày của tổ tiên đă ảnh hưởng đến sự thông minh, tính kiên tŕ nhẫn nại cùng ư chí học hỏi nơi ông lớn lao ra sao. Nhưng điều đáng phục nơi ông là khả năng “tri hành hợp nhất” mà ông đă thi thố với đời, đem kiến thức khoa bảng vào việc xây dựng cho đất nước Việt Nam. Chương 5, kể chuyện tác giả về dạy ở trường Luật Hà Nội năm 1951 là một chương đầy thú vị, cho thấy sự “quật khởi” của một trí thức trẻ Việt Nam trước tinh thần thực dân của những ông khoa bảng Pháp. Tác giả, với học vị, với tinh thần ṣng phẳng trong Thỏa Hiệp Văn Hóa mới kư kết giữa Pháp và Việt Nam, đă cứng cỏi dẹp tan những lấn lướt cố hữu của người Pháp, từ việc giữ vững vị trí Giám Đốc trường Luật Hà Nội của ḿnh đến việc tranh đấu về lương bổng b́nh đẳng giữa giáo sư người Pháp và người Việt.

Về sau, trong những năm đầu đầy khó khăn của chính quyền Ngô Đ́nh Diệm ông đă thành công trong công tác thảo luận rất gay go với Pháp và hai nước Cam Bốt và Lào để giải tỏa các định chế cũ trong gần một thế kỷ cai trị của người Pháp ở Đông Dương, để thiết lập Viện Phát Hành tiền tệ, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, Viện Hối Đoái cho Việt Nam. H́nh ảnh của ông đúng là một con người “kinh bang tế thế” mà chúng ta vẫn nghe thấy trong văn chương, và ông hoàn toàn xứng đáng với lời của TT Ngô Đ́nh Diệm ngợi khen ông là một người “thao lược”, sau khi ông thành công trong công tác khó khăn này.

Sau tháng 4, 1975, tác giả đă trải qua những ngày bất an, thậm chí có thời gian ngắn bị bắt giam v́ dự tính vượt biên. Cộng sản tiếp thu trường Luật, và trường Luật bị đổi thành trường Kinh tế. Chế độ toàn trị không cần tinh thần luật pháp cho xă hội, v́ tinh thần ấy dựa trên những ư niệm căn bản về con người như chủ quyền cá nhân, sự b́nh đẳng, công bằng v.v... Những nguyên lư có tính vĩnh cữu như thế đă tạo ra những đạo luật tồn tại hàng thế kỷ trước đây, nay hoàn toàn không có giá trị đối với đảng cộng sản. Luật của họ dựa trên những nguyên lư khác, chỉ do đảng đặt ra, họ chỉ cần đào tạo một lớp người để thi hành và giữ ǵn luật của riêng họ, không cần có một trường luật với môn luật học dựa trên những đặc tính bền vững của con người và xă hội con người. Hai mươi năm trước giáo sư Nguyễn Mạnh Tường ở miền Bắc đă nhân danh luật pháp lên tiếng về việc đấu tố trong cải cách ruộng đất, đă bị đảng triệt hạ, trừng phạt một cách thê thảm. Và nay, khi cộng sản tiếp thu trường Luật ở Sài G̣n, việc đầu tiên là họ cho nghỉ việc bốn giáo sư, trong đó có giáo sư Vũ Quốc Thúc.

Tuy nghỉ việc nhưng vẫn phải theo Khóa Nghiên cứu lư luận Mác Lê nin, và trong khóa này giáo sư Vũ Quốc Thúc đă một lần đụng độ về lư luận với một giảng viên từ ngoài Bắc vào, một hành động thời đó được coi là dũng cảm không ai dám làm, được nhiều người trong giới xem là “bảo vệ danh dự của trí thức miền Nam”. Kể lại chuyện này, tác giả cũng ư thức được sự nguy hiểm khi để lộ ra bất cứ sự bất đồng ư kiến nào với một chế độ độc tài, và biết rằng để sống yên trong một chế độ như thế, con người phải nghĩ một đằng nhưng nói một nẻo.

