Việt Nam Văn Hiến Năm Thứ
4888
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.net
Trang mạng Việt Nam Văn Hiến xin
được trân trọng lưu trữ và phổ biến những biên khảo
và sáng tác của ngài X.Y. Thái Dịch
Lý Đông A, để tri ân sự hiện hữu của
ngài trong dòng sinh mệnh Việt cùng những
đóng góp vô cùng quý báu cho
nền văn hóa văn hiến Việt.
Huyết
Hoa
X.Y. Thaí
Dịch Lý Đông A
HUYẾT HOA-X.Y.Thái Dịch
Lý Ðông A- (Những
bản văn trong tuyển tập này thuộc loại tiểu luận rút
trong bộ Nhã của
Thư Ký Trưởng Duy Dân Ðảng Lý Ðông A
viết trong khoảng thời gian
1940-1945, giữa lúc Ðệ Nhị Thế Chiến đang tiếp diễn
và các phong trào
dân tộc vận động tự chủ đang lên cao.Lịch sử nhân
loại phát triển bắt
đầu đi vào một chiều hướng mới. Những bản văn này
xác định chiều hướng
đó trong sự nhận định tình thế thế giới và thời
đại với con mắt của một
lịch sử tiến hóa sử quan ....
Những
bản văn trong tuyển tập này thuộc loại tiểu luận rút
trong bộ Nhã của
Thư Ký Trưởng Duy Dân Ðảng Lý Ðông A
viết trong khoảng thời gian
1940-1945, giữa lúc Ðệ Nhị Thế Chiến đang tiếp diễn
và các phong trào
dân tộc vận động tự chủ đang lên cao.
Lịch
sử nhân loại phát triển bắt đầu đi vào một chiều
hướng mới
Những
bản văn này xác định chiều hướng đó trong sự nhận
định tình thế thế
giới và thời đại với con mắt của một lịch sử tiến hóa sử
quan và bằng
một công cụ nhận thức là "Duy Dân
biện chứng" (Xuân Thu).
Từ
những nhận định đó, một sứ mạng dân tộc và thời đại
được đề ra cho
người Việt yêu nước giàu lòng hy sinh lại vốn
có một truyền thống đấu
tranh chống áp bức và chia rẽ.
Trên
nền
tảng
của
thời
đại,
làm công việc khơi dòng lịch
sử, người Việt phải "Sống Tái Sinh"
trong một tinh thần mới, với nếp nghĩ và nếp làm mới
(Bông Lau). Người Việt bước lên "Bồn gột
rửa",
trút bỏ mọi thành kiến, quay trở về kín
gánh trong đáy hồn của lịch sử
dân tộc sức sống và sức đấu tranh tâm lý
(Thần Linh Học, Sử Hồn).
Người
Việt làm cách mạng nghĩa là làm "Công
việc
xoay
đổi
thời
đại"
không thể không biết đến những thành bại của những
cuộc cách mạng đã
đánh dấu vào lịch sử tiến hóa của nhân loại,
để rút lấy những bài học "máu"(Huyết Hoa). Bởi dân tộc là nhiều nhưng
nhân loại là một, loài người xưa và nay vẫn "lướt
mướt
theo
đuổi
thực
hiện
một mẫu mực người lý tưởng trong một
mẫu mực xã hội lý tưởng". Mỗi bước tiến của
nhân loại há chẳng là những bước Duy Dân đấy
ư trên con đường phục hưng "con người"? trong mỗi
xã hội và ở mỗi thời đại riêng biệt? Những
bài học máu còn là đảm bảo cho cuộc
cách mạng Việt giữ được "Nhân loại
toàn tính".
Cách
mạng
Việt
vì
thế
phải
là một công việc có
sáng tạo tính, khoa học tính,
nhân đạo tính và biện chứng tính.
Cách mạng Việt còn là cả một thể hệ
triết học đấu tranh, thống nhất khoa học, triết học và sử học,
thống
nhất lý luận và hành động.
Nhưng
ở đây, chúng tôi không làm công
việc giới thiệu mà chỉ làm công việc
trao truyền. Mỗi bản văn trong tuyển tập tự nó đã
có những giá trị mà
bạn đọc tất nhận thấy.
Non
ba mươi năm đã trôi qua sau khi những bản văn được viết
ra. Thời gian
không làm mất giá trị thực tiễn của những bản văn
đó đối với công cuộc
cách mạng và mở thời đại của dân tộc chúng
ta trên con đường sống còn
và tiến hóa. Trái lại, thời gian với kinh nghiệm
sống và tranh đấu càng
làm nổi bật lên tính chất đúng xác
và cần thiết của những công việc mà
cách mạng phải làm, của con đường mà cách
mạng phải đi với những phương
thức và phương pháp mà cách mạng phải theo.
Nói
như
vậy
không
có
nghĩa
là những bản văn trong tuyển
tập này đã chứa
đựng toàn bộ một lý thuyết cách mạng với một chủ
trương dân tộc và thời
đại được vạch ra đầy đủ. Nhưng mà qua những dòng chữ
là đã hàm súc
những ý nghĩa căn bản trên thấm nhuần trong mỗi lời văn
và mỗi danh từ
được xử dụng.
Chúng
ta
càng
nhận
thức
được
sâu sắc bao nhiêu những
ý nghĩa đó là đã tự mình
tiếp nối được chắc chắn bấy nhiêu với truyền thống của người Việt
tranh
đấu đời đời cho sự khơi nguồn và mở dòng sống của
dân tộc.
Bởi
qua những bản văn đó dào dạt tình yêu nước
thương nòi và chan hòa lòng yêu
thương nhân loại.
Bởi
đây là kết tinh của đau thương và tủi nhục.
Dân tộc nào chịu đựng nhiều
hơn và lâu hơn dân tộc Việt những tội ác của
loài người? Và người Việt
nào không từng cảm thấy trong lòng như "chết
đau
thương" trước những đau khổ và tủi nhục của
chính mình và đồng loại?
Hoa
sen nở trong bùn và Chúa lên Câu
Rút!
Ðó
là
những
đóa
nhân
ái
nở trong lòng
người Việt. Hoa nhân ái là hoa lý tưởng của
cách mạng Việt.
Loài
người
đã
làm
cho
thép
nở hoa, hoa và nấm
nguyên tử! Người Việt chúng ta
quyết đem lại cho loài người đóa Huyết Hoa, đóa
hoa máu còn gọi là "Ái hoa"
và "Trí Tuệ hoa".
Sao
cho yêu thương được chế độ hóa và thực tiễn
hóa!
Sao
cho toàn thể loài người được hưởng hương thơm của hoa
nhân ái!
Ðó
là
lý
tưởng
hiện
thực
trong việc làm của
chúng ta trên con đường phụng sự dân tộc và
nhân loại. Mùa hạ năm Kỷ Dậu.
THÁI LĂNG NGHIÊM
HUYẾT HOA
X.Y.Thái Dịch
Lý Ðông A
Ta
sống cả một muôn năm ở trong ta
Lấy
sức ngầm đó đứng lên chuẩn bị cho thời đại 2000.
X.Y.
Thái Dịch Lý Ðồng A
CHÂN
NGÔN
-Cuộc
Duy Dân Cách Mạng của nòi Việt muốn là một "Kultur
Kampf" cho nhân loại nguyên tắc toàn thế giới.
SỨ
MỆNH THANH NIÊN CÁCH MẠNG:
-Mỗi
thời đại trong dòng sống của lịch sử hoạt động như thế, phải
có một
tuổi ra cầm nắm lấy sức chủ và làm cán cốt cho đời
sống chung hết thảy.
-Mỗi
thế hệ cũ phải biết thời cơ lui về một bản vị có ích
chung. Mỗi thế hệ
mới phải biết nắm thời cơ tiến lên ngôi báu của thời
đại mới mà chỉ huy
và làm tròn sứ mệnh mới.
-Mỗi
thế hệ dự bị phải thâu tóm hết những trí tuệ
và kinh nghiệm cũ; trau
giồi cho mình tất cả những điều kiện cần yếu cho nhiệm vụ tương
lai của
mình, để sắp sẵn ra nối liền dây tiến hóa.
-Chỉ
có thế hệ thực tiền tiến mới đủ đại biểu được tương lai.
-Chỉ
có tầng cấp thực đa số mới đủ đại biểu được dân tộc.
-Tương
lai
tỏ
lộ
trong
óc
mới của thời đại và viễn kiến.
-Thế
hệ của thanh niên và tầng cấp 98% của quốc dân Việt
chính là đáy tầng của dân tộc Việt.
-Phải
nắm giữ lấy sức chủ của cách mạng, điều khiển được sức phụ của
cách mạng, kiến thiết và dự liêu một văn minh mới.
-Lấy
vũ lực ra cứu quốc nghĩa là đem sắt, lửa với máu
mình ra tranh đòi lấy
chủ quyền của tự mình được tự do, dùng ý
chí của mình đối với đất đai,
dân chúng, việc làm, đường đi và vận mệnh
của tự mình. Không đổ máu,
tuyệt không xoay chuyển được thời đại.
CÁCH
MẠNG,
CHÍNH
TRỊ,
LÃNH
ÐẠO:
-Cố
nhiên hoàn cảnh và kinh tế xúc tiến
cái biết nhưng mà cái biết phải
lãnh đạo hoàn cảnh và kinh tế. Lý luận phải
lãnh đạo được thực hành, mà
thực hành phải xúc tiến, chứng minh và tu chỉnh
lý luận.
-Lãnh
tụ
phải
có
ba
đức
tính: Có thể là
nhà lý luận đồng thời là nhà hành
động và nhà tổ chức, không thể thì
không được.
-Nuôi
tâm
sinh
thiên
tài.
Nuôi óc sinh nhân tài.
Nuôi thân sinh nô tài.
-Dân
tộc
ta
cần
những
thanh
niên rất thuần túy và sung
thực, đem ra làm trọn
vẹn hai tầng chức vụ của thời đại là cách mạng và
kiến thiết.
Hình
thức của văn hóa là sự phản ảnh của đời sống hiện thực
xã hội. Nội dung
và kết cấu của văn hóa, tự thân nó là
tổng nghiệp của toàn thể loài
người trong dòng sống xã hội, lịch sử và thời đại.
Lịch sử loài người
chép ngòi bút của máu diễn tiến, mỗi sử
ký lộ ra mỗi đặc chứng văn hóa.
Mỗi sử ký kết tạo bằng một kiến trúc sử của xã hội
và quan niệm về kinh
tế riêng biệt; cái dây nối suốt mỗi diễn tiến của
thời đại, đồng thời
còn là những quy luật dẫn dắt cho sự diễn tiến của thời
đại kia là xã
hội biện chứng. Xã hội diễn tiến theo một biện chứng có
khoa học tính,
phát triển, phát triển mãi; trong hoài
bão của mỗi xã hội thời đại từng
dựng dục cái lý tưởng của xã hội và thời
đại sau, tức là cái kết cấu
hiện thực của xã hội và thời đại sau.
Cách
mạng là công cuộc xoay đổi thời đại trên một giai
đoạn diễn tiến xoáy
trôn ốc có nút đã đến ngày
thành thục của một lẽ sống hàm dưỡng trong
nút bế tắc, cần yếu có một bạo đột thủ đoạn cởi mở cho
dây diễn tiến đi
lên; ý nghĩa và tác dụng của cách
mạng là tu chỉnh và cải tiến xã hội
cho sang được một xã hội hợp lý hơn, hy vọng hơn, được đi
vào một con
đường hợp quy luật, hợp với nguyên tắc tiến hóa, hợp với
tương lai có
dự biết trước có một trông ngóng của lý
tưởng hàm dưỡng tự sâu xa. Mỗi
công cuộc cách mạng sản sinh ra một xuất lộ cho dân
tộc, quốc gia và xã
hội. Khởi điểm của cách mạng đã dựng dục từ trong
bào thai của thời đại
cũ, đó là lý tưởng trong một quá
trình tự nó tiến triển để cho thành
thục, thể hiện thực hoàn toàn và y cứ vào
hiện thực mà phát triển tinh
thần và nguyên tắc với tự do và sản sinh ra một lực
lượng đều hoàn toàn
là kết quả của hiện thực, tức là cái xuất lộ của
quốc gia dân tộc và xã
hội đương nhiên là sự kết hợp của nội tại và ngoại
tại mà thành một
đường lối với một hiệu quả dự cầu.
Cách
mạng
có
văn
hóa cách mạng. Cần phải
có một tinh thần siêu
nhiên và tiềm tàng lãnh đạo loài
người cho kết hợp thành một sức lực để
đợi thời cơ thực hiện lấy lý tưởng và nguyên tắc
của cách mạng. Cuộc
cách mạng 1789 há chẳng phải uyên nguyên
sâu sắc mãi từ thế kỷ XVI, từ
Diderot, Voltaire, Montesquieu, Rousseau mà đi? Thế cho
nên cách mạng
phải có một tinh thần chuẩn bị sẵn, một nguyên tắc tiềm
tàng sẵn, lại
một phong khí tẩm nhuần sẵn, nung nấu sẵn từ chủ quan đến phối
hợp với
thời cơ và kích thích ở bên ngoài
và để nổ bùng ra trên một giai đoạn
đã thành thục.
Xét
nét lại sử cách mạng và đặc chất với đặc chứng
từng thời kỳ giúp ích
cho chúng ta mang khế hợp cái truyền thống của dân
tộc cách mạng với
nhu yếu của ngày nay cho thành một dân tộc chủ
trương thật thích hợp.
Xét nét lại hết cả những hoạt động về lý
trí, ý chí và tình cảm của
cách mạng Việt trong suốt cái quá trình một
thế kỷ nay, tức là xét nét
văn hóa của cách mạng ta giúp ích cho tự ta
kiến thiết lại một văn hóa
của cách mạng đi đôi với dân tộc chủ trương.
Cho
nên tất cả chủ trương của Bùi Viện, Nguyễn Trường Tộ với
dấu tích của
biến pháp vận động phải lục lọi ra. Những văn tập tản mác
của Sào Nam
và Tây Hồ phải sưu tầm lại. Các cuốn "Việt văn
minh khởi điểm sử" và "Pháp Việt đề huề"
đáng cho chúng ta nghiên cứu, phân
tích và bình giải lại. Tất cả những
văn hiến cách mạng và kháng chiến, khởi nghĩa,
Sát Thát, Bình Ngô, Tây
Sơn, Cần Vương vân vân... phải chỉnh lý lại cho
nó một ý nghĩa và giá
trị thích đáng, thu góp lại thành một hệ
thống sử tranh đấu của nước
nòi.
Còn phải
phát quật lên "Anh Khóa" với tất cả
cái linh hồn của xã hội cũ và nông
thôn, biểu hiệu tự cường vận động trong sâu cõi
dân gian, "Chiêu Hồn Nước", "Dạy Con", "Gọi Tỉnh Quốc
Dân"
vân vân... chan chứa những phẫn nộ ái quốc và
những cái tiếc dân tộc tự
sâu trong đáy lòng của dân chúng.
Những ca, vè, dân dao, sấm ký, đào
dưỡng cho lòng người một lý tưởng, một cảm giác
biết bao sâu xa, ngẫm
nghĩ, sáng láng, bởi đấy là những khúc hy
vọng, những khúc đau thương
đọng ngừng lại của cả một thế hệ của lịch sử tinh thần. Những thi ca
diễn giảng trong Ðông Kinh Nghĩa Thục, những chiếu Cần Vương,
phát biểu
tuyên ngôn, những gắng sức của những nhà văn
hóa muốn tái kiến lại cái
mô hình của toàn bộ lịch sử hùng
tráng và vĩ đại của dân tộc ta trong
những cuộc dân tộc tinh thần phục hưng vận động, đó
là những tài liệu
có giá trị mà làm phong phú
cái kho báu của văn hóa chúng ta. Nó
đều là Huyết Thai của văn minh Duy Dân, kết tụ
sâu
sắc trong đáy tầng của đời sống thuần túy quốc dân
không đầu hàng và thỏa hiệp. Nó là Huyết
Thai của con người Duy Dân mới.
Một trăm năm cách mệnh Duy Dân đời nay có một tinh
thần và chủ
trương nhất quán, hằng biểu hiện ra bằng những tượng trưng
nào, ta vẫn
có thể tìm thấy cái dây chỉ đạo của lịch sử
ở trong. Cái tinh thần đó
còn uyên nguyên từ cái để uẩn 5.000 năm
sóng sống của nước nòi, từ đầu
sử đến bây giờ không dứt đấu tranh bằng dân tộc
cách mạng Duy Dân xiển
dương cái tinh túy ấy ra đem tiếp hợp lại, lại cái
truyền thống Tổ Tiên
với tinh thần của hiện đại, hoàn thành một cách
mạng chủ nghĩa và cách
mạng văn hóa cho dân tộc trên con đường đi lịch sử
và mức tiến.
Tất
cả học thuật, văn hóa và nghệ thuật liên hợp lại
thành một trận tuyến
tinh thần, xiển phát những lý tưởng tình tự
và ý chí cách mạng sáng tạo
của dân tộc, bằng huyết tính và sử tính tiến
hành một khúc nhịp Vạn
Thắng với thời đại.
Tất cả học thuật,
văn hóa và nghệ thuật gắng sức đi tìm một nội dung
và hình thức kết hợp dung hòa hai cái
lý tưởng "hiện thực" hoàn thành một
mô hình của văn hóa tương lai cho dân tộc.
Vài
nét nguệch ngoạc đó đã vẽ xong cái Nụ
Máu của văn minh mới của Duy Dân đợi khai hoa.
Thích Ca
đã giác ngộ những nỗi khổ, sống, chết,
bệnh, già của toàn
thể chúng sinh và luật tàn ác vô
thường thành, trụ, hoại không (sanh,
trụ, di, diệt) của vũ trụ. Thích Ca bằng một ý chí
không thầy và tự
sức, tự lòng đại từ bi, nhân ái, vô hạn
lượng, phát nguyện lớn lao cứu
vớt cho toàn thể thế giới không trừ thai sinh, thấp sinh,
noãn sinh hay
hóa sinh.
Thích
Ca đã lịch lãm trong ngoài Bà La Môn
giáo. Thích Ca đã đau thương cái
truyền thống giai cấp, chia rẽ và đè nén của
Aryen, say sưa cứu vớt
chúng sinh bắt đầu từ làm cho Ấn Ðộ toàn
dân được chân bình đẳng, chân
tự do và chân thân ái.
Thích Ca
đã băng mình khỏi nơi cao quý: Ta không
vào địa ngục, ai vào địa ngục? Không vào địa
ngục sao cứu vớt được chúng sinh?
Thích
Ca đã bảy năm trường tịch mịch dưới gốc Bồ Ðề, nan
hành khổ hạnh khôn
bằng và Thích Ca trong một đêm đã triệt để
giác ngộ.
Thích
Ca từ đấy chân đất, hở vai, cầm bát lang thang suốt
cõi, xin ăn, thuyết
pháp và thu thập đồ đệ. Hoa Sen không mọc
trên núi cao. Chỉ có giai cấp
Paria mới kiến thiết được Phật Giáo. Những giai cấp được ưu
đãi không
thể bàn nghị tới được.
Cuộc
Xã Hội cách mạng đó, trước đi bằng triết học
và tông giáo Thích Ca đã
chối bỏ hết luận sự thế tục và xiển phát Bồ Ðề
lớn.Ôi! Hết thảy Ma giới
ví như Phật giới nhất như! Sự cởi mở hết tấm lòng chấp
trước (đắm đuối)
của mình là công việc phải trừ hết nhân
duyên, phiền não; quân địch
chính của ba giới (sắc giới, vô sắc giới, dục giới) vạn
pháp duy thức
là vô minh.
Chỉ
có giác ngộ Ðạt Ma mới có thể mang đến cho mọi
vật một sinh mệnh. Chỉ
có lý tưởng niết bàn của đất tịnh, trang
nghiêm thường sáng, trong đó
là sinh mệnh của toàn thể được thương, được vui, được
sạch và được chân
chính chứng quả thấy cái tính A Di Ðà
(vô lượng thọ, vô lượng quang).
Hết thảy chủng tử của Ba nghìn nghìn thế giới sẽ biến
thành Ba Nghìn
Nghìn thế giới Hoa Nghiêm cõi Tây.
Tất
cả các Pháp với Tướng, Sức với Tâm không
lúc nào không trong sự vận
động biến đổi và chối bỏ lại tái sinh của biện chứng
pháp không có, có không
mà phát hiện ra chân như và như lai,
không đi, không lại, không diệt, không sinh,
không nóng, không lạnh.
Tổ
chức của cuộc cách mạng bằng tông giáo đó
là y cứ vào nguyên tắc tuyệt
đối chối bỏ. Xuất gia là sự phản kháng hết, hết những
đè nén, tham, si,
giận, dữ, chấp trước của tại gia, của tư sản. Tất cả những người xuất
gia dưới sự lãnh đạo của Tam Bảo: Phật lãnh tụ,
Pháp chủ nghĩa, Tăng
cán bộ cùng xum họp nhau bằng nguyên tắc
Hòa, hỗ trợ, hợp tác và thống
nhất dưới những tu dưỡng của Ðộ (Lục Ðộ): bố thí,
trì giới, nhẫn nhục,
trí tuệ, thiền định và tinh tiến. Tất cả những người ấy
thành chứng là
những người từ Ðại Bi mà Ðại Giác, Ðại Nguyện
mà đi đến Ðại Hùng, Ðại
Thế mà phát dương Ðại Ðạo. Những con người ấy
có kinh, có luật và có
luận chỉ đạo cho họ hết từ xử thế ra xuất thế. Lòng nhân
ái của họ đã
thay đổi hết Ấn Ðộ tư tưởng, tu cải hết khoa học và triết
học cho Ấn Ðộ
của động và tiến hóa.
Thích
Ca trên hội Pháp Hoa đã thụ ký cho
muôn ngàn Phật tương lai và đã dự
báo Di Lặc sắp tới đến để làm một công việc của
Ðại Giác trong hội Long
Hoa ngày mai. Tất cả chúng sinh theo một nhịp tiến
hành khúc mà cùng
lên Bỉ Ngạn, hết hết đều quy về Như Lai tạng, nhưng mà
Phật có độ ai
không? Phật không độ ai hết, chúng sinh tự độ lấy.
Phật có tịch diệt
không? Phật không tịch diệt. Pháp thân của
chân như là thể vận toàn vũ
trụ.
Ví như thế,
Phật là Tổ đã chứng tam muội, tam Bồ Ðề đệ nhất Thắng
Nghĩa bất diệt và ấn chứng.
Dân tộc Do Thái con cháu Abraham đã
giác ngộ "NGƯỜI"
là một thể, thế giới là đại đồng. Cái tinh thần ấy
không lấy gì mà
tượng trưng được, phải gọi là Chúa Trời. Chúa Trời
là thực thể của muôn
ngàn Chúa Trời vô thượng và vô nhị.
Vô thượng cho nên thắng được hết
thảy ác thế lực, vô nhị cho nên thắng được hết chia
rẽ. Chúa Trời có hỷ
để mà sinh, có nộ để mà chiến tranh. Chúa
là tối cao của lý tưởng của
tự do, bác ái và bình đẳng. Chúa
là thực thể của lý tưởng đó và đòi
phải đấu tranh, cho nên Thánh Linh là cái
trí tuệ đại giác nối liền
Chúa Cha và Chúa Con. CHRIST, cứu thế chúa,
kẻ vâng theo chủ nghĩa mà
thực hành tuyệt đối đạo đức.
Và
dân tộc Do Thái đã được lãnh đạo trong
các cuộc cách mạng dân tộc, cách
mạng chính trị, cách mạng Câu Rút là
siêu thanh của 89 và 17. Sự thờ
phụng đấng tối cao và lý trí trước bàn thờ
Tổ Quốc đã cảm chiêu nên lá
cờ ba sắc. Bây giờ đây không phải là
lúc chúng ta chiến tranh với tâm
ta hay óc ta mà là lúc chúng ta
chiến tranh với hết thảy những thế lực
đen tối trong xã hội. Ðấy là lá cờ Búa
Liềm.
Mahomet
càng làm cho học thuật Cơ Ðốc nhất nguyên
hóa. Cơ Ðốc truyền vào sa mạc
Ả Rập đã đem cho dân chúng ấy cái khí
vị hơn đời. Al Coran nộp công hay
thanh gươm vết anh hùng ngày nay còn đó.
Thế nhưng
giáo quyền đã bôi nhọ Câu Rút. JESUS
có muốn đâu Tông Quyền chính trị? JESUS
có muốn đâu?
Người
ấy là người đầu nện gót ra cứu đời. Vũ trụ đối với người
ấy chỉ là một
thể hệ của thực dụng lý tắc, có ý nghĩa giá
trị và hiệu dụng thực tiễn
cho loài người, cho số đông nhiều nhất trong loài
người, cho những
người vất vả làm lụng để tìm kiếm ăn mặc cho xã
hội. Những thứ ấy và
chỉ những thứ ấy là hợp với quy luật tự nhiên và
đúng với ý chí nhân
đạo.
Nó
cũng là một chế hạn của hoàn cảnh đời sống dân
Tàu muốn rằng giai cấp
trung dung sẽ tập đại thành lại mà làm Tông
Chủ của lịch sử "vạn thế chi vương".
Mặc Tử đối đầu với Dương Chu chỉ là cái tổng hòa
của những mồ hôi róc
rách chảy vào những tấm lòng nói tiếng của
lao động giả. Mặc Tử là đại
biểu trong đấu tranh xã hội của giai cấp ấy rất thích
đáng với giai cấp
của mình, thời đại mình.
Sự chia rẽ của
Chiến Quốc là ở cái lũng đoạn của các hạng người
đặc quyền. Như nếu người ta biết "thượng đồng" thế giới mới "đại
đồng" được. Người ta có mang ra thực tiễn "kiêm
ái" thì loài người mới thực "thân
ái" được.
Chiến tranh phải
tiêu diệt bằng tiết kiệm công thế, cũng có thể ứng
dụng nguyên tắc đó vào kháng chiến được để
đi đối với "phi công"
nghĩa là lợi thế giữ tích cực. Tất cả các giai cấp
đặc quyền phải bỏ
hết những phù hoa, xa xỉ và phù diễn để đem đời
sống lại cho ngang với
dây thủy bình của đại chúng. Những bất bình
của xã hội phải phá tan
bằng nhân ái hay bất đắc dĩ bằng thủ đoạn vũ lực của
nhân ái. Mặc Tử để
cứu sống, đã đi bộ suốt đêm ngày, mười buổi sang
Sở, mang trí thức và
học vấn xác thực của mình về tự nhiên với
máy móc ra phá tan súy đồ của
Sở trước, mang tinh thần hy sinh của tự mình và học
trò ra tiêu diệt
tai vạ của chiến tranh sau. Chỉ có hy sinh và chiến tranh
để tiêu diệt
chiến tranh, chỉ có lý tưởng tối cao, chân, thiện,
mỹ, kỷ luật và hiệp
nghĩa ra phá tan được bất bình.
Chỉ
có sự vất vả bằng độc lực với tinh thần mạo hiểm biên
thú và sáng tạo
khi tự tỉnh lại mới thể nghiệm thấm thía được biểu hiện quyền
sống còn,
độc lập và tư cách sống còn, chính nghĩa
thật đúng đắn. Quyền ấy và tư
cách ấy mới làm nên một chế độ tự do và
dân chủ được, phồn thịnh được
bằng mang sự vất vả ấy ra áp dụng vào công cuộc đấu
tranh cho cái lý
tưởng đã thể nghiệm được đó.
Một
văn minh mới như đóa hoa tươi tốt và to tát sẽ nở
bùng ra. Ví như thể
đất Mỹtrải qua một thời nòi giống xâm lược, máu
và nước mắt, xấu ác hôi
tanh ở trên mồ đống đã nở ra đóa hoa tháng
Năm. Đóa Hoa Tháng Năm đó đã
sum sê phủ kín cái mồ đống tội ác lịch sử
kia. Đóa hoa ấy bón tưới bằng
những chất tố lịch sử của mồ đống đó. Tội ác của thực
dân phải đền bù
bằng mọi sự hối hận thầm kín nơi đáy lòng.