Phải nhận rằng tác giả có một số mạng rất may mắn. Dù là phải trải qua đủ thứ chế độ trên đất nước Việt Nam, mà sau hết là chế độ cộng sản đầy tệ hại, nhưng cuối cùng ông cũng thoát ra để tới được nơi an toàn. Chỉ ba năm sau 1975 ông đă được cùng gia đ́nh xuất cảnh sang Pháp, do lời thỉnh cầu của chính Thủ tướng Pháp thời đó với ông Phạm Văn Đồng khi ông này sang thăm nước Pháp với tư cách là Thủ tướng Việt Nam. Qua đến Pháp giáo sư Vũ Quốc Thúc đă được bổ nhiệm dạy môn Kinh tế ngay tại đại học Paris 12, làm đúng nghề sở trường của ḿnh, không phải vất vả t́m kiếm việc làm khác. Qua thập niên 1980 ông lại bắt tay vào một số hoạt động để bênh vực cho thuyền nhân, và đặc biệt là cuộc vận động để văn hồi Hiệp định Paris kư năm 1973, trong đó có sự tham gia của cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và nhiều nhân vật của Việt Nam Cộng Ḥa. Năm 2000 ông tham gia việc công bố Hiến chương 2000 tại Paris. Và những trang chót của cuốn sách này ông đă dành để nói về việc vận động cho Việt Nam được hưởng quy chế Trung lập theo quốc tế công pháp. Tác giả Vũ Quốc Thúc kết thúc cuốn sách vào tháng 6 năm 2010, khi ở tuổi 90.

Như tác giả đă cho biết từ đầu, gia đ́nh ông chỉ thờ cúng ông bà chứ không theo tôn giáo nào. Lúc trẻ, khi đứng trước trước các khó khăn bất trắc, có khi ông đi coi bói. Ông đă kể lần đi coi bói tại Paris (và sau đó nhiều lần coi bói khác nữa) khi ông sang dự kỳ thi Thạc sĩ vào năm 1952, một bà đầm già tám mươi tuổi đă nh́n vào một quả cầu thủy tinh và mô tả cho ông những h́nh ảnh bà đă thấy trong quả cầu ấy. Bà ấy không khẳng định ông thi đậu hay rớt mà chỉ cho thấy h́nh ảnh của một buổi tiếp tân vui vẻ vào sau lễ Giáng Sinh năm ấy. Kết quả là ông đă thi đậu thạc sĩ và khi về đến Sài G̣n ông khoa trưởng trường Luật Khérian đă mở một buổi tiếp tân để chào mừng ông vào ngày đầu năm 1953, đúng như h́nh ảnh bà đầm mô tả. Ông đă trải qua nhiều trường hợp linh nghiệm trong bói toán, và ông suy ra rằng “quả thật trong đời có những yếu tố siêu h́nh chúng ta không thể xét đoán với con mắt trần tục (...) tuy nhiên có người nh́n được, Trời ban cho họ khả năng nh́n thấy những cái đó.”

Khuynh hướng dựa vào yếu tố siêu h́nh về sau đă trở nên mạnh hơn nơi tác giả khi nghịch cảnh trở nên quá nặng nề trong giai đoạn sống với cộng sản sau 1975: ông đă gần như dựa hẳn vào tôn giáo. Nhưng đó chưa phải là tín ngưỡng đích thực, mà chỉ là sự t́m kiếm, cầu xin một lối thoát giữa hoàn cảnh khó khăn của cuộc sống: “Hằng ngày mặc dù không phải tín đồ Thiên Chúa Giáo, tôi đă đến nhà thờ Đức Bà. Tôi cầu nguyện trước tượng Đức Mẹ xin Đức Mẹ run rủi cho gia đ́nh tôi được thoát khỏi Việt Nam toàn vẹn.” Một lần nữa, tác giả lại “cầu được ước thấy”, rốt cuộc ông và gia đ́nh đă được đi tị nạn bên Pháp. Từ việc tin vào bói toán, đến cầu xin một h́nh tượng tôn giáo để nhất thời t́m giải pháp cho những khó khăn của ḿnh, những việc ấy chứng tỏ nơi tác giả có một tiềm năng tín ngưỡng, nhưng chỉ phát lộ ra dần dần từ thấp đến cao qua những lần dựa vào đó để mong t́m lối thoát cho những bế tắc cụ thể trong đời.