Có khi người ta phải tự
trừng phạt mình cho khỏi lởn vởn cái hình
bóng tối tăm của tội ác c ứ
lởn vởn mãi trong hồn. Đó là trường hợp của 1865,
Nam–Bắc chiến tranh
cho cái lý tưởng cởi mở dân tộc da đen.
Cuộc
chiến tranh ấy gọi là phân liệt (sécession)
thì chửi rủa lý tưởng lịch
sử quá. Cuộc ấy phải là thần thánh chiến tranh,
thuần vì lòng yêu
thương và nghĩa công đạo. Cuộc ấy phải là vị tha
chiến tranh, không tư
lợi và không vị kỷ.
Đóa
Hoa tháng Năm trong màu đỏ của nó sở dĩ đỡ hoen ố
mà thêm đôi phần tươi
hồng là nhờ ở 65. Người ta thấy hối hận đau thảm khi nhắm mắt
lại tưởng
nghĩ, tức gia ản, còn đau thảm hơn khi bừng mắt ra trông
xét; người ta
thấy phải không tiếc một cuộc chém giết ruột thịt để
xóa nhòa trong
hăng hái cái vết đau tội lỗi gia truyền đi, chem. giết
ruột thịt để rửa
sạch những bướu nhọt còn di độc lại trong huyết thống sinh sống
dạt dào
nó nối liền nòi giống tới tương lai. Dòng sống
phải trong sạch thì đời
sống mới được an ủi trong linh hồn, hết cả những lởn vởn của hối hận,
đau thảm và tối tăm, đời sống mới có hạnh phúc
và hòa bình thật chân
chính. Loài người muốn hết chiến tranh phải nhắm mắt lại
rồi bừng mắt
ra bằng cuộc chiến tranh sau rốt là cuộc phán quyết sau
cùng, phải đánh
giết ngay tự mình nếu tự mình có tội lỗi. Như muốn
còn có chiến tranh
phải ca tụng những cuộc chiến tranh thần thánh vị tha như thế ấy.
Kant
là người hy vọng và thất vọng cuộc 1789. Trong cái
hy vọng của Kant với
loài người mà Kant đại biểu, tỏ lộ ra rõ rệt
cái lý tính thực tiễn sẵn
có, cần có và phải có cho 89. Ba cái
luật lớn của luân lý, hợp lý chủ
nghĩa: "Phải coi tự mình là mục đích, tuyệt
không phải coi là thủ đoạn",
như thế tự mình với đời sống, tự mình là thực thể
của cái lý tưởng
trong thuần túy lý tính hiện thân trên
thế gian. Phải làm cho tự mình
và đời sống tự mình thành một mục đích của
cái lý tưởng đó.
Như
nếu coi tự mình là thủ đoạn thì người khác
và tất cả loài người, mình
cũng chỉ là thủ đoạn bên ngoài tự mình
mà thôi. Phải cả người khác với
loài người đều là mục đích, người đứng trước người
là thần thánh. Thần
thánh là đại biểu của lý tưởng, là
hình tượng của cao cả lý tưởng, cao
cả tuyệt đối, là thật, là lành và là
đẹp. Phải coi tự mình là một vật
mình phải thờ phụng và nâng lên thật
lành và đẹp, đối với người cũng
như thế.
Nhưng
mà lý tưởng đó vào đời phải trải qua đấu
tranh, sự đấu tranh để thắng
cả tự mình với tất cả những ác thế lực nữa thì sự
đấu tranh đó nổ bùng
bằng sự phá vỡ Bastille, kiến trúc của phong kiến,
chuyên chế, bất đạo
đức và bất bình đẳng. Bastille là tượng trưng của
tội ác. Phá vỡ
Bastille là làm thức tỉnh toàn thể dân
Pháp với tất cả gậy gộc, sẻng,
cày ra hoàn thành trận Valmy đuổi hết xâm
lăng.
Cái
khí thế của nó sinh ra Napoléon. Cái
trí tuệ của nó cải biến hết thảy tư tưởng và chế
độ trên thế giới.
Trước
bàn thờ Tổ Quốc, thờ sùng phụng đấng tối cao và
lý tính, việc đó cắt
nghĩa hết cả, việc ấy là nhân đạo chủ nghĩa của lý
tính chủ nghĩa và
dân tộc nguyên tắc của lý tính chủ nghĩa. Tổ
Quốc đây phải trở về cái
thực thể của đời sống quốc dân trên huyết tính của
Lý là lý trí của
khoa học mà đối với xã hội là lý
tính của đạo đức.
Dân chủ phải
xây đắp lại trên nền tảng chân chính ấy.
Nhân quyền
hiến chương phải có bảo chướng bằng tự đời sống tinh thần
và vật chất của mỗi người trên tất cả mọi người.
Có
những tấm lòng thuần nhân ái to rộng và lớn
lao, nồng nàn và chân thật,
cũng không phải là lối từ thiện, cũng không thể đem
mua bán ngoài chợ
được, ví như khó mà tả cho ra, vì đó
là biểu hiện của Phạn (Brahma)
không bờ, không bến, cùng trước, cùng sau,
Phạn từ bi và hỷ xả. Cho nên
Gandhi là Mahatma, là Thánh Hùng, là
kỳ nhân đời nay ví như Messie của
Ấn Ðộ. Thánh Hùng là lịch sử một muôn
năm của Ấn Ðộ trong dòng sông
Hằng Hà kết tập tất cả tinh thần sống mà nặn nên.
Phải hiểu Gandhi bằng
hiểu dân tộc tính của Ấn Ðộ. Cho nên hơn 300
triệu người Thiên Trúc
ngày nay thiếu Gandhi không được.
Lịch
sử phải nối tiếp nhau liên tục bằng những nút người thuế
biến như thế.
Nếu nói Gandhi là hiện thân của hết thảy những
khuyết điểm và nhược
điểm của xã hội Ấn (Nehru) thà nói đời sống
và con đường trường với
bước đi lịch sử xã hội Ấn phải lấy Gandhi làm cầu nối
mà chuyển sang
điển hình của Nehru. Sự tiến hóa loài người
đích xác phải diễn bằng cái
trật tự đó nó đầy đủ biểu hiện mỗi đặc tính
dân tộc và đặc điểm phát
triển như vậy.
Thánh
Hùng là người lý tưởng đất sạch thường trong
sáng của tất cả đời sống
nông nghiệp và phong kiến tỏa thoát lên như
ánh trăng sực có hơi thu
vậy. Mục tiêu, lý tưởng chính trị của Gandhi
là do quan niệm Vệ Ðà đó
góp thành, không thể để cho những nhà
chính trị đời nay và khoa học
khâm phục được. Nhưng Gandhi với lý tưởng chính trị
lờ mờ như thế càng
tỏ rõ cái địa vị lịch sử và sứ mệnh tinh thần của
mình. Cương lĩnh
chính trị nào mặc dầu hay, hay dở cho tương lai người Ấn
là do Nehru
cả.
Nòi
giống Phật không có sát sinh thực từ lòng tự
nguyện mà ra. Gandhi dùng
thủ đoạn hòa bình và tiêu cực, bất hợp
tác (1925), bất bạo động (1939)
thực từ ở đó mà ra. Tự xả và tuyệt thực là
vũ khí chính trị của ông. "Tự cấp"
và "tự tạo"
là công cụ kinh tế của ông; quân địch
thù là tính hiếu chiến ở trong
lòng ông và nòi giống ông. Trong
Gandhi, mục đích cho hết thủ đoạn, thủ
đoạn ấy phải là mục đích nhân ái trùm
hết chính trị, tinh thần trùm hết
lịch sử và lý tưởng Brahma trùm hết tương lai.
Ðịa
vị của Ấn Ðộ và tiến triển của Quốc Dân Hội Nghị Ấn
Ðộ chỉ là sự nghiệp
của cái sức cảm hóa và khải dịch lớn lao bằng linh
hồn của Gandhi mà
thôi, tất cả qua đại đa số quần chúng vô luận phải
biết đều thống nhất
thành một khối dưới sự lãnh đạo tinh thần và thanh
khiết ấy. Sự vu miệt
Gandhi là độc tài chỉ là sự chứng minh cái
quyền uy vô thượng của đạo
đức. Gandhi chỉ có tự tỉnh, tự hối và tự trừng mà
thôi. Gandhi không
tranh giành vu miệt và lừa dối ai hết. Cái phong
cách ấy đáng nói
Gandhi là lãnh tụ của hết thảy lãnh tụ, như
Thích Ca là thầy của hết
thảy các thầy, như Christ là chúa của hết thảy
các chúa đó vậy.
Lịch
sử cách mạng Ấn Ðộ là lịch sử riêng của Gandhi.
Cuộc đấu tranh lớn lao
kia cả hàng ngũ năm năm tề chỉnh nên, tự xả và hy
sinh với quân thù
địch đế quốc chủ nghĩa mạnh ác và bền dẻo nhất thế giới,
biết bao nhiêu
máu lệ đã đổ cho Swadeshi (độc lập vận động) và
Thánh Hùng cho tới hiện
nay đang trầm ngâm trong hy sinh một cách thần
thánh.
Chỉ
có nan hành khổ hạnh mới có thể cứu sống được đời.
Chỉ có trở về đời
sống dân chúng mới có thể phục hưng được dân
tộc. Chỉ có lòng nhân ái
vô biên của Phật lý tưởng mới có thể an ủi
và tế độ được hết chúng
sinh. Thánh Hùng còn sang sảng nói: "chúng
ta
phải
tự
sức
một
mình
đánh với toàn thế giới để cởi mở cho tự dân tộc
chúng ta, còn để cởi mở
cho cả dân chúng bị áp bức toàn thế giới,
không những thế mà lại cởi mở
cho cả dân chúng nòi giống da trắng, họ cũng bị khổ
nạn không phải
không là không".
Brahma
cùng với hết thảy Ma ác đấu tranh. Ấn Ðộ và
thế giới là địa ngục vô
cùng đau thảm. Brahma phải đấu tranh và đau khổ nhưng vẫn
tin chắc
rằng: "Thế giới một ngày kia sẽ biến thành cõi
sống trang nghiêm, đó là bình đẳng ở trong
bao gồm cả Ma ác cũng được yêu thương nữa".
Ma với Phật
là một. Gandhi là như thế và có tấm
lòng nhân ái thực, nào ở đời phải lấy Gandhi
làm thực cứ.
Loài
người là cõi Tinh và Ma thống trị, Phật tự trị.
Phật với Tinh và Ma đấu
tranh không dứt ở trong đau khổ không bờ bến, nhưng
mà Phật, Tinh và Ma
là thể thống nhất trên chế độ của loài người.
NGƯỜI, người khi bị đè
nén, đau khổ, tự tỉnh lại và trở về nguồn gốc sinh mệnh
và lý tưởng cao
cả trong giác ngộ lớn lao, đó là Phật.
Người
khi hút máu người, đè nén người, mê
ly trong cõi điên cuồng của dục
vọng không chán, đó là Tinh và Ma.
Thế giới lúc nào cũng tối đêm vì
loài người bao giờ để mà sống, còn cần phải,
còn bị thống trị. Thống
trị ví như màn đen, chăng lên bao phủ hết cả cho
đen tối. Ở dưới cái
màn đen đó chỉ có những mùi hôi tanh,
xương máu, mồ hôi đẫm với lệ và
tất cả những cái hư nát. Loài người cần ánh
sáng và thanh thoảng đó. Sự
đấu tranh giữa Tinh và Ma càng làm cho ảo
não và đen tối. Chỉ có cuộc
thánh chiến giữa Phật và Tinh, Ma khi thắng mới mang được
đến ánh sáng
và thanh thoảng cho loài người.
Sinh
mệnh của toàn thể loài người là chế độ người đi
đôi với bối cảnh của
chế độ Phật hay Tinh hoặc Ma. Loài người hiện nay đang trong
cuộc hỗn
loạn giữa Tinh, Ma và Phật đó. Ðêm tối đang
giày vò và hôi tanh đang
sặc sụa mà lý tưởng nghĩa là ánh
sáng và thanh thoảng thì thật xa vời.
Sao cho chóng đến ban mai. Sao cho chóng đến ánh
sáng và thanh thoảng.
Cầu khẩn đi! Nhưng cầu khẩn là hèn nhát.
Tìm tòi đi. Nhưng tìm tòi là
dò dẫm. Ðấu tranh đi. Chỉ có đấu tranh mới giải quyết
được lý tưởng.
Sự
cải tạo làm lên trên thối nát, hôi tanh
và mục đổ. Phật ở trong đó mà
ra, rạch hết thối nát hôi tanh và mục đổ mà
mọc lên đóa hoa Sen của lý
tưởng đầy Chân, Thiện, Mỹ, chọc màn đen ra bằng đấu tranh,
hy sinh và
vun bồi mà đưa hương thơm, ánh sáng và
gió thoảng lại. Chỉ có ở dưới
đáy bùn mới ươm giấu sẵn những chủng tử của Phật
đó. Tinh và Ma tất
cánh là sức trên mặt tầng.
Các
nòi nước nhỏ yếu và giai cấp bị đè nén,
toàn loài người đã đến lúc đoàn
kết, sự tìm tòi tự muôn đời đến nay đã
ví như hạt giống ươm trồng chồi
nẩy, màn thống trị bùng nhùng để lộ ánh
bình minh. Ánh sương mai đã róc
rách suốt cõi tự trong đáy lòng người cho
đến suốt cảnh vật, hết thảy
đượm cái sinh khí mới mẻ đó, như tỉnh lại
và phải bồng bột.
Ánh sương
mai đã thấm thía ánh bình minh lóng
lánh, sóng tân sinh đương dào dạt khắp
lòng người. Ðấy là trẫm triệu của Di Lặc.
Từ
không trước đến không sau, từ nhỏ tắp đến to ngời
toàn vũ trụ cấu tạo
bằng vật chất. Cái cực chất tinh diệu đó là tự kỷ
nguyên nhân cho một
cuộc vận động không dứt xoáy trôn ốc trong đường
trường vận động đó
bằng mỗi nền tảng của gặp gỡ và mỗi điều kiện của thế
thái mà tom góp
nên muôn vật. Loài người là do cái bối
cảnh của vận động đó mà kết
thành.
Hãy
nhắm mắt lại, trở lại tự mình, xem cái sinh mệnh của tự
mình tất thấy
cả cái kết hợp và vận động đó, xem tất cả
cái sinh mệnh của loài người
trước mặt và xem tất cả các sinh mệnh của lịch sử
muôn năm đã có đến
ngày nay. Một luồng sóng máu trào dồn dập
và bát ngát vỡ tóe tung bao
nhiêu máu, óc, mồ hôi và nước mắt.
Cái luồng sóng trào đó gọi là
dòng
sống, có cơ thể, mỗi đời thoát xác mà
chuyển đời đời. Bao nhiêu đau
khổ, chỉ thấy đau khổ và chỉ còn rớt lại đau khổ trong
cái vạch hướng
thượng của đời sống đó. Loài người thể nghiệm thấy sinh
mệnh của mình
phải không dứt chắt ép để làm trọn thăng hoa đời
đời hướng theo cái lý
tưởng cứu cực không dứt đấu tranh và chịu đau khổ.
Vì chỉ có đấu tranh
và đau khổ mới là hiện thân của lý tưởng.
Lý tưởng là thể số học của
sinh mệnh trong tác dụng thăng hoa, tất cả những cố gắng
tính, tâm,
thân, mệnh, trong đường lối đó gọi là thực hiện.
Loài
người là vật của chân lý, của tinh thần.
Dòng sống không dứt tiến hóa
để mong đến cõi thành tựu là cõi nhất như.
Cái cỗi tội (péché original)
của loài người là ở nơi đó mà lòng
nhân ái cũng từ đó mà có ra.
Loài
người trong mục đích chủ quan của mình, cái
tiêu chuẩn là phải thắng
khách quan mục đích của tự nhiên; hãy
trông trong con mắt người mù
không dứt ngẩng lên nơi chúa mà đi (Byron);
cái hình ảnh của loài người
trong tiến hóa cũng hệt như vậy. Mù nhưng mà phải
sống, con mắt tối gầm
nhưng trong là sống, và thể sống, người mù tự thấy
mình cũng có một mục
tiêu trong đời, người mù kém cỏi và
tàn tật hơn hết nhưng mà bao giờ
cũng hy vọng ánh sáng của nắng, người đó
không thấy bằng mắt, nhưng mà
trông thấy bằng lòng. "Hy vọng là mẹ hết tư
tưởng" (Tolstoi).
Ấy
thế cho nên "tin thờ là mẹ đẻ của hết thảy công đức
cho cõi đạo" (Hoa
Nghiêm Kinh). Cái tin thờ là chất tố của hy vọng.
Từ tin thờ mà sinh ra
hết tội lỗi với đạo đức, sinh ra hết cái đáng yêu
và đáng ghét.
Người
ta chỉ có thấy bộ mặt đáng ca, đáng khóc,
đáng khâm, đáng sợ của hy
vọng, tin thờ và lý tưởng trong đau khổ, thất vọng
và thất bại. Vì đau
khổ, thất vọng và thất bại là ba mặt biểu hiệu của chiến
đấu đang tồn
tại đang sống. Phải tương lai đắc thắng, dù sao cũng là
bộ mặt xấu ác
của tội lỗi. Cho nên hãy xem, hãy trông một
thân con người phải quỳ
gối, cúi đầu: đừng xem, đừng trông, đừng để ý đến
quỳ gối cúi đầu, hãy
trông vào con mắt của người lúc ấy, đó
là hình tượng của bao nhiêu thê
thảm của thê thảm, của bất đắc dĩ, của khổ tâm.
Ừ,
mặc dầu con người ấy là gian, là ngay, là tội,
là oan. Gian, ngay, oan,
tội, không xá kể gì, chỉ kể con mắt đau thương
làm nẫu hết thế gian,
chỉ kể con mắt đau thương ấy nó tả hết hình ảnh
chân thực và lịch sử
loài người đời đời.
Cho
nên không thể ca tụng được những cái xưa kia của đắc
thắng nếu cái đắc
thắng ấy không phải là cái đắc thắng của buồn rầu,
đồng thời chỉ có thể
ca tụng được những cái đắc thắng không tội lỗi, cái
đắc thắng thuần túy
trên loài người không chia thắng với bại,
không chia phải trái với
người ta nữa, cái đắc thắng vô ngã nó
làm muôn nghìn nghìn hết thảy
không sót một chúng sinh nào còn "mắt
mù
và
mặt
cúi" nữa. Có
thế lịch sử mới đến đoạn chân thật của lý tưởng và
loài người mới đến
đời sống chân đại đồng: cái đắc thắng của yêu
thương.
Trời
ơi ! Ta đã đi đến bờ cõi của tông giáo.
Không yêu thương là tông giáo
tranh đấu; văn nghệ, tông giáo, triết học và khoa
học chỉ còn là một
thứ văn nghệ nhiều mặt của yêu thương. Lịch sử chỉ còn
là thứ văn nghệ
của yêu thương tranh đấu có sự thực. Yêu thương
là của nhân đạo. Nếu
bảo rằng yêu thương là của thần thánh cho ta một sứ
mệnh; nếu nói rằng
yêu thương là luật hấp dẫn chung của vũ trụ, ta đều
không thể tin được
yêu thương là thể chỉ có thể coi được như một "bản
ngã" của sinh mệnh loài người, cho đó
là một công năng đặc thù tiến hóa hơn
và lý tính hóa của loài người.
Nhà
văn nghệ phải phát thệ cái yêu thương; yêu
thương là huyết tính của
loài người. Nhà văn nghệ phải thể nghiệm được yêu
thương trong sinh
mệnh lịch sử, hiện tại và tương lai trong loài người,
trong sống thật,
sống máu và sống đấu tranh của loài người.
Nhà văn nghệ phải ca tụng
những cuộc đắc thắng vô ngã.
Thế
cho nên nhà văn nghệ phải là của dân
chúng, phải trở về bình dân, phải
là phần tử bình dân, còn phải là
người tin thờ bình dân, đấy là toàn
thể cái hiện thân của yêu thương, hy vọng, tin thờ
lý tưởng đang tranh
đấu phải "mắt mù", "mặt cúi". Nhà văn nghệ
không làm "mõ chợ" được, văn nghệ
không thể làm tiếng "chó sủa" được
(Shelley), đồng thời không thể làm đồ đùa cho giai
cấp độc quyền (Tolstoi), cũng không thể làm "đồ chơi
của bọn tục". "Nó là tiếng đau khổ thực ảm đạm và
nghiêm nghị"
(Chu Xuyên Bạch Thôn). Bỏ loài người ra, văn nghệ
không có giá trị gì
hết, nhưng bỏ đa số loài người ra với bỏ lòng yêu
thương vô ngã ra, văn
nghệ không thể có một giá trị thích
đáng. Nhà văn học phải là một "giáo sĩ
tiên tri và dùi mài" (Fichte). "Phải
thổi tiếng kèn đánh thức lên" (Shelley). "Phải
làm
sao
cho
loài
người
tự hiểu mình, tự tin
mình và càng khát mơ chân lý" (
Gorky
).
Thế
cho
nên
"văn nghệ là lương tâm của
loài người" (Herbert).
Cái
lương tâm và việc đánh thức chỉ có thể bằng
yêu thương đang đau khổ
trong vật lộn. Muốn được thế, văn nghệ phải vô ngã
mà không còn chấp
trước nữa. Văn nghệ còn là hình thể của lý
tưởng, cho nên văn nghệ tự
thân cũng phải lành, đẹp và thực. Lành
và thực không hỗ giải được cho
có một tiêu chuẩn đúng đắn, chỉ có đẹp biểu
hiện được rõ ràng giá trị
nhất.
Cho
nên văn nghệ là hình tượng, cảm tưởng và
tượng trưng. Ðẹp phải biểu
hiện độc lập và thuần túy trên hình thể
và mầu sắc, đẹp phải trình bày
cái độc đặc của nội dung, "chỉ có thực chất sinh ra
hình thức"
(Goethe). Văn thể phải là sự tỏ lộ của nội tâm người cầm
bút ( Gorky ).
Mỗi bức vẽ phải là một vở kịch một màn, cái diễn
trình phải chú trọng
trong sắc vận. Khó có thể tìm thấy trong những
nhà văn hào lớn lao như
Balzac, một nhà tả thực chủ nghĩa hay lãng mạn chủ nghĩa
(Gorky), vì
văn nghệ chỉ là sinh mệnh phô bày ra (Herbert)
và loài người trong đời
sống cũng như không ỷ vào lý tưởng thì
không thể nở hoa được (Thạch
Xuyên San Tứ Lang), đó là sứ mệnh thực hiện chủ
nghĩa, đó còn là cách
mạng lãng mạn chủ nghĩa.
Văn nghệ là
hoa của đạo lý, huyết hoa. Văn nghệ phải là sống.
Hãy
mở cửa sổ ra cho ta hít hơi thở của không khí anh
hùng (Romain
Rolland). Phải phá tan màn tối ra cho ánh
sáng, hơi thoảng chiếu vào
phát nhiệt cho loài người khỏi tăm tối, cho hạt giống của
hoa quý từ
dưới thối ra, mục nát, bùn lầy, hôi tanh, đượm hơi
sương mai và không
khí sáng mà nở lên trái quả tươi
màu.
Nếu loài
người duy vật thật, tất không có văn nghệ, chỉ có
khoa học của vật chất luật tắc.
Nếu loài
người duy tâm thật, tất không có văn nghệ, chỉ
có tông giáo qua thần thức.
Văn nghệ là chủ của thời đại mới dẫn dắt loài người bằng
phương pháp ý thức của tự loài người.
Văn
nghệ không phải là thượng tầng kiến trúc, chỉ
là dưỡng sinh nền tảng
của mọi người. Cho nên Lễ Nhạc chính trị là phương
thức chính trị của
Nho duy sinh. Lễ Nhạc phải phát xuất tự nơi dân
chúng và sống thật mới
được.
Lễ Nhạc (một trong
văn nghệ) phải chính trị hóa, hơn nữa là
giáo dục hóa. "Một văn nghệ nào, nếu
không lấy đạo đức hóa lý tưởng và thực dụng
làm mục tiêu chỉ là một thứ sống bất lương
và bệnh thái".
Nhưng
mà văn nghệ không thể ở bọn quan liêu, chính
khách và nhàn tản theo đòi
được. Văn nghệ phải để cho yêu thương của lý tưởng
có tranh đấu chủ
trì, văn nghệ là của dân chúng mới được.
Người
ta đã tốn bao nhiêu lời lẽ ca tụng những cái lớn
lao của thời Tam Ðại
nước Tàu cùng các cuộc 89, 17 của Pháp với
Nga. Sau cuộc Phục Hoạt cổ
điển Âu Châu, người ta đã đặt hai thời kỳ đó
làm khuôn mẫu thế giới sử
trên nhân loại học. Từ nhân đạo thành lập đến
nhân đạo tăng tiến, chúng
ta ước ao loài người bước lên một bước thứ ba để ổn định
cái văn hóa
hòa bình của nhân đạo thực thể. Hai thời kỳ
trên tuy nhiên trong hành
trình của nó dắt theo bao nhiêu những hắc muội của
dã man cùng cực làm
cái hối hận ray rứt của tâm hồn ảo não cho đạo đức
của Sử.
Một cái văn
hóa trùm lấy cả Á Ðông "Tiền
nhân chủ nghĩa" thực hành chính trị tối khoa
học của nông nghiệp và âm dương học trên "chữ
Lễ" suy động bởi một cơ trí "Thiên Triều chủ
nghĩa", "Hán tộc thiên hạ chủng tộc đế quốc chủ nghĩa"
đem kết tinh hết cái cực thiện và cực mỹ vào một
công cụ "Phong Thiện"
để diệt chủng bốn chung quanh. Chúng ta còn được thừa
hưởng cuộc đấu
tranh thất bại của tổ tiên ta với nòi Hán,
cái vết máu nhơ nhớp và cột
đồng Mã Viện.
"Ðồng Trung Hoa
đến mang làm cột".
Lại
bây giờ người ta công kích cuộc 89 chỉ là sự
cấy mạ của giai cấp phú
hào. Nếu lấy con mắt thiển cận của biện chứng duy vật mà
xét thì người
ta cho thế là phải. Nhưng lấy con mắt công chính
lịch sử nhân loại tập
trung mà nói, nó chỉ là cuộc vật lộn của
chân lý. Sự chiếm lĩnh và
hưởng thụ những tinh thần và vật chất công cụ của mỗi sự
nghiệp tiến
hóa trong tay mỗi người và mỗi nòi tùy theo
tính chất và xu hướng của
nó mà phấn động với công ích thuần
nhân loại, có phải tội của 89 đâu?
Tuy nhiên cái cực thiện, cái cực mỹ của đời
đó rớt lại cho con cháu
Pháp Lan Tây đế quốc về sau này chỉ còn lại
cái vô dân chủ suy động bởi
cái "máy đoạn đầu đài", người ta gọi
nó là guillotine không đúng, nó
là "La Francaise", máy Pháp Lan Tây
phải hơn.
"Máy
Pháp Lan sang để chém người".
Stalinisme
làm cho cuộc cách mạng 17 mất hết nhân loại
toàn tính, nhưng mà cũng
mang đến cho người Nga Sô một địa vị của Thiên Triều chủ
nghĩa, Trung
Quốc chủ nghĩa sô viết đội lốt Pierre Alexandre, tóm lại
đội lốt Tsar
Komintern, than ôi! chỉ là cái tổ chức hắc
ám của Franc maconnerie tính
cách Anh Cát Lợi. Cái biện chứng duy vật kia
có cái tác dụng thời đại
và địa phương của nó cũng như cái lý tắc cơ
giới của thế kỷ XVII đẻ ra
vô dân chủ, tuy không được đúng chắc, nhưng
mà cũng vừa đủ để sửa soạn
một cuộc tiến hóa, cống hiến một cuộc phản tỉnh về đời người ta
trên
thực tiễn, phê phán và tu chỉnh cho nhân loại
một nền tảng kinh tế trên "phụ kinh tế" mà
không "siêu kinh
tế". Trên thực trạng
của Nga Sô Viết, nếu Marx mang Nga quốc hóa đi được
trên thực thể của
biện chứng đó, đó là vấn đề kỹ thuật, thì
nghĩa là thực hiện một Thiên
Triều chủ nghĩa Komintern, một thứ Tsarisme.