*


Cuốn hồi kư này đă cống hiến cho chúng ta h́nh ảnh một nhà trí thức luôn luôn tích cực với đất nước. Giáo sư Vũ Quốc Thúc là người học rộng, khoa bảng cao, điều đó ai cũng biết, nhưng ông xứng đáng với danh xưng là Trí Thức v́ lúc nào ông cũng vận dụng hiểu biết của ông để làm những điều ích lợi cho quốc gia, lúc nào ông cũng dấn thân hết ḿnh vào từng giai đoạn cụ thể của thời đại ông, không những đáp ứng những nhu cầu cấp thiết của thời điểm đó, mà c̣n có khả năng nh́n vượt thời đại của ḿnh để mưu cầu sự tốt đẹp cho một Việt Nam trong tương lai. Viết kể lại những hoạt động của đời ông là một việc cần thiết mà ông nên làm và đă làm, nhưng mặt khác, đọc kỹ những ǵ ông viết lại là điều cần thiết hơn đối với chúng ta hôm nay và cả con cháu của chúng ta mai sau nữa.

PXĐ
tháng 11, 2010




CHẾ BỒNG NGA ANH HÙNG CHIÊM QUỐC

Của NGÔ VIẾT TRỌNG



 
UYÊN HẠNH
 
 
"Chế Bồng Nga Anh Hùng Chiêm Quốc" đi sát những xoay chuyển của thời cuộc qua những nước cờ chính trị, qua giá trị của chữ tín và nghĩa, và từ đó sự an b́nh của người dân biến chuyển theo những quyết định của người nắm dây cương điều hạnh vận mệnh một đất nước. Sách cũng đem lại cho người đọc cái cảm giác thanh thản hơn v́ đă rủ bỏ được rất nhiều định kiến về ”món nợ máu” giữa hai dân tộc Đại Việt và Chiêm Quốc, nhưng không khỏi để lại một nỗi buồn man mác trong ḷng v́ ảnh hưởng những trận chiến giữa hai nước. Những trận chiến nếu có thể tránh được, sẽ bớt đổ máu, bớt gây đau thương, mất mát hủy diệt và nhất là đem an vui và ấm no hơn cho nhân dân hai nước.
 
Vương quốc Chiêm Thành ngày xưa gồm B́nh Trị Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngăi, B́nh Định, Phú Yên, Khánh Ḥa và Ninh Thuận, B́nh Thuận. Năm 1832 Vương Quốc Chiêm Thành đă bị xóa tên vĩnh viễn trên bản đồ thế giới sau cuộc Nam Tiến tàn khóc của Đại Việt thời vua Minh Mạng. "Chế Bồng Nga Anh Hùng Chiêm Quốc" là một quyển tiểu thuyết lịch sử dày trên 250 trang của nhà văn Ngô Viết Trọng, vừa được ra mắt độc giả vào tháng bảy năm nay, 2011, tại Sacramento, Hoa Kỳ. Sách viết về giai đọan lịch sử giữa hai dân tộc Việt Nam và Chiêm thành. Ng̣i bút trung thực của ông cho người đọc cái nh́n thông suốt qua những thăng trầm của các triều đại và cuộc chiến khá khốc liệc giữa hai nước. Sách cho thấy rơ nguyên nhân v́ sao dân tộc Chiêm bị xóa tên trên bản đồ thế giới.
 
”Trên dải đất miền Trung Việt Nam ngày nay, xưa kia đă từng có một Quốc Gia độc lập, phú cường, trải dài lănh thổ từ Quảng B́nh đến vùng cực bắc tỉnh Long Khánh. Lănh thổ nước này c̣n mở rộng về phía Tây đến sáu tỉnh Cao Nguyên Trung phần Việt Nam như Daklak, Kontum, Pleiku, Phú Bồn. Đó là Vương Quốc Champa tức Chiêm Thành gồm nhiều dân tộc như Chăm, Rhade, Koho, Chru, Raglai, Mạ....” (tr.Dv.LQS). ”Thời Việt Nam c̣n nằm dưới ách Bắc Thuộc, dưới sự cai trị tàn ác của Trung Hoa, Chiêm Thành đă nhiều phen gây khó khăn bối rối cho Trung Hoa qua những vụ tranh chấp lănh thổ, đă góp phần không nhỏ vào việc ngăn cản sự bành trướng của đế quốc nầy. Rất nhiều thứ sử thái thú tàn ác của Trung Hoa đă mất đầu dưới tay người Chiêm. Người Chiêm cũng đă từng đánh vào Java, Mă Lai, Chân Lạp…và đă từng tiến chiếm Đại Việt… Năm 1365 quân Chiêm đă bắt hằng trăm thanh thiếu niên nam nữ của Đại Việt đang vui chơi Hội Xuân ở đất Bà Dương (Hóa Châu) đem về nước… Tiếp theo mỗi lần Chế Bồng Nga sang đánh Đại Việt thắng trận lại bắt về biết bao nhiêu thiếu nữ và đàn bà trẻ để làm ǵ nếu không phải là làm quà ban thưởng cho các quan quyền làm thê thiếp hay nô lệ?” (tr. CBN)
 
Theo sử sách ghi lại, cũng là đề mục chính được đề cập đến trong quyển tiểu thuyết lịch sử nầy, chúng ta thấy rơ Chiêm Quốc luôn ôm mộng thôn tính Đại Việt, đă khiến cho dân chúng hai nước trải qua biết bao nhiêu cảnh máu đổ thịt rơi. Và cũng trong giai đoạn lịch sử nầy, chúng ta thấy được những vị vua anh minh đức độ hào hùng của đôi bên. Những người luôn cố gắng giữ ǵn t́nh giao hảo của hai nước để dân chúng được an vui sinh sống. Nhưng cảnh chiến tranh tương tàn nồi da xáo thịt đă không tránh khỏi bởi v́ những kẻ cầm quyền tham lam và những nịnh thần vị lợi.
 
Cho dù Chiêm Quốc luôn nuôi mộng xâm chiếm Đại Việt, và với những đội binh tinh nhuệ trên đất liền cũng như trên biển cả họ cũng không dám coi thường ḷng yêu nước và ư chí sắt đá của nhân dân Việt. Trong một lần luận đại sự với các quan, vua Chế Bồng Nga nói: ”Ta đă nghĩ kỷ nhiều rồi, các khanh đừng bao giờ nuôi mộng sát nhập Đại Việt vào Chiêm Thành! Thứ nhất, dân tộc Đại Việt là một dân tộc quật cường rất khó chinh phục! Nước Trung Hoa lớn mạnh thế kia, họ đă từng chiếm Đại Việt làm quận huyện trải ngót ngh́n năm mà chúng c̣n vùng dậy được, nay nước ta làm sao cai trị chúng nổi? Thứ hai, nếu ta tiêu diệt được Đại Việt tức là ta tự đem cái biên giới nước ta lại gần nước Trung Hoa, như thế có phải là ta tự đem cái khổ, cái lo thường trực đến bên lưng ḿnh không?”. Một vị quan tâu: ”Thần không hiểu v́ sao Bệ Hạ lại kỵ nước Trung Hoa như thế?”. Vua Chế Bồng Nga giải thích: ” Người Đại Việt tuy cũng hung tợn nhưng không thâm độc đểu giả như người Trung Hoa. Này nhé, Khổng Minh thời Tam Quốc mà nay cả nước Trung Hoa đều ca ngợi là nhà chính trị, quân sự đại tài và có đức lớn, các khanh có biết không? Khi chọc giận Chu Du nước Đông Ngô hộc máu mà chết xong, y giả vờ sang Ngô điếu tang khóc lóc thảm thiết đến nổi nhiều người tưởng y thương tiếc Chu Du thiệt t́nh. Khi tướng Bạch Khởi nước Tần đánh quân Triệu ở trận Trường B́nh, quân Triệu bị vây ngặt phải đầu hàng, nhưng Bạch Khởi cho lừa chôn sống ba vạn quân Triệu chỉ trong một đêm. Trong trận đánh tiêu diệt dân tộc Dao ở Vân Nam, người Trung Hoa đă đốt sạch nhà cửa, giết sạch người Dao kể cả trẻ con, bỏ thuốc độc vào tất cả đầu nguồn các ḍng suối…Người Trung Hoa đểu giả độc ác như vậy làm sao ta tin họ được!” (tr. 132) 
 
Luận về Đại Việt, đă một lần vua Chế Bồng Nga nói với vị đại tướng tài giỏi dũng mănh La Ngai: ”Khanh nghĩ Đại Việt sẽ bị Trung Hoa nuốt ư? Khó lắm! Đại Việt đă từng là một cục xương mà Trung Hoa nuốt măi không trôi!” 
                   