Thế
giới muốn ổn định phải giác ngộ không một thiên hạ
chủ nghĩa, hoặc đội
lốt dân chủ, hoặc đội lốt Tam Dân, hoặc trắng trợn như
Phát Xít hay
hùng hồn như Nazi làm bận lòng các anh.
Ðừng ngừng trệ, đừng theo đuôi,
nếu Lão Tử với Gandhi gặp nhau tất cũng đồng ý rằng chỉ
có chủ nghĩa
của các ông ấy như có thi hành ra được họa
may mới có toàn tính nhân
loại, thực thể nhân loại, mới cộng sản, dân chủ và
nhân nghĩa được.
Trotsky bị giết đi để chứng thực cho thế giới rằng Mác
Xít chân chính
đã bị chối bỏ.
Có
cái gì qua các thời đại? Cách thức sống của
các bộ lạc, các nòi giống,
các thời đại, các khuôn khổ. Người ta cần
bàn tay với luân lý gia đình
cho nông nghiệp; người ta cần lý trí với bản lĩnh
cho thương nghiệp,
người ta cần lý tắc với vô đạo đức cho công nghiệp.
Tổ chức Teuton bên
Ðức hay Lạc Chế bên ta đời Hồng Bàng còn vẽ
được chân hình cái toàn
tính của loài người. Như muốn xác định nữa,
còn phải theo Lão Tử với
Gandhi. Sự sống của người ta y cứ vào người ta hết. Bởi
vì người ta
sống trong vũ trụ; vũ trụ đó là đối tượng đại đồng của
loài người.
Người và vũ trụ trên nền tảng và điều kiện chủ
khách quan sinh sản ra
hết thảy. Tự ta quyết nhiên có cái bản lĩnh độc
lập, tự do, sinh tồn ở
ta đó. Bao nhiêu cái hoa mỹ, bao nhiêu
cái tinh vi, bao nhiêu những
năng lực và công cụ tinh thần với vật chất, hữu
hình hay vô hình chỉ là
những thuộc tính của sống còn Duy Nhân, Duy
Dân chân lý ở trên cái nút
tự tại trong vũ trụ kia. Thái cực, giác ngộ, chân
như, thượng đế, cực
chất của xã hội theo cái tính lưu động của
loài người mà lưu động phải
tìm đâu xa!
"Nhân đạo
đừng mong quân lợm khẩu"
"Nhân quyền
chớ cậy đứa xanh ngươi".
Quản Trọng
nói câu: "Nước
lớn nhiều thì hợp các nước lớn vào đi đánh
các nước nhỏ để làm bá đạo.
Nước nhỏ nhiều thì hợp các nước nhỏ lại đánh
các nước lớn để làm vương
đạo". Hãy hối hận, hãy luôn luôn đề
phòng và cảnh tỉnh cả mình và
mọi người để đi tìm nhân nghĩa và đạo đức.
Dân chủ, vương đạo nếu chỉ
nắm được cái vỏ của nó, cái bóng của
nó trên bao nhiêu hoa mỹ, anh hùng
vinh quang của nó mà mất thực thể của nó
thì trên hành động và nhất là
lập ngôn của các anh sẽ chỉ là của độc sâu
cay cho loài người mà thôi.
Duy Dân chủ nghĩa như muốn thế giới hóa hay hợp hơn, đồng
nhân hóa,
phải làm cho thế giới mỗi người, mỗi nòi nghiêm
ngặt hiểu rõ những
thống khổ và hối hận kia. Phải sám hối, phải nghiêm
ngặt giữ gìn cương
thường Lạc Chế làm nền tảng tự lực trên hết mọi
chính sách kinh tế,
chính trị, xã hội và nhân chủng. Các
thứ chế độ chỉ là ngành ngọn mà
thôi. Ðạo đức, nhân nghĩa, vương đạo, dân chủ như
lột truồng ra, trút
sạch một tấm lòng yêu thương loài người trên
thực thể, há chẳng phải
chỉ còn một thủ đoạn khoa học làm khéo của giống
buôn loài người, giết
người, buộc người một cách văn minh "theo ý nghĩa
dã man" ư? Cuộc Duy Dân cách mạng của
nòi Việt muốn là một "Kultur Kampf"
cho nhân loại nguyên tắc toàn thế giới, nhân
loại là một nhân đạo toàn
tính mà không còn những độc chiếm hay tự do
độc quyền như lối English
Liberty, hay Liberté Francaise, hay hưng Hoa diệt Di được nữa.
Ðây
là mối dằng dặc trường hận của cả một vũ trụ
trường hận, tấm
lòng của cả một mênh mang sống vô bờ bến. Còn
gì nữa? Ðã nghe kêu: O
horror! O horror! O horror! Ôi gớm quá! Vũ trụ chỉ
còn sau mỗi đổi đời,
thất thanh kêu gào rít lên như vậy trong
đáy lòng mỗi con người Phật.
Bao nhiêu linh hồn cũng như bao nhiêu thể sống chưa
thành tựu đều tìm
một an ủi, một ôm ấp trong cái hoài bão lớn
lao của rỗng không vô tình
đó. Một hữu tình lớn lao? Không phải! không
phải chỉ riêng một loài
người, một loài người con con, mỗi sát na, mỗi vi trần
đều là thể sống,
sống thực, cần phải thuyền từ, bác ái và tế độ.
Nhưng mà chính thế đó,
chúng sinh vô hạn lượng, tự cứu lấy mình
không cứu nổi ai. Mỗi phiền
não rất lớn ở trong cái vô ý nghĩa rất lớn
của vũ trụ, lòng đại độ mấu
cứ vào cái ý nghĩa lớn trong cái vô
ý nghĩa rất lớn lao đó.
Chỉ
có rỗng không là rỗng không. Mỗi tư tưởng bắt
rễ bén mầm trong cái sầu
thảm của rỗng không đó, sống còn vô bờ bến.
Hết cái bờ bến của vô bến
đó có một bờ bến viên mãn là sự
yên lặng rất sống, rất sáng, rất cơ,
rất thực, rất đẹp ngay trong đó là một công cuộc
cứu vớt ở vô cùng
trong luân hồi vũ trụ đó. Không, quyết không,
thật không có cái gì là
tài phán cuối cùng của ai hết; không ai
làm chúa hết, chỉ có lòng Phật
làm chúa mà thôi!
Tất
cả vũ trụ phải được cứu, sự cứu vớt ấy luôn luôn
không dứt. Mỗi vi trần
và mỗi sát na hờn oán, đau khổ, tối tăm, mê
mẩn, sợ sệt, tức bực là chỉ
đều quay về hết lòng từ bi vũ trụ, đã đồng nhất
hóa với cái bản thể vũ
trụ rất sống, rất sáng, rất cơ, rất thực và rất đẹp. Im
lặng và nhắm
mắt lại, im lặng cứu lấy vũ trụ hồn nhiên, cứu lấy, sao
không cứu được
mau! Không cuộc cách mạng nào lớn lao đến để cứu vũ
trụ ư? Chịu để cho
vô thủy, vô chung giày vò mãi sao?
Nhắm mắt lại, hãy im lặng làm hết
những cái anh có thể làm được đi. Ðóa
hoa xuân đã nở, đợi mùa thu sang
rọi ánh trăng tròn. Xuân với Thu luân hồi
nhau mãi, mãi mãi vũ trụ còn
dằng dặc cái trường hận đời đời! Thích ca đã thất
bại một cuộc cách
mạng. Jésus, Lão, Marx đều đã thất bại cả, để lại
một bài thơ Thu
Nguyệt Xuân Hoa! Ôi gớm quá! Ôi gớm
quá! Ôi gớm quá! Còn gì nữa?
Còn gì
nữa?
Những
lợi hại thị phi, thiện ác, buồn vui, sống chết của vô
thường! Nhưng mà
Phật hãy còn, còn luôn luôn,
ngày ngày còn, mãi mãi còn,
còn luân hồi
của cái vũ trụ trường hận ấy. Phật vẫn còn, còn
gì nữa? Ðâu là Thích
Ca? Chỉ còn có mỗi cái phiền não sầu thảm
của trường hận vũ trụ đời
đời! Còn cái phiền não đó, còn nhiều
Thích Ca và là Thích Ca những ai
đã cứu được cái phiền não đó. Tiếng gọi của
Sử, như một tiếng động vang
trong sương ra tỉnh vào mê, không dứt dào dạt
với muôn đời gọi lên một
hồn nghĩa vụ. Sự đào thải với tái sinh qua các
cuộc mưa nắng Xuân Thu
biểu hiện lên một tình cảm, đó là tâm
sự của Sử. Tất cả những lời máu
và thủ ký của Sử đó còn lại với tiếng gọi
và tâm sự của nòi giống ở
trong cái di sản toàn bộ của Sử. Thử hỏi di sản của Sử
có những gì? Cả
một nòi giống trên sự thực sống biết, sống tinh thần
và vật chất theo
một phương châm dẫn dắt bằng một linh hồn của sống ấy, nghĩa
là cả một
thiên hạ hiện tại để làm cho ngày mai và cả
một thiên hạ ngày mai làm
cho ngày kia nữa. Tất cả những chuốt lọc thiên nhiên
và nhân vi trong
đời người đã để lại của quá khứ những gì
làm nền tảng và điều kiện cho
ngày nay. Lê Văn Hưu cũng như Trần Hưng Ðạo,
Hàn Nguyễn Thuyên cũng có
ý nghĩa như Lê Thái Tổ làm nên cả một
truyền thống của dòng máu Việt.
Những
chất liệu linh hồn ấy đã hòa thân vào
ý chí sống chung và cả đời đời
thành những lượng tử (quantum), năng tử (neutron) hoạt động hơn,
nó
chuyển động tất cả một kết cấu nguyên hình chất
(protoplasma) của nòi
giống, một văn minh trọn vẹn và đầy đủ, ví như văn minh
đời Hồng Ðức
đặt cái cương thường trăm thuở (24 điều giáo hóa)
làm đề cương cho pháp
luật. Dưới cái cương thường đó tổ chức nên một sinh
mệnh chung cả của
đạo đức, văn đức, vũ công và kinh tế. Lịch sử còn
chuốt lọc và mài giũa
nên mỗi chủ lực của đời thuở làm lõi chốt cho quốc
dân. Thế hệ ngày
Bông Lau còn phục hoạt lại ngày Bình
Ngô, mỗi văn minh trên vận hành
của Ðại Việt ta không dứt bằng khởi điểm của nó,
không giờ phút nào
ngơi. Chu Văn An cũng như Nguyễn Du, di thần nhà Lê cũng
như di thần
nhà Trần đều là những hạt giống khí tiết và
những mô phạm của chân tài
tử chỉ có những sĩ khí tiết và những chân
tài tử, mới sống được ở trong
sự sống của hồn Sử và quốc hồn.
Lý
tưởng của Sử nở lên như một bông hoa Tổ hồn, văn minh
là như thế. Hồn
của Sử là hồn đáy tầng của nòi giống, đáy
lòng mỗi người, đáy sống của
Tổ Tiên truyền dõi mãi mãi. Hồn của Sử
thiên vạn cổ còn nhắc đi nhắc
lại trên truyền thống của loài người một cái
ám ảnh sáng ngời trong tâm
lý.
"Tri ngã giả
kỳ duy Xuân Thu hồ"
"Tội ngã giả
kỳ duy Xuân Thu hồ"
Ôi!
Cảm được thấu cái tâm sự Xuân Thu đó nghĩa
là sống bằng Hồn Sử, không
ra ngoài hồn của Ðạo, của Sử muôn thuở. Trung với quốc
gia, hiếu với
nòi giống "tôn quân phụ" trên nền nhất
thống, đòi cuộc độc lập,
đuổi giặc xâm lăng, trừ giống hủ bại, dẹp quân phản động
diệt đàn phá
hoại, đòi nhất thống, thảo loạn tặc, giữ nắm cương thường,
tôn trọng
thể chế, làm chính lòng người, rửa sạch tà
thuyết với dị đoan, làm cỏ
tà đảng với gian đảng, tôn phù lẽ công,
sáng tạo lý cụ (outillage) và
khí cụ (matériel), vót nhọn vũ khí ý
thức làm nên vô lậu quốc phòng,
chấn chỉnh văn minh chính nghĩa, làm nên tĩnh độ
hòa bình đấy là sứ
mệnh của Xuân Thu. Ôi! Công việc của
thánh với vương, nhưng mà trách nhiệm của bố cu mẹ
đĩ hết cả
với cuộc hưng vong tồn tục của loài người và của
nòi giống. Người ta
cũng như con vờ, sống ngắn ngủi như thế, nhưng mà sống vô
cùng, vì loài
người còn sống mãi mãi, mỗi con vờ có
ý thức và tư tưởng là một tế bào
hoạt động của sinh mệnh Xuân Thu. Người ta cũng như con dã
tràng xe cát
bể Ðông, nhọc lòng mà không công
cán như thế, nhưng mà là có công
cán
lớn lao vì loài người còn nhớ mãi
công cán của mỗi con dã tràng ấy!
Người ta cũng như con thiêu thân chui đầu vào lửa
mà chết. Nhưng mà mỗi
sự hy sinh cho ánh sáng của loài người là
mở đầu cho mỗi đun đẩy văn
minh đó. Vai Atlas có ai khiến vác quả địa cầu?
Chu Văn An thế mà dâng
biểu giết nịnh! Những công việc đó đều là
công việc của Hồn Sử nghìn
Xuân Thu, của tất cả loài người cũng như của mỗi dân
tộc.
Tất cả những
tài năng đạo đức chỉ là hương thơm của
đóa hoa Nhân Ái
nở mãi không tàn. Nhân ái một khi được
sáng suốt viễn kiến, chế độ hóa,
thực tiễn hóa, quy củ hóa mới chân thực là
nhân ái có thực hiện thực
thể cho loài người và vũ trụ. Ðóa hoa
nhân ái là cả một kiến trúc lẫy
lừng của lý tưởng, cái lý tưởng lập thể của
nhân loại. Ðóa hoa nhân ái
thấm vào thấu suốt mỗi sinh mệnh làm cho những tiếng gọi
sứ mệnh, tiếng
gọi vô thanh, vô hình. Chỉ có hương thơm,
hương thơm của nhân ái. Nhân
ái mà cũng đến bị bài xích, bị lợi dụng, bị
chiêu bài, bị đầu cơ, thôi
hết cả! Mà đến thế, trời đất mà đến thế. Ai là
những người kỳ ưu thiện
ý?
Ðóa
Ái Hoa còn là đóa trí tuệ hoa.
Bây giờ ta mới chân thực hiểu thế nào là
sinh tri. Sinh tri chẳng phải là nghiêm ngặt và ấu
trĩ đẻ ra đã biết,
biết từ mới đẻ. Sinh tri là trí tuệ tự sinh, sinh ngay
bằng sự bừng nở
cửa trí tuệ. Chữ giác ngộ của Phật cũng cùng một
ý ấy. Tịch chiếu, hội
quan, quán thông, quán tưởng, trầm tưởng, mặc khải
đều là những thuộc
từ của sự sinh, sự tri... Phải là một sinh mệnh dàn dụa
nhựa sống, đầy
dẫy ánh sáng của xuân tình mới nẩy nở ra
cái cơ sinh tri đó được.
Ðóa
Ái Hoa còn là đóa ngữ hoa, giải ngữ hoa,
giải hoa ngữ, ngữ giải hoa,
hoa với ngữ như sát chặt với nhau trên sự thăng hoa tuyệt
diệu và tột
bậc của vóc tinh thần thiết diện, linh thiêng ở những lời
hùng hồn của
từ bi hay của nhân ái hoa là tri âm hoa với
tri âm ngữ, cái tinh kết
của sinh mệnh đời đời, khúc nhạc của vận động thuở thuở.
Vườn
xuân của đời nhân ái hoa nở đầy lý tưởng hoa:
xuân thu hoa, ái hoa, tri
âm hoa, trí tuệ hoa; tiếng đồn dậy: tri âm ngữ, đồng
chí ngữ, ái ngữ,
lý tưởng ngữ, vong quốc hoa (Nam Thi) phải là nhịp uyển
quỳnh đủ cả
tình tang của muôn tiếng.
"Thiên hạ vạn
nhi tranh hồng tử"
"Thùy thức
kiền khôn tạo hóa tâm".
Người
Việt tri âm hãy lặng ngắm quốc hoa Việt, hãy đọc
quốc ngữ Việt, ái
nhân, nhân ái, chúng ta mới biết được
rõ ràng là tri âm ngữ với tri âm
hoa của Ái Hoa.
Những tầng lớp
mây trắng bay đùa sao mà xúc
cảm thế. Hình ảnh của
vận động tang thương không gì não nuột và
bực chán bằng mây trắng.
"Tiết gìn
thiên cổ tình khôn dãi"
"Óc
tính trăm năm gan dễ phơi"
Mây
trắng bay trên trời không còn ngăm mãi ở
lòng người, còn ngăm mãi ở đời
sống người, ngăm mãi trong thâm đáy của dòng
đời nay đã in bóng xuống
nước, mây bay nước chảy nhưng mà nước còn
mãi tâm tình mây. Những từng
lớp thế hệ dằng dặc kéo vào thâm đáy của
quá khứ. Không, không, thời
gian không chảy xuôi, thời gian rút ngược lại, từ
bây giờ trở lại, từ
ngày qua trở lại, nó kéo dồn dập về sau lưng ta.
Ta đi xuôi, ngược lại
cái sống ngược lại, những tầng lớp thế hệ kéo ùa
vào quá khứ, nhưng mà
hình ảnh và tác dụng còn tích cực
khuấy động đời đời.
"Trúc lụa
đã dày phen trị loạn"
"Son xanh
còn chiếu dạ hơn thua"
Những
linh hồn xưa còn ký ngụ vào làn Bạch
Vân trên sử Xuân Thu không dứt,
những linh hồn của các tầng lớp chiến đấu đời đời. Có
những chiến sĩ
làm việc dương chu, có những chiến sĩ làm việc
âm phát, có người làm
việc hữu hình, có người làm việc vô
hình, có những công việc đã hiểu
rồi, có những công việc vẫn tưởng vi mang, có những
tinh chỉ chế độ
thúc đọng lại, vùng vẫy hay tản mạn trong đáy
dòng sử, sống trong đáy
hồn, đáy tầng.
"Kéo lớp lớp
trên am Bạch Vân
Mà
còn cái gì? Những cái sống
Mà vì
cái gì? Vì những cái bởi"
Người
ta tưởng tượng như đứng cung kính kiên thành trước
bậc đền Delphe, nghe
cảm hứng lấy những tiếng của đời xưa theo cái dòng sống
người ngược
lại, cái dòng sử ngược vang vọng lại hiện tại để
mà nghe cảm hứng lấy
những tiếng vi mang đó ở trong mỗi động tác, mỗi
cái tầm thường, mỗi
cái ngây ngốc, mỗi cái ngu si, đến cả mê
tín của đời đáy tầng, tức là
nghe cảm hứng lấy Tổ hồn, Quốc hồn, Sử hồn, kể chi những tiếng ai
oán,
những tiếng ước vọng, những tiếng hằn học, những tiếng hò
kêu, những
tiếng thúc giục.
Ý chí
chi mà ý chí thâm
Ý ai mặc
ý hóa công thâm
Ðương cơn lửa
lạnh thâm đầu rót
Chắc có
còn thâm với hóa tâm
Ở trước bàn
thờ của các thế hệ trước mà dân Việt đang
còn sùng kính, há không phải những
tiếng thực tế ư?
Thôi
chúng
ta
biết
cái
tác
dụng lịch sử
tàn ác, cái cấu tục sinh ra
nòi Hồng Việt và bắt nòi Hồng Việt than, bắt
nòi Hồng Việt hỏi, có ai
giải cứu cho người Chàm, người Thổ, người Mường? Chỉ có
người Hồng
Việt. Ðau đớn thay dân Ngái, dân Mường,
dân Thổ, dân Mán, dân Kha, dân
Mèo, dân Nùng nòi giống của chúng ta.
Một tiếng chuông chùa hồi thôi
vừa hồi, bây giờ không còn được nữa, chính
là chỉ đồng vọng tiếng khèn,
tiếng hận của Mế Hê, tiếng lòng của Khu Lân, Khu
Lân người anh hùng cứu
quốc của Ðại Việt. Có ai biết cái tiếng của đất nước
nòi đường ngược?
Có ai còn nghe thấy cái tiếng ấy? Một làn
gió lạnh của Hồn Uyển!
Tôi
đã không tiếc sao sinh ra loài người Hồng Việt nữa,
nhưng mà tôi còn
tiếc sao trong bao gian nan của tôi không cho tôi
những rỗi thì giờ đi
bát bộ mẹng, đi hát trống quân, đi hát
đúm, đi hát ví, đi rước nước, đi
nghe đàn cồn, đi săn linh hồn của tôi nữa, và nữa,
vào cả những núi đá
kia, những vườn xanh kia, những đống củi kia, những tháp
tàn kia, những
lều tranh kia, những ruộng đỗ kia, để mà được hiểu hơn nữa,
và nữa,
những linh hồn ấy nói gì? Muốn gì? Hỏi gì?
Tiếc mong gì? Nước chảy
xuôi, gió thổi xuôi! Còn trong không
còn nữa, sống trong không sống
nữa! Ghê gớm chưa cái đãi lọc muôn đời !!!
Ấy
đấy, cả một tâm trạng Bách Việt chỗi dậy sống lại
trên đời mới. Tôi
không tiếc được nữa tại sao chúng ta không sinh
làm người Mường, người
Mán, người Thổ, người Lào để cứ làm chủ nghĩa
Bách Việt Duy Dân? Nhưng
mà đất nước hãy còn, không còn
mà thực còn ở trong lòng của cõi chết để
làm cái đáy vực, cái rốn bể của tiến
hóa. Chúng ta cả Bách Việt cứ giác
ngộ Bách Việt và nòi giống ấy là đã
chân chính sống lại đó, sống sâu
sắc, sống triệt để, sống sáng quắc, sống bộc liệt, sống oai
hùng.
Người
Phi Châu rồi sao? Nói gì đến người da đỏ rồi sao?
Ai hát lại chiến ca
của người da đỏ? Ai hát lại xa xam của người da đen? Những
câu hỏi mỉa
mai đó nó lật nhào hết cái đạo đức kỳ quặc
của văn minh thế kỷ XVII,
XVIII, XIX, XX Gia Tô lịch.
Người
Atzèque sống lại hay người Mexique trôi tàn?
Âu Châu của nòi Hy La còn
mãi hay Âu Châu của người Barbares sống lại? Ðều
là những nghi ngờ
thiên vạn cổ, hóa công vẫn giải quyết ngầm.
Duy dân biện chứng đặt để
nền
tảng của
một lý luận đúng đắn về xã hội với thời đại
nó cắt nghĩa được rành mạch
và thực tại hết thảy hiện tượng của lịch sử trên sự thực
của sự thực,
chối bỏ được hết những sai lầm của duy tâm, duy vật, duy sinh với
thực
dụng chủ nghĩa.
Trào lưu của
thời đại gần đây gồm có ba:
1. Quốc tế cực
quyền chủ nghĩa (Totalitarisme International).
2. Quốc tế tư bản
chủ nghĩa (Capitalisme International).
3. Quốc tế cộng sản
chủ nghĩa (Communisme International).
Cực
quyền nắm chủ động được trước vì nền tảng xã hội của
các nước Ðức, Ý,
Nhật: với dòng sống lịch sử của họ quy định một bước đi thời đại
cấp
tiến hơn, ở đó có một chuẩn bị sớm và nắm quyền
chế phát. Ðến năm 1942
trở đi, tư bản trở lại nắm được chủ động từ trong nội dung kinh tế bền
dai, rộng rãi và tiềm lực của họ. Cho nên
ngày Nga bị lôi cuốn vào
chiến tranh, rồi đến ngày Nga tuyên bố giải tán
Ðệ Tam Quốc Tế trước
khi Trotsky bị đồ đệ thân tín của hắn va một búa
ám sát (Ðệ Tứ Quốc Tế
trong vòng vỡ lở hẳn), và từ trước khi đó nhiều
năm, Cộng Sản không nắm
được quyền tả hữu của thời đại. Sự vận động của lịch sử triệt để
đào
thải sức đứng thứ ba, cho nên, nếu Cộng Sản không bị
tiêu diệt hẳn với
Trục tâm thắng, thì bị đồng hóa với Ðồng Minh
thắng, điều này đã dự
đoán trước một cách chắc chắn từ 1939, càng đi với
thời cuộc diễn tiến
càng chứng thực không sót.
Sự
đấu tranh gay gắt của hai mặt trận chủ động cực quyền và tư bản
bằng
tiêu hao, giết tróc, và kéo dài, quy
định nên một cuộc rối ren không
thể bằng sức người cứu vớt lại được, nó làm cho dù
bên nào thắng lợi
trên chiến tranh cũng sẽ thất bại đau đớn trên hòa
bình; bằng cái tình
thế rối ren đó, cuộc đóng cõi (frontières
fermées) làm bằng cuộc hướng
tâm cách mạng dự đoán từ 1939. Những nguyên
tắc dân tộc và nhân tố tâm
lý đi sát với diễn tiến tất nhiên của kinh tế, văn
hóa, chính trị và xã
hội làm cho hướng tâm cách mạng trọn vẹn.
Các dân tộc nhỏ yếu với các
giai cấp đau khổ lúc ấy sẽ là những lực lượng mới ra
sáng tạo một thời
đại mới 2000.
Nguyên
lý của dòng sống máu một dân tộc có
thể lấy cái nguyên lý của thủy lực học (science
hydrolique) mà chứng minh. Làn
gió đáy sẽ thổi dạt dào các luồng
sóng đáy, sức nước nguồn từ mỗi vỡ bờ
sẽ bằng tất cả cái sức mạnh của các bế tắc thời đại với
lượng nước bị ứ
tắc mà vỡ lở ra trong một phạm vi quy định bởi sức lực, quy tắc
và tinh
thần nội tại. Một cuộc nổ bùng 1793 và
Napoléon thức (éruption
napoléonienne) sẽ đặt để một văn minh Vạn Thắng mới của
nòi Việt từ
muôn năm. Các lần vỡ bờ từ Ðinh, Trần, Lê,
Nguyễn Huệ sẽ tái diễn trên
một nền tảng to rộng và cao độ hơn bằng cả một sức lực lịch sử
và nhân
chủng tích góp, theo lý tắc Totem Rồng Tiên
của Bách Việt vạn năm trước
mà giải quyết vấn đề Ðông Nam Á, tức là
Ðại Nam Hải Á Úc Châu một cách
thỏa đáng. Các nòi chi tiếng Môn sẽ lập lại
một trung tâm của sống còn
mới.
Ấy,
thời đại này trên cái văn hóa quốc
phòng khoa học, quân sự, công nghiệp
tư bản chủ nghĩa kinh tế, diễn tiến bằng cái trào lưu
là như thế, đặt
để bằng cái hình thế của giai cấp và dân tộc
toàn thế giới là như thế.
Duy Dân biện chứng pháp chối bỏ lối trông thời đại
của duy tâm là xâm
lược với phản xâm lược hay quốc dân chiến tranh, lại chối
bỏ lối xem
thời đại của duy vật là tư bản với vô sản hay giai cấp
cách mạng, đồng
thời còn chối bỏ nốt lối xem thời đại của thứ triết học duy sinh
phiến
diện (superficielle), bình diện và thực dụng (empirique)
là chính trị
đấu tranh thường phát sinh ra từ hội nghị nọ hay hòa ước
kia.
Triết học duy
tâm cắt nghĩa cuộc chiến tranh này là
do dân tộc tính
ăn cướp của Ðức, Ý, Nhật gây nên, bởi thế
bóc lột hết thảy các công cụ
và các cơ năng chiến tranh của Trục tâm là
cần yếu, đồng thời các triết
học loạn đời với tất cả các tinh thần cừu hận cũng phải
làm cho mất
tích.
Các
nhân sĩ gọi là khai minh hơn và lối triết học thực
dụng duy sinh cho là
các nước dân chủ ăn no quá quên cả
phòng bị mà gây nên. Riêng phái
duy
vật cho và dự báo trước bốn nguyên nhân:
1) Ðế quốc chủ
nghĩa mâu thuẫn với đế quốc chủ nghĩa.