Trong "Chế Bồng Nga Anh Hùng Chiêm Quốc" nhà văn Ngô Viết Trọng đă có kể đến những nhà lănh đạo anh minh đức độ coi trọng mạng sống của nhân dân. Như dưới thời vua Trần Nhân Tông và vua Chế Mân: ”Sau khi quân Mông Cổ bị thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược hai nước Đại Việt và Chiêm Thành, hai dân tộc nầy đă trải qua một thời gian sống ḥa b́nh, thân thiện bên nhau ngót hai mươi năm...” (Tr. 19). Năm Mậu Ngọ 1318 Chế Năng lại bước theo con đường Chế Chí đă đi, kéo quân xâm phạm Đại Việt, Huệ Vũ Vương Trần Quốc Chấn được vua Anh Tôn cử đi chinh phạt Chiêm Thành. Quân Chiêm thua trận, Đại Việt chiếm được Đồ Bàn. Triều đ́nh Chiêm Thành như rắn mất đầu. Nhưng theo quyết định của lần hội thảo với vua Minh Tôn trước khi Huệ Vũ Vương cất quân và chiến thắng, chiếm được Đồ Bàn, Huệ Vũ Vương Trần Quốc Chấn cho yết bản phủ dụ chiêu an dân Chiêm. ”Ông kêu gọi ai làm việc ǵ nay trở về với công việc ấy. Ông cũng ra lệnh cấm tuyệt quan quân Đại Việt quấy nhiễu dân Chiêm. Ai phạm tội nặng như giết người, hiếp dâm đều bị xử chém. Tội vừa như cướp bóc, trộm cắp th́ phải chịu đánh đ̣n… Nhờ lệnh đó, dân Chiêm có phần yên ḷng, dần dần lại làm ăn như cũ” (tr. 22).
 
Lịch sử được viết dưới h́nh thức tiểu thuyết là dùng lối văn sáng tạo làm phương tiện chuyển tải lịch sử, là ”thổi hồn” vào một thực tế đă ”chết”. Là tạo phần sống động và chất ”xúc tác” cần có để lôi kéo thị hiếu v́ gợi được tính hiếu kỳ của độc giả. Nhà văn Ngô Viết Trọng rất có bản lĩnh khi hội nhập hai lănh vực tri thức của lịch sử và khía cạnh sống động nhẹ nhàng của văn chương. Ông đă truyền đạt được tất cả các cái đẹp của nhân nghĩa lễ trí tín ở đời, và giúp cho chúng ta và thế hệ trẻ đi sâu vào một nền văn hóa và lịch sử Việt phong phú, và những trang sử cần đọc để học và thấy. Học, để làm người cương trực lương thiện. Thấy, để hănh diện về những tấm gương sáng đầy uy dũng, khí lược, đạo đức và từ tâm của cha ông chúng ta. H́nh thức tiểu thuyết lịch sử dưới ng̣i bút nhà văn Ngô Viết Trọng không cho thấy một sự bóng bẫy rườm rà. Ông viết rất đơn giản nhẹ nhàng và đi sát với sự kiện. Với một ng̣i bút cứng cáp và đầu óc linh động, ông đă viết nên những chương sách có một bố cục chặt chẽ, lời văn rất trung thực với t́nh thế. Trong phần mở đầu sách ”Chế Bồng Nga Anh Hùng Chiêm Quốc” tác giả đă luận về nghĩa hai chữ anh hùng. Đi sâu vào quyển tiểu thuyết lịch sử nầy chúng ta hiểu rơ v́ sao Chế Bồng Nga xứng danh là một bậc anh hùng của Chiêm Quốc. Nhà văn Ngô Viết Trọng cũng không quên dí dỏm tách rời ư nghĩa các từ ”anh hùng thời đại” mà chúng ta thường nghe thấy ở Việt Nam hiện nay, nhan nhăn đầu làng cuối thôn, của cái gọi là ”ra ngơ cũng gặp anh hùng”! Ngay trong phần mở đầu quyển sách, h́nh như muốn người đọc hiểu rơ v́ sao ông nêu danh vua Chế Bồng Nga là vị vua anh hùng của Chiêm Quốc, ông đă thâm thúy kể cho chúng ta nghe lại câu chuyện ở Trung Hoa thời Tam Quốc, lúc Lưu Bị rụng rời chân tay đánh rơi đôi đũa đang cầm trên tay xuống đất khi nghe Tào Tháo luận nghĩa hai chữ anh hùng!
 