2) Ðế quốc chủ
nghĩa mâu thuẫn với dân tộc bị bóc lột.
3) Tư bản chủ nghĩa
mâu thuẫn với Tô Nga.
4) Ðế quốc chủ
nghĩa từ trong nội bộ có tư bản giai cấp mâu thuẫn với
vô sản giai cấp.
Duy
Dân chủ nghĩa chính đính và chứng thực rằng
cuộc chiến tranh này chỉ là
cuộc tranh bá chiến của hai mặt trận đế quốc cực quyền với tư
bản dân
chủ giả xúc tiến và chứng thực bằng lý luận
và thực tiễn của quốc phòng
kinh tế trên các nền tảng triết học của tư bản tái
sinh sản chính trị
hóa (reproduction du capital). Trật tự mới của Âu
Châu, trật tự mới của
Á Châu cũng như khu vực tổ chức tập đoàn kinh tế
trên các hiệu triệu
chiến tranh của chính trị địa lý học, đi theo với thuyết
sinh tồn không
gian (espace vital) hay tiến lên một bước là thế giới
liên bang
(Fédération internationale) có một tổ chức đằng
sau phải là một hậu
thuẫn bằng vũ lực, đấy là mục đích tác chiến của
cả hai phái trong giai
đoạn thế kỷ hai mươi này (sẽ nói rõ trong vấn đề
Chiến Hậu). Sự khống
chế thế giới phát sinh từ cái nhu yếu của mỗi dân
tộc đã đến cực điểm
của văn minh tư bản và vật chất. Sáu vấn đề nền tảng của
thế giới (xem
tuyên ngôn ngày thành lập Tổng Ðảng Bộ)
ví như không giải quyết được
triệt để thì vô luận một hiệu triệu giả dân chủ hay
giả chính nghĩa nào
cũng chỉ là ngoài mặt để che lấp cho sự thực của
phát triển xấu xa và
tội ác tự nhiên tất có của văn minh cũ đã
thối nát.
Nếu
nói cuộc chiến tranh này là thần thánh
chiến do cái mâu thuẫn của đế
quốc chủ nghĩa mâu thuẫn với dân tộc thuộc địa thì
chỉ là nói mơ, hoặc
tiến lên một bước là thay đế quốc đánh lừa
dân thuộc địa cho tưởng có
phần vinh dự của mình vào để mang nhân mệnh
và tài sản ra đỡ đạn cho ăn
cướp lịch sử.
Tội
tình! Sự phân tán một đống của có phải
là ở kẻ có của yếu ớt gây ra
sao? Cuộc chiến tranh lần này dân tộc nhỏ yếu là
chủ động gây nên với
đế quốc? Cuộc mâu thuẫn giữa dân tộc thống trị với bị thống
trị là động
cơ của giặc giã? Dân tộc bị thống trị có đủ vũ lực
và chủ động ra tuyên
chiến với đế quốc? Một dân tộc từ thiện nào để cởi mở cho
các thuộc địa
bị đè nén mà gây chiến tranh? Muôn lần
sai, nghìn lần lầm.
Chỉ
có một cuộc chiến tranh thuần túy do mặt trận thế giới
các dân tộc bị
áp bách đánh giết mặt trận ăn cướp thống nhất mới
gọi là cuộc thần
thánh chiến tranh đó.
Có
người nói Trung Hoa đánh Nhật Bản, đó là
tiền tiến và đặc chứng của
trận giặc lần này, có biết đâu Tàu với cuộc
cách mạng Tân Hợi chỉ là
một nước "Thiên hạ chủ nghĩa" lối cũ, đế quốc chủ nghĩa
lối Á
Ðông để thích ứng với cách thức và đường
lối mới của đế quốc chủ nghĩa
mới là xâm lược chủ nghĩa lối Âu Mỹ, trong giấc tự
tỉnh của "con sư tử ngủ"
tự trở mình dậy để đi kịp trên con đường chinh phục mới
mà quán triệt
cái truyền thống tanh hôi của mình theo lịch sử,
cái đó chứng thực với
bức thư kiến nghị của Tưởng Giới Thạch gửi cho Tôn Văn yêu
cầu mặc nhận
hiện trạng ngũ tộc ở Tàu và bỏ chủng tộc cách mạng
đi để quán triệt mục
đích Hán bằng chiêu bài, bằng quốc dân
cách mạng, lại chứng thực bằng ý
chí, thái độ và hành động khi cách
mạng của chính phủ Tưởng mà biết
chắc.
Lại
có người nói cuộc cách mạng Ấn Ðộ là
đặc điểm cuộc chiến tranh này, có
biết đâu là trên sự thực và phản ảnh của sự
thực ấy là bao nhiêu lần
thanh minh của chính phủ Anh, Ấn Ðộ chỉ là vấn đề nội
bộ trong đế quốc
Anh. Khoảng 1940 đến 1942, từ lúc Nhật Bản để gót đến
Miến Ðiện, trực
tiếp uy hiếp cửa ngõ cái kho lúa của Anh, với
Ðức đánh sát vào
Caucasie, hai bên hò reo xông vào cướp giật
hạt ngọc trên đế miện của
Anh, lúc bấy giờ vì chính lược và chiến
lược thế giới, Ấn Ðộ trong địa
vị cố nhiên trọng yếu của mình cho số phận toàn thế
giới tư bản mà được
Tàu, Mỹ, Nga chú ý mà hô hào
thôi, há phải là Ấn Ðộ gây ra cuộc chiến
tranh này? Ðức, Nhật cuối năm 1942 hết sức và thất
bại trong kế hoạch
hội sư ở Ấn Ðộ. Ấn Ðộ vấn đề cảm thấy thế nào? Ấn Ðộ
địa vị lại trở lại
một nội bộ nhỏ xíu, bị khinh miệt, bị giày vò
trong đế quốc Anh vậy.
Nhưng đứng về mặt Ấn Ðộ cách mạng mà nói, thực
tại Ấn Ðộ chẳng tán
thành Anh, cũng chẳng tán thành Ðức với Nhật.
Ấn Ðộ chẳng tán thành một
cuộc chiến tranh nào duy trì đặc quyền (Nehru). Ấn Ðộ
đứng dậy cởi mở
cho toàn thế giới bị bóc lột kể cả người da trắng
bên trong bằng sự
chiến tranh với toàn thế giới (Gandhi). Thái độ với
ý chí ấy chính là
đại biểu cho con đường đi đúng đắn của dân tộc nhỏ yếu
suốt địa cầu,
tiếc Ấn Ðộ chẳng phải là sức liên hợp to tát
tất cả các dân tộc đó, lúc
này chẳng phải là đại bản doanh của mặt trận ấy, cũng chỉ
là tiên phong
và cục bộ nhỏ của mặt trận ấy chưa hết lộ mặt mà
thôi. Còn nếu như nói
có dân tộc nhỏ yếu nọ, dân tộc thuộc địa kia
tán thành mẫu quốc hay
lãnh đạo quốc, hết sức tham gia cuộc chiến tranh này để
mong có một thí
bỏ về giải phóng hay độc lập, sự tán thành
đó bằng vô tri hay ngơ ngác,
hoặc là cử động đầu cơ của một lũ hoạt đầu, hoặc bị đè
nén cực chẳng đã
phải đem con, em, gạo lúa... của mình nộp cho đế quốc,
chẳng phải một
phần ngàn nào đại biểu được lịch sử và ý
chí của toàn thể dân chúng đó.
Ðế
quốc chủ nghĩa mâu thuẫn với Tô Liên ư? Tô
Liên trên cái hiện thực của
phương châm dân tộc tư bản tập trung chủ nghĩa chẳng phải
là cớ của
cuộc chiến tranh này. Tô Liên chỉ là một phần
tử lạc loài và phản động
không bị tiêu diệt bởi cực quyền thì bị hỗn
hóa với tư bản quốc tế. Tô
Liên trong cuộc chiến tranh này chỉ là thứ yếu
và bị động. Sách lược
gia truyền của Lénine là đợi các đế quốc
đánh nhọc lả sẽ một tay hoàn
thành cả cách mạng vô sản hoàn cầu đã
thất bại. Những hành động bất trí
trong ngoại giao với Nhật, với Balkans (đứng địa vị khách quan
của mặt
trận vô sản thế giới mà nói) đủ tỏ rõ
cái bàng hoàng của Tô Liên đứng
ngã ba. Tô Liên trong cuộc xâm Ba, xâm
Phần và càng ngày càng đi sát
Anh, Mỹ, Tàu, càng tỏ rõ Tô Liên chẳng
phải là thế giới đặc biệt, đi
đôi với chính lược lui một bước lên hai bước chỉ
có thực tiễn thất bại.
Ai bảo Tô Liên là chủ động? Ai bảo Tô
Liên là tổ quốc của toàn vô sản
thế giới? Lại nói các mâu thuẫn nội bộ của tư bản
với vô sản giai cấp
trong mỗi đế quốc làm nên trận giặc này? Vô
sản Anh vì Anh, vô sản Mỹ
vì Mỹ, Ðức vì Ðức, Nga vì Nga, Tàu
vì Tàu, Nhật vì Nhật trong cuộc
quyết thắng của vận mạng giống nòi với cuộc đánh bạc
máu sắt ngày nay.
Cộng sản Anh yêu cầu từ 1921 tới nay bao lần vào
công đảng đều bị cự
tuyệt. Sự im lặng của toàn vô sản thế giới đối với Nga
vào trận, sự ám
sát Trotsky bởi đồ đệ thân tín càng
làm cho cuộc cách mạng thế giới
càng chậm lại thế kỷ. Sự đột nhiên giải tán đệ tam
quốc tế càng chứng
thực. Các Cộng Sản đảng các nước từ bao năm nay mỗi
ngày mỗi xu hướng
vào cách vận động bằng hình thái dân
tộc càng được chứng nhận. Tình thế
các giai cấp toàn thế giới càng cho ta một nền
tảng phán đoán đúng chắc
nữa (Xem nói về Cộng Sản ở dưới). Các cuộc bãi
công ở Pháp (Marseille
và Paris ) chỉ là phong trào ái quốc. Sự
thỏa hiệp của Cộng Sản đảng
các nước với chính phủ chiến thời của mỗi nước, sự chia
rẽ của Cộng Sản
đảng Pháp vừa đi với Vichy lại vừa đi với De Gaulle, đều
là những hiện
tượng đau thảm của vô sản trên lý tưởng bằng đấu
tranh không có phương
pháp sáng suốt và ỷ tựa chắc chắn. Các cuộc
bãi công ở Mỹ không phải do
Cộng Sản gây ra, hoặc phần nhiều là do hành vi của
cô lập sai khiến,
đồng thời là những hành vi càng khiến cho Mỹ
trên chế độ dân tộc tiến
vào trạng thái dự trước của Duy Dân chủ nghĩa về
chiến hậu.
Cuộc
chiến tranh đã thế cũng chẳng phải là do tính ăn
cướp của một vài dân
tộc, hay do sự ăn no ngủ kỹ của một vài nước trọc phú.
Nó có một căn
nguyên lịch sử của Duy Dân biện chứng pháp.
Cuộc
chiến tranh này thuần túy là cuộc tranh bá
chiến của hai phe đế quốc.
Sự thất bại của họ trên hòa bình chính
là thời cơ nhằm đúng của hướng
tâm cách mạng, một con đường mới cho đời sống thế giới mới
trên con
đường lịch sử phải đi triệt để của các nước nòi nhỏ yếu
hợp với giai
cấp bị bóc lột, chỉ có thời cơ đó chân
chính là một dịp sống mới của
loài người mới thuế biến, đột biến và đặc biến.
Cái nhược
điểm của trào lưu Cộng Sản tức là đệ tam
quốc tế dưới
những áp bách của hình thế thực tiễn mà
giải thể (1942) sau khi cái
nhược điểm của Dân Chủ Cộng Hòa trận doanh là
Pháp bị đả đảo (1939).
Nhược điểm của Phát xít trận doanh là Ý
Ðại Lợi vỡ lở năm 1943 (8/1943)
mở đầu cho cái nhược điểm to lớn nhất, bên nào cũng
phải cần, cần để
rồi không tránh được đó là sự thắng trận.
Như đã nói từ 1939, chủ động
giật lại phía Dân Chủ tư bản thế giới, mặt trận từ sau
này mà đi tròng
trành giữa lợi thế về chiến lược trên địa giới của Nhật
với bức lũy sắc
Âu Châu của Ðức. Ðức có thể thua được trong
ngoài 1945. Nhật bị nội bộ
Ðông Á giải thể trong ngoài 1946. Từ đấy thống
trị bởi sự thắng trận.
Thắng lợi là chuyện tất yếu của chiến tranh, sau đấy nó
có thể mang đến
sự thất bại của hòa bình. Anh với Mỹ có thể
liên hợp thành một chủng
tộc liên bang, lấy kinh tế ra đè ép và buộc
chặt thế giới, hoặc Anh vẫn
là Anh đế quốc kiên quyết cự tuyệt những nguyên tắc
Ðại Tây Dương ứng
dụng vào nội bộ của mình, Mỹ vẫn là Mỹ đế quốc
thực hành xong "monroisme"
mà cương quyết đòi môn hộ khai phóng
toàn thế giới. Hai đế quốc ấy đứng
trên một hàng trận có mâu thuẫn bên
trong như thể chia đôi bá quyền
toàn thế giới. Sự giải quyết chung nhau của Anh, Mỹ với vấn đề
Nga xúc
tiến nên hội nghị Moscou (10/1943) ở đây Anh, Mỹ muốn cho
xong vấn đề
Ðông Âu, Nga đánh Nhật và đánh
Ðức một thể, vấn đề Turquie và Cận Ðông,
Anh với Mỹ trong cuộc lãng giải, như là khắng khít
như thế, thực tại vì
đại địch đương tiền, đại địch hiện nay là Ðức, Ý,
Nhật, đại địch tương
lai là Nga, đại địch giả định cho tương lai nữa là
Tàu. Tàu tuy bị gọi
là một trong tứ cường nhưng mà sự lãng bỏ khinh
miệt với sự dè dặt và
sự đề phòng càng ngày càng phải tăng.
Cái hình thế nước Tàu phóng trông
ra tương lai, 20 năm sau 1944 chẳng hay ho gì. Những dã
tâm của Tưởng
Giới Thạch biểu hiện từ trong ra đến ngoài rất đáng kinh
khủng cho toàn
nhân loại. Những vấn đề Tàu yêu cầu chiếm lĩnh Việt
và Hàn ở Washington
và yêu cầu các quyền lợi chính trị với kinh
tế các phía có Hoa Kiều
(nhất là Nam Dương) chưa đủ để cảnh tỉnh Anh, Mỹ hay sao? Tất cả
tuyên
ngôn đường mật chỉ là đánh lừa và là
thừa cho những nhà quan sát chính
trị, nhưng là những tài liệu rất quý cho những
nhà học về tâm lý trên
lịch sử và chính trị. Người ta muốn công
nhiên một cách mâu thuẫn bá
chiếm cả thế giới, nhưng mà người ta còn cần hiệu triệu,
thứ nhất là
cần đánh lừa. Hitler nói: "đánh bạc"
là thế.
Họ
đề phòng hết cả, dự kế hết cả, nhưng mà có một thứ
ác hại nhất, lớn lao
nhất, và đại địch nhất của hết thảy thắng trận là sự thất
bại trên hòa
bình một cách đau đớn. Những trào lưu anarchy về
kinh tế, xã hội, văn
hóa và tâm lý sẽ chạy từ những nước thắng
trận ra ngoài để gặp những sự
thực anarchy đã hình thành trên khắp
các nước bại trận đưa đến sự đóng
cõi và phản tỉnh cần cho mỗi nước. Cuộc đấu tranh thực tế
của các nước
nhỏ yếu lúc bấy giờ mới thành tựu nổi lên.
Tàu sẽ trở về một cuộc nội
loạn và ngoại hoạn để có thời gian cho Á
Châu sống lại.
Họ
sẽ thắng lợi trên chiến tranh, nhưng sẽ thất bại trên
hòa bình, cái
thất bại mạn tính (chronique) tới ba, bốn mươi năm, nó
cần họ tự cứu tế
một cách khổ nhọc và đau đớn như bị chứng thần kinh suy
nhược.
Các
dã tâm, âm mưu, mắc lên những cơ quan
và kế hoạch sẽ đổ sụp. Loài người
bằng sự phản tỉnh và phục hoạt sẽ tu chỉnh lấy lịch sử của
mình.
Có những bờ
đê chắc chắn ngăn be hết sức chảy của
dòng nước, để
dòng nước ấy từ trên nguồn sa xuống, hợp với lượng nước ba
bảy sông
ngòi dồn lại đóng vạnh đáy và bằng luồng
sóng đáy sùng sục nổi lên,
chọc thủng hết, phá vỡ hết, để theo dòng chảy của
mình.
Ðời
sống lịch sử của một nòi giống cũng vậy. Từ 1940, nòi
Việt có thể nói,
bốn bề đều là quân địch hay là sức can thiệp tới
quyền lợi và đời sống
Tổ Tiên với con cháu tối thiêng liêng của
mình và bởi những bàn tay với
những ý chí ô uế nhúng nhớp vào để sẽ
chạm vào đáy hồn và danh dự của
chúng ta. Lúc ấy, từ bốn phía quân địch
đó, ở trong khói lửa và bụi
bặm, chúng ta sẽ vạch ra, chọc thủng và phá toang
con đường đi. Con
đường đi ấy là lối sống chính trị và lịch sử
trên quốc dân và thế giới
của chúng ta, Vạn Thắng như Vạn Thắng ngày xưa, mà
tiến lên mục tiêu
của dân tộc.
Sự Phục Hưng đi
đôi với sự Phục Hoạt
Máu đi liền
với ánh sáng của óc.
Phục
hưng và phục hoạt đều từ trên nền tảng bản thân của
xã hội ta trong kết
cấu của nó phối hợp với những điều kiện yêu cầu của
dân chúng và thủy
chuẩn của văn hóa ta, suy động trong tiềm năng, tiềm thức
mà đột hiện
lên bởi cái để uẩn sâu sắc của nhân chủng.
Sự phục hưng
và phục hoạt của chúng ta trên tính chất quy
định của nó là đột biến, đặc biến và thuế biến.
Bởi đột biếncho
nên
phục
hưng
và
phục
hoạt mới anh hùng
Bởi
đặc biến cho nên phục hưng và phục hoạt mới sản sinh ra
một văn minh
mới, bằng cái văn minh ấy sẽ xây dựng một xã hội
và thời đại mới.
Bởi
thuế biến cho nên sự phục hưng và phục hoạt mới dân
tộc, mới Việt. Lý
tưởng Việt như đóa hoa thơm mọc từ sâu xa trong đáy
hồn của Tổ, đáy
tầng của Dân và đáy lòng của Sử.
Sự
phục hưng và phục hoạt ấy là Duy Dân Thắng Nghĩa
diễn ra bằng một dòng
nghệ thuật tất cả những điệu nhịp sống của Viêm Việt Vạn Thắng.
Trong cái sứ
mệnh lớn lao và đột nhiên như lời
Ðức Chúa ban cho Moise nào sai ra cứu thế, phục
hưng và phục hoạt bằng tất cả và là tất cả.
Một
Lẽ
Sống
trên
Lẽ
Thật, một Ðường Sống trên Ðường
Thật chỉ vạch ra,
dựng dõi lên, rồi lại xây đắp thành một thực
thể của lý tưởng, tự trong
phản ảnh ra huy hoàng tất cả một văn minh và làm
sùng sục sôi tất cả
một nguồn sống máu.
Chủ trương thời đại
không đủ, phát quật và phát huy được
cái để uẩn của một văn hóa để cho người ta sống no
và sáng mới đủ.
Chủ trương thời đại
không đủ, phải nắm giữ và vận dụng được cái căn cứ
của một cái chủ trương đó mới có ích.
Chủ
trương thời đại không đủ, phải có được các đồ lề
tinh thần và phương
pháp học thuật để tìm vạch ra, nó mới chắc chắn
và sáng láng. Lại còn
phải có đủ các vũ khí của ý thức để
phòng vệ cho nó, chỉ huy nó trên
mặt trận, bổ thụ cuộc thắng trận cho nó mới đạt được tới một
hiệu quả
của dự cầu nào của nó đấy.
Cách
mạng, chính trị và kiến thiết phải nối liền và hợp
nhất vào một tinh
thần và luật tắc chỉ huy nó, vận dụng nó, nắm giữ
nó và hiểu biết nó.
Lý luận
và thực tiễn phải thống nhất trên một lý tắc trọn
vẹn, không chướng ngại, không bẻ vặt, không phụ họa
và gia giảm.
Thắng lợi phải nắm
giữ được thực thể rồi trước khi ra trận.
Họ
đã thắng lợi trên chiến tranh nhưng rồi thất bại
trên hòa bình. Nếu dân
tộc ta không có một nhỡn quang sáng suốt thì
hoặc cũng sẽ được thành
công trên cách mạng nhưng tất sẽ thất bại trên
kiến thiết, hoặc sẽ được
thắng lợi trên kiến thiết mà thất bại trên
chính trị.
Cách mạng,
kiến thiết và chính trị
cần phải có hướng thượng, cần hơn cả sự thành công
chợp qua. Chủ trương
của thời đại có thể thành công nhưng kiến thiết
và duy hệ sự kiến thiết
và kéo dài sự kiến thiết ấy trên hướng
thượng, tức là chính trị không
được chỉ đạo bằng cả một để uẩn của lịch sử và cả một thể hệ của
triết
học, khoa học với thuật học, thống nhất, sâu dày, đầy đủ,
cặn kẽ, đúng
đắn và tiến bộ thì thế nào cũng thất bại.
Chúng
ta còn phải lấy một con mắt công, con mắt thời đại,
nhân loại và lịch
sử, con mắt của khoa học khách quan mà phán
đoán, đừng để bị che lấp
bởi ý thức hình thái của một thể chế xã hội
và văn hóa nào mà bỏ mất
lập trường siêu nhiên và thiêng liêng,
nó còn là một quyền lợi của trí
tuệ hưởng dụng, của sức phán đoán quyết định và
hành động. Chỉ có khi
nào ta tự làm chủ, đừng để trụt xuống làm
tôi đòi trước cái ý thức và
văn hóa, chúng ta mới thực biết làm chủ của vũ
trụ, văn hóa, xã hội,
văn minh và thời đại. Cho nên chúng ta đừng
vì đi học Anh, Nga, Mỹ,
Ðức, Ý, Nhật, Pháp, Tàu mà vội
vàng đứng vào lập trường những người đó,
đối với sự vật gì, trên nơi nào và thời
nào vội buông lời phán đoán,
hay vội đứng sang chủ trương mình.
Hiểu
tức là nghiệm, đuổi theo. Như thế hiểu một thời đại, nghĩa
là phải lấy
con tâm và con mắt lịch sử, nghiệm qua các thời đại
để mà đứng trên nền
tảng với điều kiện đó để mà hiểu thời đại đó. Lại
còn hiểu một văn hóa
nơi nào, nghĩa là phải lấy con mắt và con
tâm quốc tế nghiệm qua các
văn hóa mọi nơi để mà đứng trên nền tảng và
điều kiện văn hóa nơi ấy mà
hiểu. Tức cũng như hiểu một người nào, cần phải đem con mắt
và con tâm
để nghiệm trải nhân tình, thế cố, mà đứng
trên nền tảng, điều kiện và
lịch trình đời sống người đó mà hiểu.
Chúng
ta cho nên, để mà phục hưng và phục hoạt, phải lấy
một con mắt nghiêm
ngặt Việt, đứng siêu nhiên trên lập trường Việt, thi
thiết bằng những
chính sách và kế hoạch siêu nhiên
và nghiêm ngặt Việt, có một thái độ
nghiêm ngặt và siêu nhiên lịch sử Việt. Như
thế thì khoa học phục tùng
chúng ta, triết học, thuật học và lịch sử phục
tùng chúng ta để chúng
ta trên nền Người uốn bắt cho cái danh nghĩa và sự
cố Việt phục tòng
danh nghĩa và sự cố Người (cause humaine).
Dù sao phải
có một ý thức thực tại và khách quan.
Lý
tưởng tự đó mà mọc rễ, ăn sâu trong để uẩn của lịch
sử vận hành. Duy
Dân chủ nghĩa, nghiêm ngặt trong ý nghĩa Việt
trên cách mạng, chính trị
và kiến thiết của Tiểu Việt và Ðại Việt, khoan đại
trên ý nghĩa Người
trên triết học, khoa học và thuật học, hiệu lực trong
ý nghĩa công cụ,
phương pháp và vũ khí của văn hóa.
Duy
Dân chủ nghĩa là sự phục hưng và phục hoạt tất
nhiên và tiên tri cho
nên gọi nó là Thắng Nghĩa, nghĩa là thắng
hết các chủ nghĩa, vạn thắng
cả trên vật chất lẫn tinh thần.
Người Á
Ðông, nhất là những người trong hệ văn
hóa chữ Nho, ai đã
đi, tất biết đến chủ nghĩa Tam Dân mà Tôn Văn, người
sáng tạo ra nó,
gọi là một chủ nghĩa cứu quốc còn là một chủ nghĩa
cứu thế giới nữa.
Nhiều nhà
cách mạng Việt ca tụng và sùng bái
cái chủ nghĩa này lắm.
Người Tàu
đã tôn Tôn Văn lên làm quốc phụ, chủ
nghĩa Tam Dân còn là những "nguyên tắc
quốc sách tối cao" đủ biết thế nào.
Người Tàu
còn chực dẫn dắt một cuộc vận động ở Tàu gọi là
phong trào quốc tế của chủ nghĩa Tam Dân.
Tôn
Văn lại còn được người ta tôn là đạo sư của
cách mạng cho các dân tộc
nhỏ yếu, cố nhiên chủ nghĩa Tam Dân phải ở địa vị chỉ đạo
rồi.
Nhưng mà
cái thùng "tả pí lù hẩu lốn"
đó, người Tàu lại đánh cho kêu, rồi lại la
hò rối rít, đối với thế giới
phải nên coi đó như trẻ con ta đánh cái mẹt
để cứu mặt trời khỏi bị mặt
trăng ăn mà thôi (nhật thực).
Tam
Dân có thế giới tính? Ðó chỉ là
một chủ nghĩa của một dân tộc, trong sự
thật rất nghiêm ngặt của các phụ tính của dân
tộc, nhất là dân tộc Hán
trên con đường phát triển của nó bằng những nền
tảng và điều kiện thời
đại quy định ra nó sẽ có những đặc tính của
nòi giống và đặc điểm của
lịch sử kết hợp nên mà làm kim chỉ nam của một
chính trị lộ tuyến đặc
thù.
Nó
là một chủ nghĩa dân tộc, dân quyền với dân
sinh, chẳng qua là những
chính trị hình thái, chính trị kiến
trúc và chính trị quy tắc trong nội
bộ của chủ nghĩa dân tộc của nòi Hán đi lên
đường. Chủ nghĩa ấy là chủ
nghĩa gì? Ðúc các dân tộc vào một
lò để thống nhất thế giới (Tam Dân
giảng). Bằng cách gì? Chủng tộc xâm lược hay bằng
chủng tộc vũ khí như
nghìn xưa. Chủ nghĩa ấy sản sinh ra một xã hội
hình thái gì? Dân quyền
là một thứ quốc dân dân chủ chuyên
chính mà một đảng (phải là Quốc Dân
Ðảng Tàu) cầm quyền mãi. Dân sinh là một
thứ quốc gia tư bản cực quyền
mà bọn tài phiệt và nho sĩ phải làm trung
kiên. Thứ chủ nghĩa ấy đi đôi
với sự lũng đoạn chính trị của Tưởng Giới Thạch và bọn
đầu trùm Quốc
Dân Ðảng (quân, tài phiệt) đã
thành ra một cái chiêu bài nhân đạo
rất
lớn ví như cái mạng nhện mắc chết bao nhiêu con
ruồi vong quốc Việt,
Hàn. Lại, trên chính trị hiệu triệu khoáng
trương dân tộc ra đến quốc
tộc, từ quốc tộc đến quốc quân, chia xâm lược lộ tuyến ra
tám đường
diệt vong dân tộc nhỏ yếu.
Tam
Dân trên chính trị là một học thuyết như vậy.
Nếu lấy ý nghĩa đúng đắn
của triết học mà nói, nó khó thành
và khó đáng gọi là một chủ nghĩa. Nó
chỉ có thể gọi được là ba nguyên tắc quốc gia
xã hội, mặc dầu kẻ sau
hết sức nối liền Tam Dân với học thuyết Khổng Tử và truyền
thống của
Tàu, nó biểu hiện rõ rệt trong cái thời đại
khô khan vì dã tâm, một
chứng bệnh bẩn óc rất ghê gớm. Những lý tắc duy
sinh nằm trong Kinh
Dịch và Trung Dung được phát quật lên để hàn
liền chủ nghĩa duy sinh
với triết học duy sinh mới (Trần Lạp Phu) và cũ (Kinh Lễ, Lễ
Vận) của
Tàu để mà lại lúng túng với sự gắn khớp
những nguyên lý đó với dân tộc
và dân quyền mặc dầu Tàu vẫn tâng bốc Tam
Dân là có liên hoàn tính. Lại
sự hấp thụ ăn không nhai kỹ và tiêu hóa
không thông đối với các khoa
học mới đem dính vào sau Tam Dân trông
càng mâu thuẫn, đeo càng lẵng
nhẵng, tất cả những cái đó càng làm cho
óc người Tàu không có một hệ
thống và tổ chức được mà thôi. Sự phát minh kiến
thiết
giai
đoạn
luận của Tôn Văn có thể ví
như sự phát minh cách mệnh giai đoạn luận
của Lénine, chỉ là những liều thuốc cứu cấp cho một học
thuật với một
dự kế không trọn vẹn, tự trong mâu thuẫn nó
làm hư phí cả tinh nghĩa
của biện chứng đó đi.
Nói
tường tế về Tam Dân hoặc có một dịp khác, đây
cần nói, chỉ là phê phán
qua chơi những điều muốn để cho quốc dân chú ý,
nhất là hiện giờ đây có
một tụi người Việt có thể gọi là Việt gian làm tay
sai cho chính trị
mục đích của người Hán, cam tâm dịch chủ tái
nô. Bọn ấy tự xưng là tín
đồ của kẻ chực đến xâm lược đất đai ông cha chúng ta
mong hòng để báo
ơn mẫu quốc và đưa dắt Tam Dân về phía Nam, mở mang
thêm những lãnh thổ
mới kỳ cho "phòng tuyến của dân tộc Hán suốt từ
Úc Châu đến Tân Gia Ba ở phía Nam đó".
Ông sinh ở tỉnh Quảng Đông trong một gia đình
nông dân khá giả. Năm 13 tuổi, ông đến học ở Honolulu (Hawaii)
vì có người anh buôn bán ở đây, ở
đây ông học các trường tiểu học và
trung học nên chịu ảnh hưởng rất lớn của phương Tây. Năm
1883, ông trở
về nước, theo học trường Đại học Y khoa Hương Cảng và trở
thành bác sĩ. Tuy nhiên
sau đó thấy tình cảnh đất nước bị các đế quốc
xâu xé, ông bỏ nghề y theo con đường chính
trị.
Năm 1894, Tôn Trung Sơn sang Hawaii tập hợp Hoa kiều
cùng chí hướng thành lập Hưng Trung hội
với tôn chỉ đánh đổ phong kiến Mãn Thanh, khôi phục Trung Hoa. Năm 1905, Tôn
Trung Sơn hợp nhất Hưng Trung hội với một số tổ chức trong nước lập
thành Trung
Quốc Đồng minh hội
do ông làm Tổng lý. Trên tờ Dân
báo, cơ quan ngôn luận của hội, ông đã
công bố chủ nghĩa Tam dân: "Dân tộc độc lập,
dân sinh tự do, dân quyền
hạnh phúc". Từ 1905 đến năm 1911 Trung Quốc Đồng minh hội tổ
chức nhiều
cuộc binh biến ở các tỉnh miển Nam nhưng không
thành công. Ngày 10
tháng 10 năm 1911, Đồng minh hội vận động được binh sĩ ở thành
phố Vũ Xương (Hồ Bắc) nổi dậy khởi nghĩa và giành
được thắng lợi mở đầu cho Cách mạng Tân Hợi.
Phong trào này nhanh chóng bùng nổ ở nhiều
tỉnh khác. Ngày 24 tháng 12
năm 1911, Tôn Trung sơn về nước, được đại hội đại biểu các
tỉnh họp ở Nam Kinh đề cử làm tổng thống lâm
thời.
Ngày 1 tháng 1 năm 1912, ông tuyên
thệ nhậm chức Tổng thống lâm thời Trung Hoa Dân Quốc tại Nam Kinh.
Nhưng một tháng sau, ông nhường chức này cho Viên Thế Khải
với điều kiện Viên Thế Khải bắt vua nhà Thanh thoái
vị để thành lập chế
độ cộng hòa nhưng Viên Thế Khải đã phản bội,
đàn áp lực lượng cách mạng.
Ông
là một nhà triết học, ông lấy triết học để chỉ đạo
cách mạng. Sau khi
từ chức ông nghiên cứu triết học và có
sáng tác tác phẩm Học thuyết Tôn Văn
với trọng tâm là "biết thì khó, làm
thì dễ". Vợ thứ hai của ông là Tống Khánh Linh, sau này
cũng làm Chủ tịch danh dự nước Cộng hòa Nhân
dân Trung Hoa. Con trai ông (với người vợ đầu Lô Mộ Trinh
hay Lư Mộ Trinh (盧慕貞) là Tôn Khoa (孫科; Bính âm: Sūn Kē) sau
này làm Thủ tướng Trung Hoa Dân Quốc.
Ngoài hai vợ trên, theo Trung Quốc sử thoại,
ông
còn
quan
hệ
gắn
bó với "bà Nam Dương"
Trần Túy Phần, sau đổi tên là Trần Tứ[1].
Ông
đã nêu ra chủ thuyết "Tam dân" (dân tộc độc
lập, dân quyền tự do, dân
sinh hạnh phúc). Ông được dân chúng Trung
Quốc gọi là "Quốc phụ" (người cha
của đất nước).
Thanh niên
lấy làm vinh dự để nói đến dân
chủ. Dân chủ ví như thần thánh "homo res sancta
homini", dân chủ là hình ảnh giàu
có, bình đẳng và khoa học.
Căn
cứ của chủ nghĩa dân chủ là chủ nghĩa cá
nhân. Cho nên dân chủ chính
thể là kết quả chính trị của chủ nghĩa cá
nhân đó. Trong nước dân chủ
phải có tiền mới bình đẳng và sinh sản phải
tùy khoa học phát minh mới
tiến bộ. Chế độ tư bản dân chủ cố nhiên khi đầu mới thay
thế cho xã hội
phong kiến thực là cứu thế, nhưng đi đôi với tiến
hóa của lẽ vô thường,
từ thương nghiệp tư bản tiến lên công nghiệp tư bản
làm cho trong nước
giai cấp ly chia và chính trị đảng tranh. Lại từ
công nghiệp tư bản
tiến lên đến kim dung tư bản, sự cần dùng thị trường nảy
nở ra đế quốc
thực dân, từ đó đến quân hóa tư bản gieo rắc
chiến tranh cho thế giới.
Ðến mạt kỳ này, chế độ dân chủ xấu nhất, nó
làm cho nhân chủng linh
lạc, gia đình linh lạc, cá nhân linh lạc, ở
đó mà quốc gia linh lạc.
Sự
cần yếu cho tái sinh sản của tư bản nảy nở ra các
hình thức bế quan tỏa
cảng lối mới như khối Pound, khối Monroe, khối Yen và khối Franc
càng
suy động cái dục vọng diệt chủng vong quốc người khác
bằng vũ khí kinh
tế, và ở đó chiến tranh; cũng ở đó là
nguyên cớ chiến tranh chân thực
của kỳ này.
Vật
hỏng tất phải chữa. Wallace đề xướng ra lối dân chủ mới
trên truyền
thống dân hữu, dân hưởng, dân trị cũ của Mỹ.
Dân chủ mới có năm điển
hình là: chính trị dân chủ, kinh tế
dân chủ, giáo dục dân chủ, dân tộc
dân chủ và nam nữ dân chủ.
Tất
cả các kỹ thuật cần dùng để xây đắp đời mới ấy,
tác giả không nói ngoài
những phương án hòa bình của quốc tế, nó
họa may ấn định được đời sống
dân chủ đó.
Thế
nhưng dân chủ phải gồm các điều kiện toàn dân
trực tiếp, tập trung và
chân thực, dân chủ ấy mới có thể vững chắc được.
Muốn thế, ta không thể
đề xướng ra một chủ nghĩa dân chủ mới rỗng tuếch như trên.
Ta phải tìm
đến tận cội rễ xã hội của nó mà chữa. Cho
nên lý tắc của dân chủ là "làm
nghĩa vụ đi để hưởng quyền lợi" (droit
et devoir). Song ta thấy nghĩa vụ không chìu người. Muốn
phục vụ hết
nghĩa vụ, không có chỗ để giả nghĩa vụ đó. Cho
nên phải có một lý tắc
của dân chủ mới: "Có cơ hội đó, làm
nghĩa vụ đi để hưởng quyền lợi"
(chance, droit et devoir). Tất yếu xã hội phải hoàn
thành cái chế độ
hiện thực của cơ hội quân đẳng, nghĩa vụ quân đẳng, quyền
lợi quân đẳng
mới có thể có được đời sống dân chủ trực tiếp,
chân thực, toàn dân tập
trung, thống quy dưới một hình thái xã hội
có lý tưởng, phương châm, tổ
chức và quy tắc, nghĩa là phải có một kế hoạch
dân chủ, hay là một dân
chủ xã hội hóa.
Xã hội
là một tổ chức nhân tính.
Sự điều khiển nhân sinh phải bằng một chính trị có
một tác dụng tích
cực là thiết kế và chấp hành đi đôi với một
giáo dưỡng trọn vẹn và đầy
đủ, là khởi điểm và chung điểm của cái
chính trị đó. Cho nên một kế
hoạch dân chủ và một chế độ dân chủ xã hội
hóa trọn vẹn là xây đắp trên
nền tảng của những nguyên lý và quy tắc của bình
sản
kinh
tế.
Chỉ có thế ý nghĩa xã hội hóa mới đạt được
những hiệu quả dự định của
nó trong phạm vi khoáng đại của nhân loại;
có thế, hiệu suất của đời
sống loài người mới một ngày một tăng tiến theo
cách thức và nguyên tắc
của nhân loại học. Chế độ bình sản kinh tế
phải phối hợp với một kết cấu xã hội hoàn toàn
dân chủ theo hết ý nghĩa rộng của nó.
Dân
chủ làm cho loài người bất tri bất giác thực
hành chính trị dân chủ
trong cái tinh thần và tác dụng tối cao và
sung sướng của vô chính phủ.
Một kế hoạch
dân chủ phải làm trên sự phối hợp chặt chẽ
cái tinh thần của vô chính phủ, mới là
dân chủ chân chính.
Nhằm
vào thời đại Âu Châu thống trị tê liệt dưới
máy móc và giai cấp chia rẽ
mà sản sinh ra cái triết học duy vật đầy sáng kiến
và cũng nhiều sai
lầm đó. Nếu kể lịch trình tiến hóa tới nay, triết
học ấy đáng là lạc
hậu non 100 năm rồi, nếu ngày nay phải nhắc lại mà
phê phán đó là vì
cuộc cách mạng 17 với tất cả những thất bại của đệ nhất, đệ nhị,
đệ
tam, đệ tứ quốc tế, với cộng sản đảng các nước. Bao giờ
xã hội còn giai cấp, tất còn những hiện tượng với
sự đấu tranh của nó.
Căn cứ của chủ nghĩa cộng sản là lao động giai cấp đại
chúng, đó là ý
nghĩa xã hội có thể gọi như một ý nghĩa
chuyên môn. Trong giai cấp đó,
đại thể chia ra nông dân với công nhân,
nông dân đông hơn mà công nhân
ít hơn; ở đó chia ra cái mâu thuẫn mà
là cái nhược điểm chí tử cho chủ
nghĩa vậy, mà cũng ở đó khởi nêu cái
ý nghĩa chua chát của cái giai cấp
ở trong có nội tại mâu thuẫn, gây lên một sự
phân hóa đau đớn giữa
vương giả lao động, quý tộc lao động, bình dân lao
động, lao động các
nước lớn, nước công nghiệp, nước thực dân đối với lao động
các nước
nhỏ, nước nông nghiệp và nước thuộc địa. Không những
thế, sự phân hóa
ngay trong trận doanh cộng sản trên vấn đề giai đoạn
cách mạng, vấn đề chủ lực cách mạng giữa nông
và công, chủ lực kiến thiết giữa nông
và công,
một phần lớn đi đến thất bại, trên sự thực của đấu tranh
đã vùi dập dần
dà từ đệ nhất cho đến đệ nhị, đệ tam rồi đệ tứ quốc tế.
Sự
thất bại trên sự thực của đấu tranh đó gây nên
chủ yếu là bởi sự sai
lầm lớn lao của duy vật biện chứng pháp: nó chia rẽ hẳn
lý luận với
thực tiễn trong quá trình thực tiễn của thể nghiệm lịch
sử, đồng thời
nó không thể giải nghĩa một cách đúng đắn
và nắm giữ với vận dụng một
cách thiết thực tất cả những động cơ của lịch sử với luật tắc
của tiến
hóa nhân loại.
Bởi
cái bối cảnh phát sinh của chủ nghĩa cộng sản là
thời đại của Anh, Mỹ,
cho nên cái nền tảng xây dựng của xã hội
vô quốc gia đó cũng phải tùy
tính chất công nghiệp mà đặt trên một thế
giới hoàn toàn cơ giới hóa,
công nghiệp hóa và điện khí hóa.
Cái
mục đích của chủ nghĩa ấy như mọi cái tưởng tượng, tư
tưởng và không
tưởng xã hội loài người cố nhiên là tuyệt
đối, là thiện mỹ nhưng tất cả
một thể hệ từ lý luận và thực tiễn trên triết học,
khoa học và thuật
học của cách mạng, kiến thiết và chính trị phải
cho hiện thực và lại lý
tưởng mới có thể thực hành được.
Kinh
nghiệm của cách mạng 17 tỏ ra cách mạng của cộng sản chủ
nghĩa là thất
bại. Chính sách kinh tế mới đối với ba kỳ 5 năm kế hoạch
đi theo với sự
đi quay về dân tộc tự lực, tự vệ và tự quyết chủ nghĩa của
Staline, sự
tu chỉnh các chương trình của đệ tam quốc tế tỏ ra kiến
thiết của cộng
sản cách mạng là thất bại.
Sự
bị lôi cuốn vào chiến tranh, sự phân hóa
trong nội bộ, sự miệt thị các
phân chi bộ coi như tung đội Nga, sự xâm lược các
dân tộc nhỏ yếu chung
quanh tỏ ra chính trị của chủ nghĩa cộng sản là thất bại.
Sự giải tán
đệ tam quốc tế là một sự kiện quan trọng có những
nguyên nhân lịch sử
và xã hội học, ta cần phải phát biểu càng
tỏ cộng sản cách mạng là sai
lầm. Thời đại bối cảnh của sự giải tán ấy trông
vào:
1) Nội tại luật tắc
của cuộc kiến thiết Nga Sô Viết xu hướng dân tộc tự quyết.
2) Nội tại luật tắc
của cuộc chiến tranh hiện tại ở trong trào lưu sô đẩy
trên cái nền tảng giai cấp ngày nay.
3)
Nội tại luật tắc của bản thân đoàn thể đệ tam vì
các xu hướng về các
cuộc vận động trên hình thái dân tộc của mỗi
cộng sản đảng mỗi nước.
4) Áp lực
của Anh, Mỹ với nhu yếu về chiến lược của Nga Sô bắt buộc trong
thời kỳ ái quốc chiến với Nazi này.
5) Nhưng cũng coi
là một vẻ mặt và một chính sách "lui
một bước lên hai bước"
một khi hoặc do trận này dẫn khởi rối ren, hoặc chậm sau khi thế
giới
này có thể đã bị thống trị dưới một trận doanh
quốc tế nào nhân là thời
cơ thành thục lại có thể xuất hiện ra bằng hình
thái đệ tam quốc tế sau
năm năm, không thì mười năm.
Ðó
là lối xem của Duy Dân chối bỏ duy vật biện chứng,
nó tự bị đào thải
trong đường trường của lịch sử thế giới và xã hội sống
thực tiễn, dân
tộc là bản vị, giai cấp là cơ năng, sự sống non một trăm
năm nay càng
chứng tỏ như thế. Cho nên thế giới lao động cách mạng
quyết định là
thất bại, có khi nó bị chết nghẹt ngay trong thai
nghén, có khi nó đẻ
non ra.
Ðược gặp
các đồng chí lĩnh đạo trong Ðại Việt
Dân Chính Ðảng nên
được hiểu thế nào là sinh hoạt bình quân chủ
nghĩa. Tuy hiện nay các
đồng chí ấy đã gia nhập vào bản đảng phụng
hành Thắng Nghĩa, sự phê
phán không phải là nói xấu, nó
còn là những lời cảnh tỉnh, cho nên ngòi
bút của tôi không làm khách được trước
chân lý.
Sinh
hoạt bình quân chủ nghĩa chỉ có hai yếu điểm: đối
bên trong làm cho xã
hội sống đều không có giai cấp, để đối bên
ngoài tranh đòi lấy một đất
sống với thế giới cho dân không bị thiếu thốn. Tiếng
chuyên môn của
chính trị địa lý là sinh tồn không gian
(espace vital).
Chủ
nghĩa bình quân muốn căn cứ vào nòi giống
hiện tại để lập một nòi giống
tương lai. Qua giọng nói của các nhà lĩnh đạo chủ
nghĩa ấy thì không cần suy diễn lịch sử hay
nguyên lý mà chỉ cần đến những phương án
thực tiễn và bàn tay sắt là đủ.
Sự thành lập đệ tam Ðại Việt (Lý Trần là đệ
nhứt, Lê là đệ nhị), cũng
na ná như sự thành lập của đệ tam Reich. Sự tranh
đòi không gian làm
bằng thủ đoạn luồng sóng di dân (vagues
démigration) tức là thủ đoạn vũ
khí phát xít hay nazi của thực dân địa. Xã
hội
làm
sống
đều
bằng
thủ đoạn và vũ khí độc
tài.
Chủ
nghĩa ấy và đảng ấy, từ học thuyết đến tổ chức và
hình thức (như hay
dấu hiệu), đều quy định ra trước bởi các thầy nazi và
phát xít. Thủ
đoạn cũng noi theo, không có chi thay đổi.
Lòng
ái quốc của thanh niên nhiều khi vô lý, nhiều
khi bồng bột, nhiều khi
lỡ việc, nhiều khi mù quáng: đấy gọi là
chauvinisme. Thêm vào chủ nghĩa
yêu nước mù mắt ấy, lý tắc thực dụng chủ nghĩa
(empirisime) không những
đã nông nổi, bộp chộp, phi khoa học, mà còn
tỏ ra sự nghiệp mình mưu đồ
không được dẫn dắt bằng một nhỡn quang cao đại; nó mới
xứng để dẫn dắt
vận mệnh cả một nước nòi.
Chủ nghĩa nazi
và phát xít không thể thực hành được
ở nước ta cũng như thuần dân chủ, thuần Cộng Sản, hay Tam
Dân. Cái
nền tảng xã hội ta với tất cả các điều kiện văn
hóa, kinh tế, khoa học
và quân sự không để cho ta, trong con đường quốc tế
tương lai, cư xử
được theo con đường đó. Kế hoạch đồng nhân của
chúng ta chính
là một sách lược liên hợp giải phóng của tất
cả các dân tộc nhỏ yếu
trong Ðại Nam Hải cùng một huyết thống Viêm và
một văn hóa Môn từ muôn
năm về trước, nó là một chính sách
cách mạng không phải là một cương
lĩnh xâm lược. Chủ nghĩa Duy Dân của chúng ta
là phục hưng và phục hoạt
nòi giống với văn minh Tiên Rồng, không phải
là chủ nghĩa chủng tộc xâm
lược như nòi Hán, cũng không phải là chủ
nghĩa chủng tộc siêu việt như
Nhật Nhĩ Man.
Ðời
sống của quốc dân và dân tộc là toàn
thể (trọn vẹn, không vá víu lồi
lõm) lại tích lũy (phát triển theo lịch sử),
nó như dòng nước chảy
không dứt, luôn luôn bồi chút cái nguồn
sống theo nền tảng và điều kiện
các thời đại và khơi mở con đường đi, không thể cắt
ngang hay cắt dọc
lịch sử để lấy đâu làm xuất phát điểm mà đi
được cho đến tương lai.
Trong cái dòng sống không dứt ấy, người Việt trong
đời sống quốc dân,
lịch sử và thế giới ngày nay chỉ có thể nói
được: Ta sống cả một muôn năm ở trong ta, lấy sức ngầm
đó đứng lên chuẩn bị cho thời đại 2000.
Mỗi
chủ nghĩa là tinh hoa của mỗi nguồn sống tập trung lại mà
khai hoa. Sự
hấp thụ mỗi thứ tinh hoa trên tinh thần giới chung đụng của
loài người
đó, phải làm như con ong hút nhụy làm mật,
chớ như con bướm lượn cành
mà chơi, cũng đừng như lũ đồ nho nhai sách Khổng Tử
không tiêu hóa, hay
lũ đồ Tây nhai sách khoa học không biết phân
minh.
Chúng
ta chỉ cần mỗi phần trong chủ nghĩa, trong điều kiện lợi ích của
dân
tộc, châm đối theo nhu yếu của dân tộc trên một
trình độ nào và theo
một phương hướng nào.
Chúng ta nếu
chỉ đi uống thuốc bậy cũng bằng giá trị đi tự tử.
Nhưng nếu
chúng ta bắt chước Narcisse tự hoan hỷ với bộ mặt đẹp của
mình trên giếng cũng là đi tự tử.
Cành lau bắt
đầu tham dự vào cuộc sống lịch sử của nước
nòi chúng
ta từ thế kỷ thứ X, một vận đổi mới trong tang dâu của
Ðông Á, nhưng
còn là một phục hoạt lớn lao của Hồng Lạc với sự dựng lại
chắc chắn cái
nền tảng vững bền của độc lập cho quốc gia Việt thống nhất. Trong
hoàn
cảnh gian nan khốn đốn ấy, với bối cảnh chuyển biến gắt gao của quốc
vận Việt ấy, cành lau điểm trên thinh không
và thời gian một ý nghĩa và
giá trị tuyệt vời, cái ý nghĩa và
giá trị sống đó đi đôi với sứ mệnh và
lý tưởng của Hồn Sử, Tổ gốc gác và đáy tầng
Việt.
Cái
tên Ðại Cồ Việt xuất hiện ra do cành lau, mà
bắt đầu từ xung động của
hồn lau phát tiết ra hết thảy cái thực thể lý luận
của dân tộc. Cành
lau dễ mọc và dễ sống trên đồng lầy, giữa thôn
quê, trong bãi vắng, đi
đôi với đời thiếu niên thanh khiết của Ðinh Bồ Lĩnh, tỏ
lộ hết được đời
sống thực tiễn trên xung động thực tiễn của cái lý
tính thực tiễn của
quốc dân trên lịch sử và thế giới.
Những
nhu yếu thực tiễn từ ở những yêu cầu thực tiễn ẩn dấu trong
dòng sống
tiềm lưu của bình dân, chỉ có đại chúng mới
thể nghiệm được chân chính
trong đáy hồn chủ nghĩa của dân tộc, dẫn dắt và mở
đường cho lịch sử
giữa nền tảng của thời đại sứ quân. Cành lau là cờ
hiệu chiến đấu của
nước nòi mưu cầu lấy thống nhất và độc lập, vững trong
và chống ngoài.
Và cờ lau đã thắng hết cả. Cờ lau thắng lịch sử đô
hộ hơn nghìn năm. Cờ
lau thắng đô hộ khủng khiếp, thắng đồng hóa dã man,
thắng tự trị ươn
hèn, thắng chia rẽ diệt vong, thắng uy hiếp trong ngoài,
thắng tư tưởng
tối tăm, thắng nhút nhát, thắng phản tỉnh không
triệt để, thắng tất cả
những thất bại và hết thảy những đau đớn của nòi giống
dưới ách nặng nề
và ma quỷ của bốn bên, bởi cờ lau là cờ của Vạn
Thắng Vương, cờ Vạn
Thắng.
Cho
nên, cờ lau là cờ của dân tộc Vạn Thắng, bình
dân Vạn Thắng, chiến đấu
Vạn Thắng, thống nhất Vạn Thắng và độc lập Vạn Thắng.
Cờ
lau là cờ của Hồn cũ tỉnh lại, Hồn và sóng
đáy cuộn lên, cờ giống nòi
của Ðại Cồ Việt sống lại, nối dõi cái thế hệ
dân tộc đã dứt hơn ngàn
năm, xa hơn vạn năm trên lịch sử.
Cờ
lau cắm lên giữa giới vạch của lịch sử, khơi mở đời sống mới về
vô cùng
tương lai, cho hết thảy đời sống anh hùng về tương lai,
đã thắng hết cả
và cởi mở cháu con ra bằng vinh quang vô thượng. Cờ
lau là cờ của một
thế hệ mới sinh ra để làm một văn minh mới Vạn Thắng.
Cho
đến ngày nay, trên bãi hoang, nơi thôn
dã, những cành lau phe phẩy
trước gió gợn đời đời, còn nhắc lại ai oán thuở
oai hùng tất cả những
sống còn oanh liệt cũ, và sau ngàn năm (thế kỷ
X-thế kỷ XX) đến ngày
nay, giữa lúc nòi giống muôn vàn nguy cơ,
đã vi vu văng vẳng đưa những
tiếng gọi xa xăm dần dà gần lại, lanh lảnh vào trong bộ
óc và cõi lòng
của các thế hệ đời chúng ta, thức tỉnh trong đáy
hồn và đáy tầng một
cuộc phục hoạt lớn lao và vẻ vang. Nhưng bông lau chỉ mọc
ở xứ nóng,
chỉ mọc ở bãi hoang, trong biểu tượng của những linh hồn
giàu thể
nghiệm, nó còn nêu dựng hình ảnh của
muôn nghìn hồn tử sĩ trên lịch sử
bất tử, vất vơ với làn gió, sóng và nắng
yêu của bể Nam lớn, đời đời
không dứt gọi, kêu, và sống giám thị cho thời
thế tang thương!
Cờ lau là Viêm hồn, hồn dân tộc muôn
năm của Trăm Việt.
Cờ lau là cờ
Cách Mạng hồn và quân hồn của Việt.
Cờ lau là
lý tưởng của Sử vinh quang và sống tái sinh.
Lo nước là
bệnh thái của những phái thanh
đàm nói rỗng, những kẻ
lạc ngũ ngồi xếp bằng tròn chửi đời và chửi dòng
sống tiến hóa, chửi
tất cả những thế hệ mới, không ai mượn lo hão mà
vẫn lo hoài!
Quá vui
là bệnh thái của những phái "tự nhiên
không làm"
những kẻ chực làm thầy đời nhưng mà không có
năng lực làm việc thật, họ
từ tự nhiên mà đi sang siêu nhiên, bàng
quang nhòm ngó ngoài lông da và
phê bình theo giọng xuất thế tất cả những khó
làm và khổ tâm của người
làm thật.
Lại còn
những nhà chuyên môn yêu nước gọi là "ái
quốc
gia" chỉ cốt được một vài biểu thị rỗng tuếch
không ý nghĩa cho sự thực, thế là hết!
Thế nhưng mà
còn các hạng "sợ nước"?
Họ cho rằng nước mình mà độc lập thì chỉ cá
mè một lứa, đâm chém nhau
đủ chết. Cố nhiên cái nọc độc của vua quan, với phản
tuyên truyền của
quân xâm lược gây nên những tâm trạng
không khỏe ấy. Tính ỷ lại, ươn
hèn, ở đó sinh ra tính luồn ngoài
làm cho họ giật lùi sợ sệt trước sóng
gió của tiến hóa.