”… Không ngờ cuộc đời của một vị vua anh hùng ngang dọc một thời lại kết thúc đau đớn chỉ v́ một sơ suất nhỏ! Ông đă không thực hiện được ước nguyện. Nếu Chế Bồng Nga cẩn thận hơn một chút, không biết cục diện khu vực Đông Nam Á ngày nay sẽ ra thế nào? Phải chăng đó là sự dàn xếp của định mệnh?". (tr. CBN). Đọc ”Chế Bồng Nga Anh Hùng Chiêm Quốc” Chúng ta sẽ rơ ”sơ suất nhỏ” đó là ǵ để thấy được v́ sao có thể tạo ảnh hưởng cho cục diện khu vực Đông Nam Á ngày nay. 
 
Con sông nào cũng có những khúc quanh, ḍng lịch sử nào cũng có những bước ngoặc của nó. Xin hân hạnh giới thiệu đến qúy độc giả tác phẩm ”Chế Bồng Nga Anh Hùng Chiêm Quốc” để cùng đi vào ḍng lịch sử và hiểu được những ẩn khúc trong đường lối chính trị tạo nên những biến cố trọng đại. Nhận chân sự kiện lịch sử, thấy được thế nào là một bước sa cơ đưa dân tộc đi vào ngơ cụt. Đồng thời chúng ta sẽ rơ hơn sự kiện Việt Nam ”thôn tính” Chiêm Thành, và v́ sao Chiêm Quốc đă mất dấu trên bản đồ thế giới.
 
Trong buổi ra mắt sách tại Sacramento, một trong số người tham dự hôm đó có ông Lưu Quang Sang, cựu dân biểu Việt Nam Cộng Ḥa gốc Chăm đă phát biểu: ”Tôi xin mạn phép ghi nhận rằng tác phẩm "Chế Bồng Nga: Anh Hùng Chiêm Quốc" là một đóng góp bổ sung tuy nhỏ nhưng cần thiết cho nền sử học Việt Nam thường đồng hành với nền Champa học. Ngoài ra tôi cũng hy vọng rằng tác phẩm lịch sử tiểu thuyết này sẽ góp phần tích cực củng cố t́nh nghĩa anh em giữa 2 dân tộc Việt - Chiêm trong đại gia đ́nh Việt Nam thân yêu của chúng ta”.
 
 
UYÊN HẠNH
20/ 8.2011
 
*(tr/CBN): Nêu dẫn trang sách, trích từ ”Chế Bồng Nga Anh Hùng Chiêm Quốc”
*(tr.Dv.LQS): Trích/cựu dân biểu Lưu Quang Sang 
Mua sách xin trực tiếp liên lạc với tác giả
 NGÔ VIẾT TRỌNG E-mail: trongngosacto@yahoo.com




Nhóm mạng Việt Nam Văn Hiến
Trang : Giới Thiệu Sách
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com

Email: thuky@vietnamvanhien.net

"Bất chiến tự nhiên thành" chi kế
Văn Hiến ngàn năm sử đă đề
  Giải trừ quốc nạn bằng Tâm lực
"Nhân Chủ (tự chủ) - An Vi (an lạc)" khai lối về


Lấy Tâm Lực thay cho vũ lực để giải trừ quốc nạn là phục hoạt nếp sống Văn Hiến và phục hồi nền "An Lạc & Tự Chủ" ngàn đời cuả Việt tộc.