Ðến như
các người "vô quốc"!
vì họ thuộc về thế giới phái, cho nên họ luôn
luôn suy đoán bằng những
căn cứ mà họ đã hết sức xếp đặt trong minh tưởng. Họ
là những hạng ảo
tưởng. Họ là những nhà thần học của thiên đường
tương lai.
Sao mà người
ta còn đặt ra cái tên "buôn nước"?
Những kẻ buôn nước phải chăng là những hạng làm
quan với giặc? Những Cao Khải, Nguyễn Thân và Lê
Hoan, những Việt gian?
Không!
không! Những kẻ nói trên, dĩ nhiên muôn
người đều trông thấy rồi. Cái
tên thần bí đó để đặt cho lũ đầu cơ và hoạt
đầu, buôn cách mạng? Ðể đặt
cho những quân gian tế của đế quốc lẩn lút vào
hàng ngũ tranh đấu
chăng? Hoặc giả cố nhiên là như thế. Nhưng mà
chính danh thủ phạm là
những kẻ cách mạng thật, làm cách mạng thật
mà đầu cơ với hoạt đầu.
Những con người ấy không có chính kiến nào
xác thật, lung lay thỏa
hiệp, những con người ấy "vô đảng" (họ tự xưng như thế)
mà đảng
nào cũng có hết. Họ chỉ vì cái địa vị
và sống còn không danh dự của họ
ra khuấy hôi bôi nhọ mọi việc của cách mạng. Họ chỉ
nói bằng đầu lưỡi
(lưỡi không cuống) và chỉ làm bằng chỉ tay năm
ngón (giấu mất cánh
tay). Họ có thể là hết những cái xấu xa nhơ nhuốc,
liếm váy máu của
ngoại quốc, không biết ngoại giao của cách mạng mà
chỉ chủ trương "ngoại giao đặc biệt" ở
hải ngoại. Không có một lập trường xác đáng,
chẳng có một thái độ trực
triệt. Ðiều kiện yêu nước của họ phải là phụ thuộc của
những điều kiện
cá nhân. Chủ nghĩa, thời cơ là thủ đoạn của họ ra
buôn bán.
Lại
những ông xuất dương rồi mới ghê! Những đứa Do Thái
không có tinh thần
dân tộc đó (xin đừng động lòng, ai có tật
giật mình), quanh đi quẩn lại
chỉ oai nghi và lừng lẫy ở hai chữ "xuất dương"
mà thôi. Tất
cánh, họ đã học được những gì khi vì
dân tộc, vì quốc gia phải vất vả
dấn thân vào gió bụi, vượt trùng dương đi
cầu lẽ sống cho nòi giống? Họ
đã học được những gì và làm được những
gì? Zéro! Họ có thể mang nước và
dân đi dâng cho một nước ngoài trước khi tranh
đòi và khôi phục lại
được nước và dân ở tay một nước ngoài.
Theo đuôi
ngoại quốc thì có nhiều, bởi vì theo đuôi
cho nên kiến giải của họ không nền tảng mà chẳng bờ
bến. Ở đó, gây nên bệnh "thiếu máu"
và "thiếu óc"
cho cách mạng của dân tộc, cũng chỉ vì đó
mà những chia rẽ về lý luận
cách mạng chỉ rỗng tuếch, nhưng vẫn ồn ào ra phết ta
đây. Ðặc biệt là
những anh oắt lâu la cũng ra tuồng múa mép. Thế
mà làm lãnh tụ thì ai
cũng muốn! Những ông cụ sống lâu lên lão
làng với những tay ta đây tiền
tiến kẻ giờ chỉ muốn làm lãnh tụ của Ðảng và
tiến lên làm lãnh tụ tối
cao của dân tộc. Nhưng mà khổ lắm, cá mè một
lứa, lại không có óc tốt,
không có mắt sắc, không có tay làm,
thì làm lãnh tụ cho chết dân tộc à!
Dân tộc! Dân tộc! Mồm mồm nói dân tộc, giờ giờ
nói dân tộc, nói quá đâm
nhàm, cho đến lúc tiếng "dân tộc"
thành ra tiếng đầu lưỡi hàng tôm, hàng
cá rồi khéo cũng không tha!
Quốc gia với
dân tộc chỉ là một "khái niệm",
một tên gọi rỗng không, nếu không sung thực cho
nó một cái thực thể ở
bên trong. Cho nên quốc gia hay dân tộc chỉ là
hư danh, cái sinh mệnh
thực thể của giống nòi và toàn dân hướng
theo một lý tưởng và chính
nghĩa mới là đúng thực.
Bản thể với mục
đích của nó như thế mà thủ đoạn để đạt tới những
yêu cầu đúng đắn của nó cũng phải như thế.
Phải
nhận thức sâu sắc bằng xung động và lý tính
thực tiễn của đời sống lịch
sử, thế giới và quốc dân trên nền tảng và
điều kiện của hiện thực, suy
xét suốt hết muôn đầu nghìn mối, vạch một vạch sống
cho dân chúng với
đường đi chính trị và lịch sử của quốc dân với
dân tộc, chỉ có thế (nói
ít cho dễ đi như thế) mới có được một chính kiến
xác đáng. Thắng Nghĩa
vì hơn mọi chính kiến, có như thế mới gọi
là Thắng Nghĩa.
Có
một
Mạnh
Tử
nào
đó
bên Tàu đời xưa
nói: "Trời sắp giáng đại
mệnh cho ai, tất bắt người đó óc mỏi, gân nhừ, tim
héo, phổi mòn, đủ
chiều khốn khổ, bách chiết thiên ma, làm cho người
đó động lòng đứng
dậy mà lớn lao lên". Người nào đi tìm lẽ
sống cho riêng mình, nói
rộng ra cho một dân tộc, đều phải nan hành khổ hạnh như
thế. Người đó
phải là Thắng Nhân đã. Người đó phải tự
thắng mình trên từng bộ phận
của mình và từng cơ năng của sinh mệnh thắng mình
đã, cái thắng lợi
xiết bao gian nan, yêu cầu biết bao gắng gỏi đã, rồi mới
có thể thắng
được mọi ngoại vật. Người hy sinh là đã hy sinh rồi trước
khi hy sinh.
Chết đi là một việc dễ dàng hơn là đã chết
ở nơi tự mình một lần rồi
sống lại với thai cốt mới. Bỏ tài sản với thân thế, nghĩa
là đã tự bỏ
được mình xong lâu rồi việc mới thực hiện ra bên
ngoài.
Cho
nên cách mạng phải đi đôi với một tu dưỡng của
cách mạng mới, khác với
tu dưỡng cũ. Học hỏi của cách mạng cũng thế, nó phải
có một thể hệ đặc
biến trong tái sinh của muôn vàn học hỏi.
Không
thể tự an ủi được: cách mạng là thuần thủ đoạn,
cách mạng là thuần phản
bạn, phạm pháp. Cũng đừng nói láo: mục đích
chứng minh cho thủ đoạn.
Thủ đoạn tự chứng minh cho thủ đoạn, mục đích phải ở bên
trong thủ đoạn
rồi mới đúng. Công việc máu phải làm bằng
máu, tự máu phải là một thứ
máu có những huyết tính thuần túy, tinh
thành và tiền tiến, thì thủ
đoạn máu mới tự chứng minh cho mình được. Thủ đoạn đồng
thời phải là
bản thân của mục đích, thủ đoạn ấy mới là
chân chính.
Thế
thì đời sống đồng chí chứng minh cho thủ đoạn tự
thân là mục đích. Nhân
tài của cách mạng còn ở trong đời sống đồng
chí bồi dưỡng lên, vận dụng
sẵn những nhân tài chỉ là thứ yếu. Nhưng mà,
đào tạo nhân tài của cách
mạng phải trông vào người đào tạo. Người ấy phải
chịu khó và chịu biết
hết. Phải tham gia vào mọi khó và mọi biết của mỗi
đồng chí. Phải coi
mỗi đồng chí là một mục đích của lý tưởng
nước nòi. Phải bằng hết
phương thức, phương pháp và hình thức tùy
cá tính, khí chất và đặc
trường của mỗi đồng chí mà đào tạo cho một bản
lĩnh nền tảng về các mặt
lý luận, kỹ thuật và tu dưỡng. Ngoài ra,
còn phải đào tạo cho mỗi đồng
chí một bản lĩnh phụ đặc biệt khác. Như thế thì
công việc cách mạng
không sợ thiếu nhân tài. Thế nhưng đố kỵ và
lợi dụng thì nhân tài không
những thiếu, không có, mà dẫu có rồi cũng
hao hụt đi nữa, nói chi đến
dân chúng! Cho nên lãnh đạo nếu không
có một nghệ thuật hay một kỹ
thuật, thứ lãnh đạo đó là giả dối. Lãnh đạo
là tâm thuật. Lãnh đạo là
mục đích luận hay cứu cánh luận.
Ðồng
thời sinh sống là sự biểu hiện của tất cả cái huyết
tính thuần túy tinh
thành và tiền tiến. Sinh sống là mục đích
luận hay cứu cánh luận.
Chỉ
có sự sinh sống thực tiễn trong đời sống thực tiễn của quốc
dân với dân
tộc với sự sinh sống thực tiễn trong đời sống lịch sử và tương
lai của
nước nòi mới trỏ rõ cho chúng ta bằng một
ánh sáng rất thành thực và
soi suốt một con đường đi chính xác trong cách
mạng và kiến quốc. Phải
nắm giữ lấy sức chủ của cách mạng, điều khiển được sức phụ của
cách
mạng, kiến thiết và dự liệu một văn minh mới trên
cái phương trình thức
kỷ hà học của những hình thể tỏ lộ lên từ tâm
lý bình diện của quốc dân
đến tâm lý lập thể của quốc dân. Những thế hệ mới
của thời đại trong
con đường tân trần đại tạ của đời sống lịch sử dân tộc phải
đúng đắn và
vừa thời nắm giữ lấy cương vị chủ đạo của mình và
gánh vác lấy sứ mệnh
sáng tạo của mình, chỉ huy các thế hệ khác
bắt đi theo con đường đi của
dân tộc.
Cho
nên lịch sử là quyển truyền phả và môn học
vấn duy nhất cao sâu cho
nguyên tắc lãnh đạo. Chính trị là lịch sử
ngày nay mà lịch sử là chính
trị những ngày qua. Thời đại là cuộc sống bây giờ,
mà lịch sử là cuộc
sống những buổi qua. Sự vận hành của hai thời gian đó kết
hợp nên và
quy định ra con đường của ngày mai sau. Ðồng thời, sự tẩm
nhuần tự mình
bằng nghệ thuật sống, cách thức sống và phong vị sống
trong giữa thực
tiễn của quốc dân là tu dưỡng nền tảng. Tất cả những lời
nói của dân
chúng bằng ca dao, tất cả những việc làm của dân
chúng bằng sinh sống
đủ để trau giồi hết thảy những mục tiêu nền tảng cho những phương
lược
lâu dài về quốc phòng, chính trị, kinh tế,
giáo dục, văn hóa, xã hội,
nhân chủng và sinh hoạt của nước nòi. Những
thú vị của quốc dân biểu
hiện ra các chuyện cổ, những sắc thái quốc dân biểu
hiện ra trên nền
tảng của văn hóa đặc điểm đều là những hình
bóng với gia vị cho chúng
ta không thể không đầy đủ trong đường trường xây đắp
một văn minh "nước vối, áo the và rau muống".
Phải chăng đấy là những tiêu biểu của văn minh bình
dân hết sức ăn rộng
và ăn sâu trong sinh hoạt của dân tộc, đi đôi
với những lời nói không
lời của mỗi xó góc trên giang và của tất cả
những động tác nhỏ nhặt
trên dòng sóng đáy đều là những
tài liệu và phương pháp nghệ thuật của
chính trị. Nó là tất cả những ý thức
và tất cả những cái gì đích xác,
chúng ta phải thấm nhuần qua để mà có một
tâm thuật vững vàng trên
đường cách mạng mới. Nó là văn nghệ của quốc
dân không lời mà đủ vẻ.
Cho nên, "lòng
yêu
với
máu
đào"
của
chúng ta dỏ ra vì lòng yêu từ người
thân với những con người mà máu
chảy ruột mềm đã bén tới, cái máu
đào đó dỏ ra để sống và thờ phụng
cuộc sống chung, dỏ ra để đấu tranh với quân thù,
cùng tẩm nhuần với
quân thù trong đồng ruộng của xứ sở qua các thời
gian. "Bàn tay với đất đai",
sức lao động và trí cần cù đem mồ hôi ra
trộn với nước mắt của lòng
yêu, tất cả để không dứt mở mang đất đai, xây đắp
cõi sống, cái đất đai
yêu quý đã từng nuôi sống chúng ta,
từng để yên nghỉ ông cha và sinh
sôi con cháu, cái đất đai mà đầu mày
cuối mắt chúng ta đều nhớ, đều
quen, đều từng ghi nhớ mỗi cái khổ, cái vui, cái
hy vọng, cuộc sống,
cuộc chết, cuộc bể dâu của đời đời, nó đã
nói ra bao ý nghĩa và gồm bao
nhiêu giá trị. "Sức nhớ và lịch sử",
cái sức êm dịu và gắt gao
kia, nhờ nó đã làm nối tiếp đời đời, sức nhớ
đó để cho ta có thể sống
được không đứt đoạn trên đời sống bản thân và
đời sống đời đời. Cái
lịch sử đã cho chúng ta đầy trí tuệ và kinh
nghiệm, lịch sử đã từng
đánh thức chúng ta tỉnh lại và nhủ bảo
chúng ta tiến lên. "Bộ óc sáng tạo",
tất cả những yếu tố đó gom góp lại thành một thể
sống chung, thể Brahma
hay thể Thánh Linh, thể Bồ Ðề Ðạt Ma cho toàn thể
giống nòi trên một
dây tự lực sáng tạo truyền thống của dân tộc. Những
yếu tố đó đồng thời
là khởi điểm của hết thảy mọi văn minh, thông qua
và trau giồi bởi
tính, tình và chí của mỗi dân tộc
mà hình thành trọn vẹn mỗi dân tộc
văn minh.
Thời
đại dào dạt chảy đi lôi cuốn tất cả các thế hệ tầng
lớp theo nhau lên
thành tựu bằng một công cuộc thảm đạm của cái
tác dụng thay cũ đổi mới.
Chỉ có thế mới làm nên đời sống hoạt động của thế
giới loài người được.
Những cây cằn cỗi phải trút lá, để nhường chỗ cho
mầm mới can đảm chồi
lên đầy nhựa mạnh và sống. Những quả chín phải
nát đi, để cho những hạt
giống nảy nòi lên những nguồn sống mới.
Mỗi
thời buổi, trong dòng sống của lịch sử hoạt động như thế, phải
có một
tuổi ra cầm nắm lấy sức chủ và làm cán cốt cho đời
sống chung hết thảy.
Tất cả trong thời buổi ấy, những cái còn sót lại
cũng như những cái
đang chồi nảy, phải dưới chỉ huy của cái tuổi làm sức chủ
đó thì xã hội
mới khai thông được mà nòi giống mới sống
còn được. Chuỗi dây lịch sử
làm bằng những mắt xích như thế, đời đời ca tụng mỗi thế
hệ, dự liệu
mỗi thế hệ và hoài điếu mỗi thế hệ. Ngày qua phải
phục tùng ngày nay.
Ngày nay phải khắc phục ngày mai, nghĩa là phục
tùng ngày mai. Cái luân
hồi xoáy vòng trôn ốc có nút tết của
Phật Tam Thế đó chi phối hết mệnh
vận của loài người, như loài người muốn tự mình,
vì sống còn của xưa,
nay, mai, cả nòi giống thân ái, phải nắm giữ
cái luật tắc đó, hợp thời
mà phục tòng nó, ở đó sinh ra cái
đạo đức với viễn kiến.
Mỗi thế hệ cũ phải
biết thời cơ lui về một bản vị có ích chung.
Mỗi thế hệ mới phải
biết nắm thời cơ tiến lên ngôi báu của thời đại mới
mà chỉ huy và làm tròn sứ mệnh mới.
Mỗi
thế hệ dự bị phải thâu tóm hết những trí tuệ
và kinh nghiệm cũ; trau
giồi cho mình tất cả những điều kiện cần yếu cho nhiệm vụ tương
lai của
mình, để sắp sẵn ra nối liền dây tiến hóa.
Nhưng
mà nếu loài người không biết tự động như thế,
đào thải tất đau thảm và
ác liệt của tiến hóa tất nhiên, sẽ cũng bó
buộc làm như thế.
Không ai
tránh được luật vô thường; luật vô thường có
một phương hướng, một quy tắc với một đường lối rõ rệt của lẽ
tiến hóa.
Lẽ sống là
như thế.
Lẽ
thật thuận theo với sự làm trọn luật vô thường đó
một cách mến yêu,
nhưng có khi vì lòng yêu mến đó
mà không khỏi được bất nhẫn.
Trong
thế kỷ XX, nước Việt đã trải qua bốn thế hệ người, mỗi thế hệ
có mẫu
mực đặc sắc, nó đánh dấu cho sự tiến hóa tất
nhiên của nòi giống qua
từng giai đoạn nào. Lấy năm 1940 đây mà nói,
những vị già nua vào hạng
cha chú chúng ta từ 50 tuổi trở lên, không
còn dư địa làm chủ được thời
đại nữa. Nhưng các anh chị chúng ta từ 30 tuổi hơn cũng
không thích hợp
và có viễn kiến, cái viễn kiến có nền tảng
đích thực để mà ra dẫn dắt
cho được đời sống mới và khó khăn này trên
một văn minh mới và phải
sáng tạo cho dân tộc được. Còn những người của
ngày nay, nghĩa là 30
tuổi trở lại, 16 tuổi trở ra, đấy chỉ là những nút chuẩn
bị và liên lạc
cho một thời đại Việt lớn lao lên và sung sướng lên
trong máu xương và
đau khổ, hạng này là nền tảng của văn minh mới. Nhưng
mà chủ nhân chân
chính của văn minh Vạn Thắng mới của Việt là những con em
chúng ta 16
tuổi trở về. Họ sẽ đứng lên oanh liệt và chỉ huy
sáng suốt được lịch sử
dân tộc về tương lai.
Những
con người của 40 đâu! Xúm nhau lại thành một sức
lực, góp nhau lại
thành một trí tuệ, khơi mở đường đi cho giống nòi.
Chung quanh những
con người của thế hệ đó, tất cả các tuổi phải cúi
đầu phục tòng sự chỉ
huy nghiêm khắc, dũng cảm và sáng láng của
thời đại. Trái lại, tức là
phá hoại sự tiến hóa chân chính của tổ quốc
với tự nhiên, sự phá hoại
đó sẽ dẫn khởi một đãi lọc đau đớn mà thôi
hết. Những người của 40 phải
là những Thắng Nhân. Những người của 80 sẽ thong thả hơn,
sung sướng
hơn, lớn lao trên ánh sáng của 40. Họ thừa hưởng
cuộc Phục Hoạt sau
1.000 năm Cờ Lau mà những người của 40 phải gánh
vác tất cả những nặng
nề và hy sinh.
Nhịp
kèn của thế hệ 40 thổi. Một thế hệ ngày nay đã
chuẩn bị xong xuôi. Một
văn minh của Vạn Thắng mới ngày nay đã cấu tưởng, chỉ
còn đợi giờ thực
hiện lớn lao. Một cuộc đổi đời bằng sắt, máu, lửa để nung nấu
tất cả
những con người của 40 thành kim cương Thắng Nhân đứng
lên cao cả và
oai hùng cầm cành lau dẫn thời đại và người đời
đi, đi đến một cõi mới.
Tất cả các thế hệ sẽ kinh ngạc, sợ hãi, khâm
kính và phục tùng đi theo,
hết lòng ủng hộ cùng làm việc lớn.
Văn
minh mới này chỉ là sự Phục Hoạt và tái
hiện lớn lao, người ta hình
tượng bằng lý tắc của Totem quan để tượng trưng cho lịch sử Việt
một ý
nghĩa với giá trị để mọi người cùng hiểu được.
Văn
minh mới này trong thế kỷ nung nấu đã chín, dung
đúc đã thành. Một trăm
năm nay từ trải qua cố thủ, thỏa hiệp, hấp thụ, dung hòa,
bây giờ đã
đến kỳ phản tỉnh mà sang sáng tạo. Nhưng mà, cố
thủ, thỏa hiệp, hấp thụ
với dung hòa, người ta trên một bộ phận trên của
kiến trúc thượng tầng
chỉ có làm những việc quá tầm thường và
nông nổi, trằn trọc giữa văn
hóa Ðông với Tây, Hán với Pháp.
Những việc mặt tầng đó, những thế hệ cũ
cố nhiên chỉ có biết đến đó mà làm,
nhưng mà chỉ có thế, chỉ có những
cặn bã đó sẽ lọc và mới nổi lên mặt tầng.
Công việc lớn lao đáng để ý
nhất trong kiến trúc của các thế hệ quả là
công việc đáy tầng xây đắp
lấy cái công cụ và ý thức (tiếng, chữ nước)
nòi giống nung đúc, mài
gọt, nay tạm đã có một nền tảng. Cái nền tảng
đó phải có chính trị độc
lập mới làm cho nó thực vững vàng được, và
thật có ích để xây dựng một
văn minh Việt thật Việt được. Dung đúc tuyệt không trọn
vẹn, dung đúc
trừ phi có phản tỉnh mới đi đến sáng tạo chân
chính. Phản tỉnh nghĩa là
đem hấp thụ với đồng hóa về cơ sở của dân tộc cho
thông qua dân tộc
hình thái, lấy dân tộc làm lý tưởng,
mục đích, phương pháp và thủ đoạn
để mà sáng tạo một văn minh. Thế cho nên, cuộc vận
động Pétain ở nước
nhà có phải là cái để mà Bông
Lau ca tụng đâu? Cuộc phản tỉnh này dĩ
nhiên có một ảnh hưởng trực tiếp, gián tiếp
vào ý thức thành niên mới,
dự bị cho cuộc phản tỉnh chân chính chỉ có ngấm
ngầm trong đáy tầng
chưa bùng nổ, sửa soạn tâm điệu của mọi thế hệ cho
có một phương thức
ít nhất để tiếp thu lấy văn minh Thắng Nhân là một
trẫm triệu nổi bật
cho những ai còn mê chưa thức biết, là đêm
trừ tịch của cuộc xoay vần
lịch sử lớn lao trong dân tộc. Dĩ nhiên như thế, nhưng
mà nó chỉ là một
thứ tiến bộ lom khom và nhút nhát, còn đội
mũ cánh chuồn; nó không đứng
dậy thẳng, nó cũng không đi lên mạnh, nó
không phản tỉnh cho đến đáy,
nó không phản tỉnh bằng chiến đấu, nhưng cũng cứ
tính cho là một cuộc
phản tỉnh. Nó phải phụ thuộc cho cuộc phản tỉnh vô
hình trong đáy tầng,
đáy Sử và đáy Hồn, cuộc phản tỉnh chân
chính đã thành thục sẽ đi lên,
một sáng tạo lớn lao, suốt mặt đến đáy và hướng
thượng của Thắng Nghĩa
mới.
Ðấy, những con
người Ðáy của 40. Và là Hồn của 2.000.
Có một
ngày, những con người ấy sẽ đứng dậy tất cả.
Những con người 40
sẽ làm việc cho thời đại 2.000.
Công
việc lớn lao của thế hệ ấy sẽ Vạn Thắng. Những con người ấy sẽ từ cuộc
cứu lấy nước, giữ lấy nòi, tiến lên sáng lập một
thể hệ sống và một văn
minh mới thực lớn lao, bền vững, sáng sủa và sung sướng.
Người
ta sẽ bằng một thủ đoạn cách mạng, phối hợp với một trí
năng sáng tạo
thành tựu công việc của lịch sử suốt mặt đến đáy
và hướng thượng. Chỉ
những con người đó trong sự làm thực mới thể nghiệm ra
đầy đủ những ý
nghĩa, giá trị và công năng lớn lao của những
công cuộc cách mạng. Phải
coi xét nó bằng tất cả lý tưởng, mục đích,
phương pháp và thủ đoạn của
nó thành một thể trọn vẹn không xé lẻ,
không sai khớp và đầy huyết
tính.
Chiến
tranh là cuộc đổ máu đầy ý nghĩa. Chiến tranh
đã quyết định được hết
vận mệnh của người mặc dầu người đầy nhút nhát, ươn
hèn và sợ sệt chiến
tranh. Chiến tranh bắt thời đại đi vào những con đường mà
thời đại ngại
ngùng, do dự mãi không dám tiến vào.
Chiến tranh còn là thời cơ sống
chết, nghìn năm một dịp của những ai bị đè nén
và áp bách mong chờ. Nó
để cho mình một thuận tiện. Cho nên, lấy vũ lực ra cứu
quốc nghĩa là
đem sắt, lửa với máu ra tranh đòi lấy chủ quyền,
cái chủ quyền của tự
mình được tự do, dùng ý chí của mình
đối với đất đai, dân chúng, việc
làm, đường đi và vận mệnh của tự mình. Không
đổ
máu
tuyệt
không
mong
xoay chuyển được thời đại.
Máu biết nhớ đến chúng ta, không lo sợ, nó
sẽ đền bù hết cho chúng ta.
Máu có thể mang thay cho tầu bay, tầu bò, xe hơi,
đại bác và súng gươm.
Nói thế nghĩa là một khi có cái máu
nóng, sáng suốt và mạnh mẽ, tất mọi
việc đều thành công với cái vĩ đại của suốt mặt
trận đáy tầng dân tộc
suốt nơi một lúc cùng nổi lên tranh thủ bằng mọi
thứ. Giữ gìn lấy nòi
giống còn yêu cầu chúng ta phải dùng mọi
hình thức đấu tranh để mà đạt
tới mục đích. Không có cái mục đích
đó thì sự cứu nước thiếu hẳn đi một
phần lớn lý tưởng. Tất cả Trăm Việt phải trở về hoài
bão Tiên Rồng cũ,
trên một tổ chức thỏa đáng nhất, nó làm
khuôn mẫu cho hết thảy "nhân đạo chủ nghĩa".
Chính nghĩa tự xưa phải giả định là có. Thế nhưng
mà bao giờ chính
nghĩa đều vẫn bị lợi dụng mà không được thờ phụng
và được nghe theo.
Những hẹp hòi và kiêu ngạo của những dục vọng
phá hoại hết nền tảng
sống còn của phải trái với thiện ác. Cho
nên, muốn sáng tạo được thế
giới mới, cho hòa bình lâu dài quyết
không thể không thanh toán cho
sạch những nợ máu, nhục máu, hút máu,
tiêm máu từ xưa trên lịch sử nếu
có thể được để mà có thể kiến lập được lý
tưởng đó. Nếu không, trên bản
vị của tự mình phải đòi lại lấy "chính nghĩa" cho
tự
máu
mủ
mình,
gột,
lọc, rửa những "phi nghĩa"
trong tự máu mủ mình đi.
Ấy
thế mà đời dân chủ phải trọn vẹn xây dựng nên
để xúc tiến một cuộc tiến
hóa vượt bực. Cuộc tiến hóa vượt bực chỉ có thể
thực hiện được trên nền
tảng của dân chủ chân chính. Phải thiết thực
và đúng chắc rằng dân làm
chủ, dân phải làm chủ hết thảy cơ hội, nghĩa vụ và
quyền lợi của đời
sống tự mình, phải làm chủ được ý chí
và chế độ của tự mình thật chân
chính, phải có căn cứ và chuôi nắm.
Cái chuôi nắm chân chính của nền
dân chủ thực phải ký gửi trong nền tổ chức cỗi gốc của tự
dân chúng sẵn
có và có thể vận dụng được, phải tự có hết
thảy then chốt và thìa khóa
trong đáy tầng, để mà tự động thực hành lấy
vô luận một điển hình dân
chủ nào bằng tất cả các điều kiện. Thế nào
là dân chủ thật và đúng lại
vững? Nền tổ chức cỗi gốc đó phải do dân chúng
tương hỗ lẫn nhau dùng
các hình thức hỗ trợ và hợp tác về mọi bề,
mọi mặt của sinh hoạt từ
kinh tế đến chính trị, xã hội, văn hóa,
pháp luật. Chủ nghĩa vô chính
phủ không thể thực hiện được, nhưng tinh thần của nó phải
thấm nhuần
vào dân chủ Việt nghĩa là vào một nền
dân chủ nào có thể chân chính
dân
làm chủ được. Có thế tiến bộ mới được bình
hành, có quy tắc, có kế
hoạch và nắm giữ được hòa bình, cơm áo, tự
do và bình đẳng. Cuộc tiến
hóa phải sáng suốt, tự động, kỷ hà học và
nhân loại, có thế cuộc tiến
hóa mới xứng để cho chúng ta xướng đạo được. Phải
thành lập cuộc tiến
hóa như thế của Thắng Nghĩa, gọi là tiến hóa Việt,
tiến hóa không có ép
uổng, không có ý thức chuyên chính.
Bất cứ lối chuyên chính nào đều
không chân thật làm nổi được tiến hóa
sáng suốt, tự động, bền giai, kỷ
hà học và nhân loại.
Ðể
xây đắp thể hệ sống, trước hết tính đến cần lao. Những con
người 2.000
sẽ vất vả mà không thấy khó nhọc, nhễ nhại
mà không cảm thấy uể oải. Họ
quên tất cả; sự cần lao ấy chỉ là biểu hiệu tối cao của
huyết tính nóng
sôi trong máu người Việt cảm chiêu bằng nắng
Viêm. Sự đấu tranh chân
chính nhất là cần lao, nó sinh ra sáng tạo,
sáng tạo hết thảy một văn
minh mới; huyết tính sinh ra sáng tạo mà bằng
phương thức cần lao.
Người Việt mới của thời buổi 2.000 tự thể nghiệm lấy thật thiết
đáng.
Tất cả tâm, thân đều cống hiến cho tương lai muôn,
nghìn thuở. Họ nhẫn
nại nhưng mà hùng hồn, họ bi tráng, họ quên
hết họa chăng cả mình mẩy
chỉ còn là những mạch máu của lịch sử thức tỉnh
chảy dồn dập, dạt dào,
sùng sục: cả người đều tẩm nhuần cái ánh
sáng thiêng liêng đó, nó dẫn
dắt cả một nòi giống lên lớn lao. Suốt nơi và mọi
lúc đều như thế cả;
họ sẽ làm cho lịch sử và thế giới kinh ngạc, kính
phục và sợ sệt.
Họ sẽ thắng hết những thất bại của lịch sử và tâm
thân.
Cùng một
luật tắc như trong sự tân trần đại tạ, các
thế hệ, các
tầng cấp dần dà và lần lượt hết mỗi tác dụng chủ
đạo của mình trong đời
sống quốc dân để nhường bước cho mỗi tầng cấp mới. Những cuộc
cách mạng
dân tộc trên sử Việt, những cuộc cách mạng
nào đã chân chính làm đạt
được nguyện vọng của dân chúng và làm được
đúng đường đi của nòi giống,
đều chỉ đo bằng mỗi thế hệ thực tiền tiến và những tầng cấp thật
đa số
mới đủ sức và trí viễn kiến và dũng cảm, đủ huyết
tính ra gánh vác công
việc lớn lao của thời đại trao cho.
Chỉ có thế
hệ thực tiền tiến mới đủ đại biểu được tương lai.
Chỉ có tầng
cấp thật đa số mới đủ đại biểu được dân tộc.
Tương lai tỏ lộ
trong óc mới của thời đại và viễn kiến.
Dân
tộc tỏ lộ trong sinh mệnh thực thể của toàn dân và
chính nghĩa của kiến
thiết. Tiến hóa là làm bằng hai nền tảng điều kiện
đó. Cách mạng chỉ
tìm được trong hai điều kiện đó một nền tảng và
đường đi lịch sử, chính
trị đúng chắc và tất thắng.
Thế
hệ của thanh niên và tầng cấp 98% của quốc dân Việt
chính là đáy tầng
dân tộc Việt. Thanh niên bị giày xéo dưới sức
nặng của các thế hệ và
quốc dân bị lấp láp dưới xây đắp của các đặc
quyền, chỉ có thế hệ ấy
với tầng cấp ấy chân chính là đáy tầng Việt,
tức là sức gốc của Việt.
Làn
gió phục hưng dân tộc và thời đại không thổi
trên mặt tầng, trái lại
chỉ thổi dưới đáy tầng để cuốn dậy làn sóng
đáy. Những gió ấy và sóng
ấy duy nhất có lực lượng để lật đổ hết thảy những thứ gì
trên mặt.
Làn
gió đó là làn gió Hồn và
làn gió Sử.
Ở trong đáy
lòng người, nó là gió lòng.
Sự
thống trị của dị tộc thành lập ở sự bàn cứ trên mặt
tầng với sự thỏa
hiệp của đặc quyền. Mạch máu và tâm hồn của
nòi giống vì đó tránh mặt
tầng và đặc quyền mà trở về đáy gốc.
Sự
thống trị của dị tộc thành lập trên sự cằn cỗi của
nòi giống. Mạch máu
và tâm hồn của nòi giống vì đó
tránh hết cằn cỗi mà chìm xuống đáy rễ
để nùng nục lên những chồi mới.
Làn
gió đáy thẩm thấu suốt đáy tầng của dân tộc.
Người
của 40 làm việc cho thời đại 2.000 đều đã được thấm
thía, cảm thấy một
cách sâu sắc và ghê rợn, họ đều rùng
mình, và trong sức giác ngộ lớn
lao, họ đã đứng dậy mạnh mẽ đến vô địch. Tự tay họ, họ sẽ
mở rộng thời
đại và sáng rọi văn minh. Thời đại với văn minh phải
tìm lẽ sống với lẽ
thật trong những nguyên lý bản thân của sinh mệnh
và việc làm. Sinh
mệnh là tự thể. Thời đại chỉ là sự kết thành của
sinh mệnh. Việc làm là
sự giao hỗ phức tạp giữa tự thể với vũ trụ. Nếu muốn đạt tới mỗi
hình
thái và phương pháp của văn minh nào mặc
dầu, chỉ có thể tìm trong việc
làm của sinh mệnh những lẽ thắng. Việc làm là biểu
hiện của sinh mệnh
ra bằng hết cả sức lực vật chất, kết quả hình thức với hiệu dụng
mỗi
màu, mỗi vẻ cùng tất cả những duyên quả chằng chịt
lại của vũ trụ và
sử. Tất cả tóm lại là Thực Hiện.
Toàn
thể chúng sinh hướng theo một lý tưởng và mục
tiêu chung để tiến tới
trong đường trường của Thực Hiện đó, cạnh tranh nhau, đãi
lọc nhau và
tiến hóa lên. Chỉ có những nòi giống
không dày công sinh mệnh với đủ
pháp, việc làm, mới chịu lùi bước, bị đè
nén và chìm vào diệt vong. Làn
gió đáy đã nổi dậy thức tỉnh mọi người bằng những
cảm giác đó mà thôi,
những cảm giác ấy, nói tóm lại là Thắng
Nghĩa. Làn gió đáy mang lại
Thắng Nghĩa.
Không
gì thổi réo rắt, nghiến rít bằng làn
gió đáy. Nó như thổi hết thảy
5.000 năm, tất cả những hơi lạnh người chết và hơi rợn linh hồn
của
toàn thể thiêng liêng chồng chất trên thứ bực
của tiến hóa, đem dồn dập
lại mà đánh úp một thế hệ chúng ta.
Gió ấy như một chiếc roi thép quất
chúng ta dậy, đau buốt tới xương tủy, thấm tận đáy hồn
dân tộc và đáy
lòng mọi người. Sự Phục Hưng ở đó mà ra,
làn gió ấy tự ở đáy Sử mà
thổi, sẽ lôi cuốn hết đáy tầng, đoàn kết lại một
mặt trận gốc.
Chúng ta sẽ
phản tỉnh lại và tự hỏi: "Trải 5.000 năm nòi giống
chưa bị diệt vong, phải có một lẽ gì? và phải
có việc gì để mà làm?"
Chỉ có những người ở dưới địa ngục mới thực nghiệm thấy
cái đau khổ của
nòi giống và chúng sinh, người ấy sẽ phản tỉnh
mà tìm tòi cái lẽ thực
của đau khổ. Chỉ có người ấy mới thực được giác ngộ với
ánh sáng lớn
lao của trí tuệ cảm chiêu. Chỉ có người ấy mới thực
nguyện ra cứu vớt
nòi giống và chúng sinh. Chỉ có người ấy
làm được việc lớn bằng một sức
sinh mệnh lớn lao cảm tự đáy hồn để mà hoàn
thành cái đạo lớn cho loài
người. Ấy thế, lẽ sống và lẽ thật của Phục Hưng là như
vậy.
Những
con người của 40 là những con người của cái thế hệ
và tầng cấp Việt đáy
tầng tự ở dưới áp bức đen dày và nặng nề mà
lớn lao lên, cởi mở hết
xiềng xích cho mình và phá tan hết những
màn tối, quét sạch hết hôi
tanh và đánh chết hết thù địch.
Những
con người ấy vì Tổ Quốc Việt. Tổ Quốc Việt chỉ là một tổ
quốc đáng yêu,
đáng kính, khi tổ quốc Việt chân chính biểu
hiện được lẽ sống và lẽ
thật, tất cả lý tưởng và chính nghĩa. Những con
người ấy sẽ thực hiện
tự mình, xã hội và dân tộc bằng tất cả những
hương hồn và chính khí mà
làn gió đáy mang đến cho tức là nhân
cách và danh dự.
Trang Tử
nói: Ðường sống có bờ mà
đường biết thì không bến,
cho nên tìm biết là tìm chết. Thế nhưng
mà thực ra từ mặt cá nhân cho
đến suốt mặt loài người, từ cổ tới nay, có biết mới sống
được, biết là tất yếu của sống.
Sống với biết là hợp nhất. Cho nên quan hệ của sự sống với
sự biết có thể phân ra ba điều mà nói.
Biết là
cái trục của sống. Descartes nói: "Je pense donc je
suis". Nhưng ta có thể nói: Tôi sống
vì tôi biết. Biết là công cụ của đời
sống, đồng thời là nền tảng và yểm hộ của sống.
Phạm
vi của biết đó là phạm vi của vũ trụ. Biết đến đâu
tức là vũ trụ đến
đó. Biết thẩm thấu vào cái thái cực nhỏ
(infiniment petit) cho đến thái
cực to, cho đến cái vô cực.
Phạm
vi của sống khai tịch và phát triển theo thủy chuẩn của
biết, lịch sử
đã chứng minh như vậy. Cố nhiên hoàn cảnh và
kinh tế xúc tiến cái biết,
nhưng mà cái biết phải lãnh đạo hoàn cảnh
và kinh tế, lý luận phải lãnh
đạo thực hành, mà thực hành phải xúc tiến,
chứng minh và tu chỉnh lý
luận.
Có
những hạng người cần biết mới sống được. Biết là cứu cánh
ý nghĩa của
nhân sinh. Có biết mới có khả năng sống được thực
tế, nghĩa là sống
trong cái chân ý vị dồi dào
của đời người. Miệng núi
Fuji-Yama đã từng nuốt sống mấy trăm thanh niên Nhật Bản.
Những người
đó vì lý tưởng của cả cái quốc gia non nớt
của họ, vì cái phương châm
đời sống của họ, đã vì cái chưa biết, cái
không biết được, vì cái ám
ảnh của triết học tối cao, đem vùi thân vào
cái chưa biết được để tìm
tòi và an ủi.
Cho nên
cái biết của loài người nói tóm lại
có thể chia ra ba phương diện:
A. Cần
biết về nguyên thủy:
a)
Cái căn để của trời đất, tự đâu mà sinh, nghĩa
là tìm cái tối viên mãn,
cái tối thái sơ, cái tự kỷ nguyên nhân
(la cause en soi) nó hoàn thành
vũ trụ.
b) Cái căn
để của sự vật, ở đâu mà đến; nó là vật,
nó là tâm, nó là lý hay
là lực?
c) Cái căn
để của tự mình, cá nhân và nhân loại
từ đâu mà có, ở đất bùn nặn nên hay tự
tiến hóa nội tại?
B.Cần
biết về cứu cánh:
a) Cứu cánh
ý nghĩa của nhân sinh: Sống để làm gì?
b) Cứu cánh
giá trị của nhân sinh: Sống với ý vị gì?
c) Cứu cánh
y quy của nhân sinh: Sống gửi thác về, biết đâu
là quê ở?
C. Cần
biết về chân tướng:
a)
Chân tướng của tự mình: nhân thân tiểu
thiên địa, mâu thuẫn đầy dẫy,
nào biết cái chủ ngã ở nơi đâu, biết lấy
cái gương nào mà soi thấu?
b) Chân tướng
của sự vật: xã hội với tự nhiên hỗn hỗn, mang mang, phức
phức, tạp tạp.
c) Chân tướng
của chân lý: mịt mịt, mù mù, lấy đâu
làm tuyệt đối?
Loài
người bởi để yên định sự sống của mình trong vũ trụ,
cá nhân, xã hội,
không thể không đi tìm cái tuyệt đối,
cái nhất định của ba phương diện
biết kia. Cái công việc lập tâm cho trời đất, lập
mệnh cho nhân sinh,
kế vãng khai lai, tức là ở nơi tìm cái chốt
trục của trung tâm vạn vật,
lấy cái đó để giữ vững mặt trời với địa cầu, bởi
loài người phải tin
mãi rằng có tìm thấy cái đó mới
tránh khỏi hủy diệt. Ðông Tây kim cổ,
Nho thì cần biết tính, biết mệnh, tri chí, tri
chủng. Phật thì cần minh
tâm huấn tính, đại giác, tự giác. Lão
thì cần học tiên tu đạo, trường
thọ, tồn chân. Gia Tô thì cần thánh linh mặc
khải, thể nghiệm Chúa
Trời. Rồi ra cái biết của loài người đi từ tuyệt đối luận
(dogmatisme)
đến vô tri luận (agnosticisme) cho đến kinh nghiệm luận
(pragmatisme),
hoặc giả vô thần (athéisme), hữu thần (théisme),
phàm thần
(panthéisme), hoặc giả duy tâm sử quan, duy vật sử quan,
duy sinh sử
quan, ba bề bảy mối. Than thay thanh niên! đời như hoa xuân
mới nở,
lòng như hạt móc ban mai, vừa bước chân ra khỏi cửa
nhà, xa nơi gối mẹ,
vội cảm thấy bốn mặt xoay vần, đường đi sai lạc, bởi muốn tìm
cái sống
ở nơi tự mình cho nên khổ vì muốn tìm
cái biết.
Dù sao sống
nghĩa
là
bả
ác
được
tự mình.
Hãy nên tự giác (Connais-toi toi-même).
Hãy tự kiến lập lấy một sinh
mệnh hệ thống, lấy cái chủ ngã tối viên mãn
ở trong nơi tự mình, làm
tối cao thống súy cho tự mình. Herriot nói: "La
connaissance
cest
ce
qui
reste
après quon a tout oublié"!
Biết nghĩa là cái gì còn thừa lại sau khi
người ta đã vứt quên những cái khác.
Cái gì còn thừa lại? Ta (moi-même).
Ðầy
dẫy những hạng trụy lạc trong mê say, lạc ngũ trong tranh đấu,
thất
vọng trong tình đời, hối hận trong hành động, đắm đuối
trong bến mê,
những hạng ấy nhiều vô kể, nhất là trong đội ngũ những trẻ
trai tự nhận
nhầm là có trí thức.
Những
hạng ấy bao vây bởi tối tăm, cùng khổ mà trở về
mình, gục đầu trên cái
hình hài cũng tối tăm của mình. Hãy tưởng
tượng một cái xác chết đầy
những ròi nhung nhúc không ghê tởm bằng,
không đau thảm bằng trông thấy
những linh hồn rữa nát và cáu bẩn bởi những
ám ảnh mà quốc gia dân tộc
ta dầu cho muôn vàn xâm lược giày xéo
cũng không đáng kinh sợ, cũng
không đáng thất vọng bằng trông thấy những thanh
niên yêu quí của ta bị
xâm lược, bị thống trị, bị bóc lột, bị áp
bách, bị hình giảo bỡi những
bóng địch tối tăm. Họ tự chết dần trước khi chết, nghĩa
là quốc gia dân
tộc ta cũng đi với họ mà chết dần dần, ngắc ngoải một
cách đau đớn, ê
chề, trước khi diệt chủng.
Ðối với thanh
niên sẽ phát sinh vấn đề thần linh với tâm
lý.
Ðáng
lẽ ra một người dân khỏe trong một nước khỏe, thì
trên nền tảng sinh lý
là tầng tâm lý vận dụng rất linh hoạt. Nhưng
mà trên mặt tầng tâm lý
của họ sẽ nẩy nở ra vô số những sức lực gì vô chất
và kỳ quái, những
hình ảnh gì vô căn và dữ tợn; ở đấy họ thấy
cái tâm lý của họ chỉ là
một bộ máy lệ thuộc cho một cái gì vô
hình mà gọi là thần linh. Bản lai thần linh
với tâm lý là một thể sống tối viên mãn,
gọi
là
Như
Lai
Tạng
(Lăng Nghiêm Kinh) tóm
góp lại bằng những tất cả
nhân tố tối tinh hoa của các plan physique, mental
và astral hợp thành
một tướng (système) bao gồm vía, phách, lý
trí và đạt ma. Tâm lý cơ cấu
đã kiện toàn thì nhân cách sẽ thống
nhất, cái sinh mệnh hệ thống sẽ
không phân chia, mà cho ta một đời sống xán
lạn.
Còn
những hiện tượng hồi cố ví như réminiscence, ví
như Mạt Na Thức của nhà
Phật, nó chỉ là những tăng tục tính tích
lũy trong cái quá trình sống
còn của cá nhân với xã hội theo cái
bước đi lũy tiến của lịch sử và
hoàn cảnh. Vậy thì những sức lực và hình
ảnh kỳ quái trên kia, đó là
tâm lý bệnh. Nguyên lai của bệnh đó chia hai
phương diện mà nói:
a) Hoàn cảnh
suy lạc của quốc gia, xã hội, gia đình và tự kỷ
trong cái thời đại thực dân, và kinh tế phá
sản này.
b)
Giáo dục và bồi dưỡng thuần túy trong cái
khuôn khổ tiểu thuyết khiêu
dâm, lãng mạn, bi quan, yếm thế, hành động trụy lạc
và đắm đuối, quan
niệm sai đường và ái tình vặt.
Còn những
nguyên nhân trực tiếp từ nơi tâm lý hủy hoại:
a) Phản tưởng
(arrière pensée) làm cho người với người ngờ vực
nhau, làm cho tâm cơ càng phức tạp và ranh
mãnh.
b) Hắc tưởng
(pensée noire) càng làm cho tối đen tinh thần sinh
hoạt và càng làm tê liệt cho vật chất sinh
hoạt.
c)
Ảo tưởng (chimère) làm cho thanh niên sống say,
chết mê, bàng hoàng,
như hồn bướm mơ tiên, sống một cuộc đời nửa chừng xuân dằng
dặc.
Những
người đó gần như hết là tự hoại, tự diệt, tự nhơ
mình mà làm nhơ cả
quốc gia. Chỉ có những hạng người ấy, hơn ai hết tự tư, tự lợi,
không
hy sinh nổi cá tính, không hy sinh nổi cảm
tình, vì thân họ là thân nô
lệ của những sức lực vô chất, với những hình ảnh vô
căn, kỳ kỳ quái
quái. Họ không phải là con đẻ của tổ tông ta,
họ không phải là chiến sĩ
của thời đại, không phải là phần tử của quốc gia,
xã hội, dân tộc. Ví
như Tôn Văn đã nói: "Người là cái
khí cụ của tâm hồn, nước là do
người góp chứa nên, quốc gia còn mất, thịnh suy,
là trông vào lòng
người phấn chấn hay ủy mị". Những bệnh chứng của họ có thể
phân chất ra như thế này:
a)
Ám ảnh cáu bẩn như sức ma vào tinh thần, sức quỷ
dẫn dụ đưa dắt, trói
buộc và hình giảo, không cho họ sung sướng,
mà chẳng cho họ hối hận.
Fran篩s II kêu: "Que
de
sang!
Que
de
sang!" trong một cuộc ngắc ngoải khổ não.
Ngô Tôn Sách chết với vô vàn
bóng ma Vu Cát.
b)
Thắc loạn: (tức là các thứ manie) có cái
manie đi ăn trộm, có cái manie
giết người như Ngọa Triều bên ta, có cái manie
là cho thơ thơ thẩn
thẩn.
c) Tự sát:
đừng cho người tự sát là can đảm hay nhút
nhát; nó chỉ là những hy sinh phẩm của tụi quan
ôn thần kinh bệnh.
Làm
sao mà họ mắc mà không biết, biết mà
không chữa, chữa mà không được. Họ
tiêu cực đối chọi với hoàn cảnh, đổi không
khí, họ bị dẫn đạo bởi ánh
sáng, cái ánh sáng thảm đạm và lạnh
lẽo của chúa Diêm Vương vô tình. Ôi
nihil! ôi nihil! hư vô là hư vô, hư vô
là cái vực âm thầm và không
đáy.
Xét
cái tinh thần của người ta, cá nhân và
xã hội không ngoài mấy tác dụng này:
1) Tiềm di
mặc hóa:
dần dà vì ảnh hưởng xung quanh. Nước suối trên non
thì trong, nước suối
xuống đồng thì đục, từ cái lành sang cái
ác chỉ cách một tóc một tơ.
2) Tự kỷ
ám thị (autosuggestion): một vài ý nghĩ ấy
tự trói buộc mình cũng đấy mà tự bồi dưỡng
mình cũng đấy.
3) Tinh thần
thôi tróc(somnambulisme):
có những thầy phù thủy cao tay đánh đồng thiếp,
nhưng mà không cứ, có
nhiều phương thức mà nhiều nhà chính trị cũng
dùng tới để bóp cổ nhân
dân.
Cho
nên ta xét thấy những hạng người kia, muốn tự chữa
mình, mà cũng chỉ có
thể tự mình chữa lấy được mà thôi, thì
hãy cố tâm trầm tiềm duồng dẫy
hết thảy những cái bậy bạ của thiên mệnh tiền định luận
dung tục
(déterminisme). Hãy co kéo nó về. Nó
là ai? TA (moi-même).
Cho nên người
ta muốn chữa cái bệnh thần kinh này thì thờ mấy
chủ nghĩa:
a) Tự do
ý chí: muốn, làm, biết tự do, đó
là chân tự tại, chân giải thoát.
b) Tự kỷ
ám thị:
Cái thiên căn của trời đất với cái thiên căn
của tự mình, ở nơi một
lòng tín ngưỡng chặt chẽ nhất (la foi, credo), tín
vi đạo nguyên công
đức mẫu (Hoa Nghiêm Kinh). Người đã kiến thiết cái
lòng tin này, ta bảo
đảm sẽ thành vĩ nhân. Napoléon, Alexandre le grand,
Jésus Christ,
Mahomet, Phật, Lão, Khổng, Gandhi, Hitler chẳng qua là
những người làm
bằng cái lòng tin đó.
c) Ðộc
lập độc hành:
không phải là cá nhân anh hùng chủ
nghĩa, không phải ưu thế thanh đàm
chủ nghĩa, chỉ là sự cố gắng lớn lao, của một người trong những
người,
chỉ là sự cố gắng ở nơi tự mình.
Thiệu Tử
nói: "Thánh cũng chỉ là người, nhưng đấy
mới thật là người". Biết thì ai cũng biết cả,
nhưng biết chân thật mới là biết.
Ta còn dặn
thêm mấy nguyên tắc đề phòng bệnh thần kinh:
a) Cẩn thận khi một
mình, một mình đối diện với lòng, đừng để cho
ý dục sai khiến.
b) Cẩn thận khi mới
đầu. Tưởng Ủy Viên Trưởng nước Tàu nói: "Cùng
lý
ư
vạn
vật,
thủy
sinh chi xứ, nghiên cơ ư tâm
ý sơ động chi thời".
c)
Cẩn thận từng cái nhỏ, những cái mấp máy của
lòng, tâm tâm niệm niệm,
xem xem, niệm Ma hay niệm Phật, lỗ kiến vỡ đê, mồi lửa
cháy thành. Phàm
cái gì lớn lao và những cái tối trường cửu,
đều gốc gác ở những cái
nhỏ. Thôi đừng tự kỷ tác quái.Câu phương
ngôn nói: "dương thịnh âm suy, máu xấu ma
làm, nước suy quỷ hiện", có đúng hay
không đúng?
Từ tối cổ tới giờ
có thể chia lịch sử loài người ra
làm ba thời kỳ;
sự thành lập của mỗi thời kỳ đó đặt để trên những
nền tảng xã hội với
điều kiện kinh tế, văn hóa quy phạm, với thực học thủy chuẩn
nhất định: Thời kỳ thứ nhất là thời kỳ thần
học, thời kỳ thứ hai là thời kỳ triết học, thời
kỳ thứ ba
là thời thực học. Ðó là theo cách chia
của Auguste Comte. Nếu chia theo
Weber hay Hobhouse thì loài người từ tối cổ đến bây
giờ có thể chia ra
làm năm thời kỳ: dã man, nông nghiệp, trung cổ,
quá độ thời kỳ và văn
minh. Chia thế nào thì chia, tổng chi ta được một kết
luận là bất cứ ở
thời đại văn hóa hay lịch sử nào, cái tối cao
nhiệm vụ của nó là kiến
thiết con người, mà con người quy phạm là sản vật hạn
định của thời
đại, văn hóa và lịch sử. Thời đại, văn hóa với
lịch sử đó là cái hoàn
cảnh lũy tiến của loài người mà tự nhiên với
xã hội là những hoàn cảnh
không gian bất di bất dịch.
Cho
nên biết hoàn cảnh bao vây, quy định, làm
sống hay tiêu diệt mỗi người
là tùy theo cái bản thân năng lực. Ta thấy
hoàn cảnh của mỗi người có
thể bao gồm bào thai hoàn cảnh, tự nhiên
hoàn cảnh, xã hội hoàn cảnh,
giáo dục hoàn cảnh, thời đại hoàn cảnh. Hơn nữa,
ta thấy ngoài những
hoàn cảnh ngoại tại, còn những hoàn cảnh nội tại
bó chặt ta hơn, như
thanh, hương, sắc, vị, sức, ý, với lại tai, mắt, mũi, mồm...
há chẳng
phải là những thứ lục trần, lục thức như nhà Phật
đã nói: "đã mê dụ ta, đã khốn
quẫn ta, đã tiêu diệt ta nữa". Bất quá lịch sử
là sự biểu hiện toàn bộ cái ý chí
sinh tồn và cái ý chí thực hiện của
loài người.
Ta
thấy rằng loài người bằng những công cụ siêu việt
là: óc, tiếng nói,
tay... vận dụng những công năng siêu việt là lao
động, sáng tạo, cải
tạo, tự kỷ và hoàn cảnh, nối tiếp vật lộn để đạt tới
cái trình độ văn
hóa như ngày nay.
Thần
linh với tâm lý, nếu ở trong một con người không
có một sinh mệnh hệ
thống vững bền và thống nhất, thì thời đại, văn
hóa với lịch sử hết
thảy những sản phẩm của nó đều biến thành những sức lực
vô chất và
những hình ảnh vô căn đến xâm chiếm và nhiễu
loạn ta.
Mỗi
tiếng nói, mùi thơm, màu sắc, vị ăn, ý muốn
luôn luôn lẩn quẩn thành
những quân thù địch vô hình muốn làm
hại mình thôi. Cho nên sống nghĩa là
chi phối một phần nào cái hoàn cảnh;
luật tắc khoa học đã quy định xã hội đã chi phối
từng người, nhưng mà ý
chí từng người trái lại có thể chuyển biến được
xã hội. Nhân định thắng
thiên, sự phát hiện được cái phạm trù Người
là một công
cuộc tối vĩ đại của triết học đời Phục Hưng (Renaissance) bên
Tây và
đời Xuân Thu Chiến Quốc bên Ðông. Thanh
niên ta ngày nay, châm đối hoàn
cảnh khó khăn của dân tộc và cái nhiệm vụ
khốn khổ của thời đại, trước
hết phải phát hiện được cái phạm trù Người
ở nơi thân mình và ở trong cái nội tại của
phạm trù đó, phát hiện được cái tối vĩ đại
và duy nhất là TA.
Phải
chăng
tìm
cái
chốt
của
đời sống mỗi người một trăm năm,
và đời sống của
loài người muôn vạn thế, bao nhà tôn
giáo, triết học, khoa học, chẳng
qua chỉ là góp những tài liệu chung quanh
cái vấn đề trung tâm là nhân
sinh quan và nhân tử quan, thống nhất trên một mối
sống.
Ôi đạo sống
khó thay! Sinh thế dị, trưởng thế nan. Thế thì
loài người nghe đạo phải có tinh thần"chiêu
văn đạo, tịch tử khả hỹ"
nghĩa là sớm được nghe đạo dù chiều chết cũng vui. Người
sống còn ví
như người trong nhà bước ra khỏi cửa để đi đến một mục
đích địa điểm
nhất định, phải đã sẵn có cái mục tiêu nơi
lòng, trong cái quá trình đi
đường phải biết hấp thụ những tinh hoa và kinh nghiệm chung
quanh để đi
tới nơi bằng một tinh thần sảng khoái. Cho nên cái
ý chí nguyên bản của
mình phải nhất định. Những tinh hoa và kinh nghiệm trong
cái lịch trình
đó chỉ là những cái tài liệu tích
lũy vào cái ý chí nguyên bản,
càng
phong phú dồi dào vào cuộc sống thêm
viên mãn, mỹ lệ.
Có thể chia:
1)
Thiết lập một phương châm sống và lý tưởng
làm nguyên bản. Có thể nói:
Nhân sinh chi kế tại ư xuân. Lúc thanh niên
chính là lúc mình lập chí.
Hãy nghe:
Nếu hoa xuân
nở ngọn cây
đó là
để xui giục lòng người đi tìm ánh sáng đạo
nếu trăng thu
chìm đáy nước
đó là
hình tượng cảm hóa chúng sinh
và tất cả
chúng sinh
đó là
tái sinh
trên
cùng một bông liên hoa.
2)
Bằng cái lý tưởng phương châm sống, kiến lập một
cái sinh mệnh chủ quan
tuyệt đối có tính chất tiến hóa và
sáng tạo, trong quá trình đời sống,
hấp thụ thiên nhiên với xã hội tinh hoa, sung thực
và phong phú sinh
mệnh tài liệu của mình cho đời càng được triết học
hóa, xã hội hóa, và
nghệ thuật hóa.
3)
Dumas nói: Phải trông cái chết thẳng trước mặt.
Ôi đạo chết khó thay!
Biết bao kẻ sống chết như cây cỏ nát, vô ích
cho nhân loại, cho dân
tộc. Biết cái chết mới kiến lập được cái quyết
tâm. Biết cái
sống mới dám đem lòng hy sinh. Biết cái cực chất
của sống với chết ở
nơi tự mình, mới hiểu rõ được cách đặt để
mình vào xã hội. Có
ba hạng làm việc: làm thầy đời, làm bạn đời,
làm tôi đời (travail de
maitre, travail dami, travail de serviteur). Mà làm việc
đời cũng có ba
hạng người: quyết tâm, thực hành với trí giả (homme
de coeur, homme
daction, homme desprit). Phải nên hiểu mình thích
hợp với cái khí chất
gì, nhiên hậu mới quyết định cách làm của
mình. Tóm lại một lãnh tụ
phải đủ ba đức tính: có thể là nhà
lý luận, đồng thời là nhà hành động
và nhà tổ chức, không thế thì không
được.
Trong
quá trình sống của mình, hạt bụi, sợi cỏ, từ
cái rất nhỏ đến những cái
rất to, từ cái vô hình đến cái hữu
hình, đều là tài liệu của biết. Biết
là trục của sống, mà học là cửa của biết.
Ôi
đạo
học
khó
thay!
Cùng một cửa mà ra
thiên tài, mà ra nô tài, mà ra
nhân tài.
Cho nên dạy
người hay cầu học tóm lại có ba phương châm:
1. Nuôi
tâm sinh thiên tài.
2. Nuôi
óc sinh nhân tài.
3.Nuôi
thân sinh nô tài.
Trong
trời đất, nhiệt với thành là hai yếu tố nguyên thủy
và hoạt động. Vạn
vật ở đó mà ra, tình, ý, chí đều ở
đó mà ra. Nhưng tất cánh nhiệt với
thành chỉ là những thể chất đồng chất (homogène)
thuần túy tự năng và
tự động, trải qua một quá trình sung thực tình,
ý và chí, đem tình, ý
và chí quy lại một lý tưởng tối cao và biểu
hiện ra một trung tâm công
tác hóa.
Dạy người vời cầu
học là một công việc đồng đạo đối lưu. Có ba lối
học:
1. Ðắc
ý vong ngôn như Trang Tử, như Nhan Uyên,
Ðào Uyên Minh tự lực, độc thiện kỳ thân như
võ siêu trần bạt tục.
2. Nhập nhĩ
xuất khẩu, vào tai ra mồm, vô ích thực tế.
3. Nhập
lý xuất sự, học tập với làm việc thống nhất,
lý luận với thực hành không chia, nhân
cách trung dung, tư tưởng chấp dụng.
Có bốn cửa
học:
Nhập nô xuất
chủ
Nhập chủ xuất
nô
Nhập chủ xuất chủ
Nhập nô xuất
nô.
Dân
tộc ta sở dĩ sức thừa độc lập mà suốt trên lịch sử mấy
ngàn năm vẫn
không triệt để uyên nguyên không phải ở nơi
gắng sức dở dang, phấn đấu
nửa đường, tài lực thiếu thốn, dân chúng tản mạn, mà
thực
là
ở
nơi
học
không
triệt để, nghĩa là không triệt để độc
lập trên tinh thần,
cũng không triệt để phát huy được cái năng lực
sáng tạo và khẳng khái
tối cao siêu của giống nòi.
Chính
trị ngày nay có thực hiện được tối tân hay
không là trông vào tư cách
của mỗi người quốc dân có hợp với thủy chuẩn sinh tồn theo
tâm thức hay
không.
Lịch
sử chỉ là cuộc diễn tiến theo cái sinh mệnh hệ thống của
một dân tộc
trên một quá trình dự định phát triển
trên những điều kiện với sự thực
khách quan. Cho nên dân tộc ta cần những thanh
niên rất thuần túy và
sung thực, đem ra làm trọn vẹn hai tầng chức vụ của thời đại
là cách
mạng và kiến thiết.
Những
thanh niên ấy phải biết đạo sống, đạo chết với đạo học, phải biết
kiến
lập một sinh mệnh hệ thống độc lập và siêu nhiên cho
tự mình. Ðời sống
của người ta vốn là một cuộc đi có dự định kế hoạch, để
đạt tới một dự
định mục tiêu, hoàn thành một dự định ý
nghĩa và một dự định giá trị
cho nhân sinh.
Cho nên
cái biết đã là trục của sống thì sự học vấn
cũng phải dò cho đến chốn của sự biết. Cần có hai điểm:
1. Khuôn khổ
phải to tát.
2. Sợi đan phải
nghiêm mật.
Cái tổ chức
sơ bộ của học có thể chia:
a)
Tổ chức lý trí hệ thống, tức là học về lý
tắc (logique). Tư tưởng là
một đồ dùng. Dùng nó phải có phương
pháp. Phương pháp dẫn dắt tư tưởng
của người ta, đồng thời giúp tìm ra những luật tắc của tự
nhiên và xã
hội tiến hóa. Cho nên tư tưởng của người ta khi đã
tổ chức theo lý tắc
thì mới khả năng tìm được chân lý, sự thật
trong sự thật, mới chỉ huy
không nhầm cái tâm lý sinh hoạt của người ta.
b)
Tổ chức tình cảm hệ thống, tức là học về thẩm mỹ
(esthétique), học về
nghệ thuật, tức là học về cách tổ chức và biểu
hiện cảm tình, vũ trụ và
xã hội sống theo những trật tự và luật tắc của nghệ
thuật. Có cảm
nghiệm cái tinh thần và phương pháp nghệ thuật
thì tình cảm của ta mới
được hợp lý và sinh hoạt của ta mới được mãn
ý.
c)
Tổ chức ý chí hệ thống, tức là học về lịch sử.
Lịch sử là sự biểu hiện
toàn thể ý chí sinh tồn của loài người
và dân tộc. Phải lấy sự thể
nghiệm quốc hồn và giác ngộ dân tộc làm tối
cao mục tiêu, phải lấy tự
kỷ khám phá ra cái lý tưởng muôn đời
của dân tộc. Căn cứ vào đó, lấy
cái sứ mệnh tối thiêng liêng, nối dõi tổ
tông, mở mang con cháu, sáng
tạo văn minh cho dân tộc mình trên một nền tảng tối
vững vàng làm cái
phương châm không di chuyển cho cả một đời mình.
Biết lấy ý chí đó làm
ý chí mình, há chẳng bền mạnh và hy
sinh lắm ru?
Trong thuyết
luân hồi tối đơn giản và thô lậu của
Phật học tiểu
thặng, đại khái cho rằng: Người ta chết đi không thể mang
gì đi được,
ngoài những nghiệp quả tinh thần. Những nghiệp quả đó
chính là những
nhân duyên cấu tạo kiếp sau. Mới biết ý chí
là không chết, mà ý chí là
bộ mặt của lý tưởng mình.
Người
ta sống theo những phương thức và phương pháp qui định
và hạn chế bởi
những điều kiện bản chất. Nay phân tích xã hội sinh
hoạt làm ba đức
tầng (lấy đức làm bản vị chia giai tầng):
1. Sinh mệnh tầng
gồm sinh lý sinh hoạt.
2. Nhân
cách tầng gồm nhân cách sinh hoạt.
3. Lý tưởng
tầng gồm văn hóa và chính trị sinh hoạt.
Cũng như Tôn
Văn chia loài người ra làm ba hạng: Tiên tri
tiên giác, hậu tri hậu giác, bất tri bất giác,
ta
có
thể
căn
cứ
vào các nhà giáo
dục nước Mỹ
1. Thực hành
nghiệp.
2. Quyết
đoán nghiệp.
3. Sáng
ý nghiệp.
Cho hay rằng những
người tiên tri tiên giác, hay
là những người sáng ý nghiệp, đều
là những người thuộc về lý tưởng tầng.
Toàn
nhân loại là một đội ngũ dưới lá cờ của những người
xướng đạo
(pionnier). Ðuổi theo cái bóng của một văn hóa
dễ dàng chỉ những bộ óc
tiên phong thấy trước. Tung hợp tất cả lịch sử với xã hội
mà nói: Sống
tức là tiến hóa, tiến hóa tức là thực hiện,
thực hiện tức là cụ thể của
một lý tưởng mô hình. Tất cả tự nhiên cũng
vận động theo những qui tắc
và mục tiêu thực hiện đó. Cho nên Buffon
nói: "những bất động vật là những vật chưa
thành tựu".
Thực hiện để thành tựu, mà thành tựu trên
một nền tảng nhất như
(identification). Nhà Phật nói: Phật giới như Ma giới,
nhất thiết giai
nhất như. Nhà Nho nói: Dân bạo vật giã.
Lão nói: Hòa quang đồng
trần, đăng ư xuân đài. Gia Tô công nhận
và khuyến khích một cuộc chiến
tranh. Thái Huyền kinh nói: bây giờ không
phải là lúc đánh lộn với tâm
hồn tự mình, mà là lúc chống với những
thống trị thái ác, và tối tăm
trên xã hội. Cho hay nhất thiết chúng sinh giai hữu
Phật tính.
Ðó
là lý tưởng tối chân chính cho nhân
sinh là thiên kinh đạo nghĩa cho vũ
trụ. Bất quá sống và chết thành những bờ
cõi, vì ý chí và lý tưởng bất
sinh bất tử. Nhưng muốn xem ý chí và lý
tưởng của cả loài người hay cả
dân tộc, phải biết quay con mắt trở về trông suốt
cái thâm tâm của xã
hội và loài người, cũng như muốn tự mình có
ý chí và lý tưởng phải biết
phản tỉnh. Muốn là được, làm là được, biết
là được. Ta phải đi từ biết
thực hiện tự mình lên đến thực hiện xã hội
và thực hiện dân tộc. Chỉ có
thời cơ, chỉ có lịch sử, chỉ có chí lương tri, chỉ
có lý tưởng là đạo
để cho ta phải mau mà đạt.
Loài
người trên cái hướng sinh triết học phải nên biết
rằng sự bồi dưỡng nội
tại, đối với khách quan hay chủ quan mục đích mới
chân chính có hạnh
phúc.
Sự
thực hiện căn bản là sự thực hiện tự mình. Sự thực hiện
đó là để đem
mình đồng hóa, nhất như hóa với vũ trụ, cho
mình với vũ trụ khai thông
hoàn thành Bồ Ðề Ðạt Ma, một thứ tự ngã
thiêng liêng và trang nghiêm
vậy.
Trong Pháp
Du kinh có kể chuyện Thích Ca Mâu
Ni thành đạo rồi, Ðế
Thích sai sáu tiên nữ xuống ám ảnh quấy rối
và dụ hoặc. Jésus Christ đã
từng bị dụ hoặc bởi quỉ (tenté par le démon). Khổng Tử
đã bị vấp váp
bao nhiêu lần trên đời, bị hãm ở nước Tần.
Thích Ca tất cánh đánh tan
được ám ảnh, Jésus xua đuổi được ma quỉ, Khổng Tử gẩy
đàn mà nhịn đói,
đó là những cuộc thắng lợi trên tự mình,
đó là những cuộc thắng lợi
nhất lòng vì đạo và sức bền. Trần Hy Di đáp
lại vua Tống: không lao
ngọc nữ hạ dương đài. Người ta đam mê trong khổ ải nhưng
khổ ải trước
hết là ở nơi tự mình, bạt thiệp núi non, chỉ
vì tấm lòng trần quấy rối,
bắt tấm thân chạy đuổi theo những thanh, hương, sắc, vị, chắc
chắn
không có chi khác.
Lòng
người như con vượn, ý người như con ngựa, dục người như con lợn.
Vượn
bay nhảy leo trèo, ngựa chạy rong nước kiệu, lợn ì ục
lười biếng.
Sự
thực hiện tự mình, trước hết bỏ trừ những thú tính
trong mình, kiến
thiết tự mình thành một tấm thiêng liêng, kim
cương vô ngã rắn rỏi và
trong suốt.
Cho nên sự
tịnh hóa (purification) là công phu đầu tiên
để rửa sạch ba cái bánh xe nhân sự, nó
là khẩu luân(mồm), thân
luân (thân thể), ý luân
(dục vọng). Sạch sẽ rồi mới thơm tho, sáng láng, sảng
khoái và có chủ
ý. Connais-toi, toi-même, đó là chủ chỉ của
minh tâm, kiến tính và
thành Phật.
Nhưng
Phật với Ma là thế nào? Ma là vô minh, ngu
dốt; Phật là đại giác sáng
suốt. Sống tức là cho tự mình, còn là thực
hiện tự mình. Sống cho tự
mình mới là biết sống. Ma là duyên nghiệp,
Phật là tịch tịnh. Sống
nghĩa là tự mình tự do giải thoát, nghĩa là
tự mình cần phải đại tự
tại, đại vô úy, đại vô ngã, tức là
chân chính giải thoát. Cho nên người
ta tự lúc ra đời, hãy nên nhận thành
cái hiện tượng mâu thuẫn ở tự
trong cõi mình mà muốn cho đạt tới chân
thiện mỹ trước hết tự mình phải
có một chủ ngã, cái chủ ngã ấy có
một phương châm sống hướng thượng.
Trước hết có đại nguyện, thực hành cái đại nguyện
đó cần trì chí và lực
hành. Có đại nguyện mới có lòng trì
chí.
Biết
triệt để rồi mới có lòng muốn thực hành. Dân
tộc, quốc gia ta, kể về
tinh thần độc lập thì thật siêu thoát lên
trên thế giới. Bây giờ đây,
loài người không hết ca ngợi tính độc lập của Mỹ,
Ba Lan, những cuộc
độc lập phí bao nhiêu vật lộn và phí bao
nhiêu xương máu. Nhưng mà tính
độc lập của Mỹ chẳng phải là mặt trái của sự chia rẽ
nòi giống
Anglo-Saxon sao? Tính độc lập của Ba Lan chẳng phải là
thiếu cái nội
tại tự lực, để mặc cho cái quyền độc lập của mình, xoay
vần bởi quốc tế
thời thế hay sao? Không gì thuần túy bằng tinh thần
độc lập của nòi
giống Việt, trải qua từ khi còn là một tốp người nho nhỏ,
tiến lên
thành một dân tộc, hai triệu rồi ba triệu, bốn năm bảy
triệu, ở cõi
trung châu chật hẹp, cho nên ngày nay 50 triệu
người, từng thống nhất
dưới Ðinh Tiên Hoàng, Trần Hưng Ðạo, từng
phân toái hết thảy mọi ngoại
lực xâm lược.
Không
gì vĩ đại bằng tinh thần độc lập của nòi giống Việt,
có cái quyền bính
độc lập đó, nắm được ở tay mình, mà tự ở
đáy tầng dân chúng nắm tự tay
dân tộc mình, Lê Lợi cách mạng, đó
là cuộc tự lực cánh sinh một trăm
phần trăm vậy.
Nhưng
mà bây giờ đây, người Việt ta phải hiểu thấu
cái để uẩn tối thiêng
liêng của nòi mình, cái lý niệm tối
thực tại của Tiên với Rồng, cái
tinh thần tượng trưng đó đã diễn tiến theo biện chứng
pháp ra một cái
quá trình lịch sử của chúng ta khi hưng khi vong,
khi ẩn phục, khi
triển khai. Căn cứ vào cái tinh thần lý tắc ấy,
và lý tắc lịch sử đó,
ta đoán định nhất quyết là thời đại trước mắt ta
đây, chính là buổi
rạng đông của văn minh cao khiết mới, một sứ mệnh vĩ đại mới,
và một sự
nghiệp hùng tráng khai quang của dân tộc Việt. Một
thế kỷ lâm ly khổ ải
đã thẩm thấu vào lòng mọi người Việt, cái
bộc phát của tương lai, cái
đột biến của sự nghiệp. Cho nên cái quá
trình phục hưng của nòi nước ta
có thể chia ra làm đại bi, đại giác, đại nguyện,
đại hành, đại hùng,
đại thế, đại đạo.
Tự
cảm giác thấy cái đau khổ lớn lao mà thức tỉnh một
cách mạnh mẽ, rồi tự
tìm lấy một lý tưởng cao cả mà xông
vào vật lộn hy sinh đến kỳ cùng.
Ðến đây bao nhiêu lực lượng và tinh thần tồn tại
khỏe khoắn của suốt
một thế hệ tổ tiên sâu dày đã trở lại
mình, đứng trên một cương vị có
bề thế ưu thắng, có một bộ óc và hai bàn
tay vạn năng, hoàn thành cái
đạo lớn cho loài người.
Nhưng
mà cái trình tự kim đan hoán cốt, cải biến
đời người, nó cho một khí
lực tân sinh cho mỗi cá nhân người Việt cũng phải
thế.
Người
Việt phải truy bản cùng nguyên cái đáy
lòng mình và đáy lòng lịch sử
của nòi giống, kín gánh ở đấy cái nguồn
sinh lực, đạo đức và trí tuệ,
nó làm mình đứng dậy lớn lao lên và
mạnh mẽ, cầm bó đuốc của đời sau
phát nguyện mà làm việc.
Phục
hưng dân tộc trước hết phải phục hưng cá nhân.
Dân tộc có độc lập được
hay không là nhờ ở thanh niên có độc lập năng
lực hay không. Muốn biết
phải làm. Sinh nhi tri chi, học nhi tri chi, khốn nhi tri chi,
cập kỳ
tri giả nhất giã.
An
nhi hành chi, lợi nhi hành chi, miễn cưỡng nhi
hành chi, cập kỳ thành
công giả nhất giã. Hỡi dân tộc thanh niên,
phải chịu khốn khổ mà cầu
biết, phải biết miễn cưỡng mà làm đi!
"Tu là
cõi phúc, tình là
dây oan",
cá nhân có tu thì dân tộc mới hưng,
dân tộc Việt đừng để dây oan nghiệt
của đế quốc dã tâm, chằng buộc ấy mình mãi,
đồng thời đừng để những dây
khắc khổ cùng những truyền thống không thuần túy
thắt bóp mình mãi.
Tất
cánh chúng ta phải độc lập và giải phóng,
độc lập cho hết thảy quốc gia
mệnh mạch và sinh hoạt cơ năng của ta, cởi mở cho hết thảy
dân tộc
tính, dân tộc tình, dân tộc chí của ta
được tự do thư triển với thế
giới. Làm sao chúng ta phát huy được những tiềm
lực độc đặc của dân tộc
ta trong cõi đời, cống hiến cho toàn nhân loại
cái quang huy của tâm
tình, năng lực nòi giống ta cái tinh thần cố hữu
của dân tộc trào
phúng, khảng khái, độc lập, sáng tạo, bền dai,
chúng ta phải bả ác lấy
mà kiến thiết mình trên những nhân tố
đó.
Vậy
thời mỗi dân tộc thanh niên phải tu tỉnh. Có ba lối
tu: thứ nhất tu tại
gia, thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa; cho nên tu ở
tại mình là chìa khóa
của thời đại mới, của sự đạt tới cái tiêu đích đại
vô úy, đại tự tại,
đại giải thoát, cho cả dân tộc, cho mỗi một người ta.
Tôi đem
cái kinh nghiệm của tự tôi trong sự tu dưỡng của tự
tôi, cống hiến làm cái sơ bộ cho mọi người.
1. Trung tâm
giáo dưỡng
a)
Lập chí chí thành: lập một chí nguyện một
lý tưởng trên sự giác ngộ,
rất xác thiết đối với dân tộc, ở đó sinh ra một
lòng chí nhiệt, chí
thành, suy động hết thảy sinh mệnh cơ năng.
b) Tính,
tâm, thân, mệnh: Tính cho được trong suốt, tâm
cho được yên ổn, mệnh cho được vững bền, thân cho được
phát huy.
Mệnh
gồm tinh, khí, thần; thân vững bền rồi thì
tâm mới được yên định tinh
túc, tinh thần được dồi dào, tất tính được trong
suốt như tấm gương;
như thế thân tức là sự nghiệp, thân thế, hành
vi, ngôn ngữ, nhân cách
sẽ được kiện toàn, thống nhất.
2. Lịch sử sinh
hoạt
a)
Sống một đời sống lịch sử, sống theo cái quá trình
lịch sử của nòi
giống, lấy cá nhân sinh mệnh mình phối hợp những
giai đoạn của nó vào
giai đoạn tất nhiên của lịch sử.
b) Nhận thức lịch
sử của dân tộc.
c)
Cảm ứng lịch sử của dân tộc: chúng ta vui, buồn, khổ,
oán, thù, mừng,
hy vọng thuần túy bằng cái vui, buồn, khổ, oán,
thù, mừng hay hy vọng
của dân tộc.
Hàm
súc những tính, tình, chí của dân tộc
vào tấm thân ta, nó sẽ nuôi ta
thành một phần tử chân chính và tiền tiến
của dân tộc. Nó sẽ cung cấp
hết những lý trí và tiềm lực, kinh nghiệm đủ để
cho ta ra đời.
Hết sức giảm bớt
những vui, buồn, khổ, oán, thù, mừng, hy vọng riêng
của cá nhân ta.
d)
Dân tộc làm trung tâm: đảm đương sứ mệnh của lịch sử
hết thảy sự nghiệp
hoặc văn hóa, kinh tế, quân sự, xã hội,
chính trị, giáo dục y cứ trên
cái nền tảng lịch sử sinh hoạt mà phối hợp với các
nhiệm vụ cách mệnh
kiến quốc, lý tưởng của nòi giống. Chỉ có lấy
đó làm trung tâm, nhiên
hậu mới phát huy đến bờ cõi được cái vĩ đại của tự
lực và sáng tạo lực.
3. Tiềm tại tu
dưỡng
Nên hỏi
mà biết, biết mà làm, không nên
nói nhiều.
Xét
bệnh thần kinh có mấy thứ, từ bệnh nhức đầu (névralgie)
cho đến bệnh
nhức óc (neurasthésie), kịch liệt tính như bệnh
đau màng óc
(méningite), âm ỷ tính như bệnh thần kinh
quá mẫn (nervosité), tiến lên
cho đến các hạng thắc loạn (manies), kiện vong (perte de
mémoire),
thoáng quên (absence), các hạng điên cuồng
có nhiều thứ, cứu kỳ nguyên
nhân không ngoài mấy căn nguyên: thiếu
máu, chướng khí, sầu uất, tâm lý
kích động, lao lực, lao tâm, tư tưởng thái
quá, tình bệnh như thủ dâm,
di tinh, mộng tinh, lãnh tinh, thanh niên hay mắc nhất,
đương lúc thanh
xuân kỳ rờ rỡ, tâm lý và sinh lý
phát triển chính gặp lúc kịch biến,
những hiện tượng xã hội và những hiện tượng tâm
thần kích thích mà nên.
Nhưng mà thanh niên là hy vọng của quốc gia,
dân tộc, là chủ lực của
nhân loại văn minh, không tự phán phát
mà tìm đường xuất lộ, thì lý
tưởng và quốc gia ảnh hưởng không ít.
Xét
cách chữa có thể chia hai phương diện mà
nói:
1)
Tu dưỡng: có thể dùng phương pháp lưu dưỡng, tẩy
nhẹ vận động thư thái,
sinh hoạt điều độ, tinh thần nghỉ ngơi, doanh dưỡng có chế độ.
Bổ cứu
thêm thuốc thang chuyên môn.
2)
Ðiều dưỡng trong sự nghỉ ngơi và thư thái, tổ chức
lại bộ óc sung thực
cho kiện toàn, điều tiết cho linh hoạt, lấy đó làm
cơ sở cải tạo sinh
mệnh cơ năng, sinh lý và tâm lý, tiến
lên cải tạo chính cái sinh mệnh
hệ thống.
Sự
hoạt động của loài người lấy thần kinh làm then chốt. Cho
nên muốn hiểu
rõ những hiện tượng sinh tồn cá nhân và
xã hội, cần phải biết kết cấu
của bộ óc, địa vị của nó và lai nguyên của
sức sống do nó chi phối là
tinh, khí, thần. Nếu lấy phương diện tĩnh của phương pháp
phân tích mà
nói thì bộ óc dệt nên bởi những tiềm duy
và tế bào, năng lực của nó
chứa góp cái tự kỷ năng lực của những tiềm duy và
tế bào đó. Song lấy
phương pháp mới của các nhà khoa học hiện đại,
thì năng lực và hiệu
dụng của thần kinh do ở sức vận hành của máu, hơi thở,
dịch chất tom
góp lại thành những luồng điện A và B luôn
luôn cung cấp cho bộ máy đó.
Cho nên tung hợp lại có thể nói theo y lý
Ðông Phương thì óc là phủ
nguyên thần tích súc hết thảy tinh hoa kết lại
trong người mà thành.
Tinh do máu, dịch chất kết tích lại ở thận thông
xương sống, tủy mà làm
bản chất của óc, khí do sự vận hành của
máu, hơi thở mà thành các luồng
điện A và B, thần tức là cái hoạt lực để tinh với
khí tương hỗ chuyển
biến mà nên. Cho nên từ nguyên tắc tu
thân xử thế cho đến chữa bệnh
bằng tự mình không ngoài hai điều:
1) Lấy chí
xuất khí:
Chí tức là ý chí trong người, lấy một
ý chí kiện cường và minh mẫn mà
sai khiến sinh lý sinh hoạt với tâm lý sinh hoạt.
Trong thần kinh hệ
chia làm hai là: vận động hệ gồm các dây
trông về tự động và nội tạng
như tiêu hóa, tuần hoàn, cử động và tri
giác hệ tức là những dây trông
về cảm giác, nghĩ ngợi, ghi nhớ. Hai hệ này có
liên hệ mật thiết với
nhau, khỏe yếu có ảnh hưởng lẫn nhau.
2) Lấy tĩnh chế
động:
Dùng một chủ thể rất bền vững yên định để sai khiến những
khách thể
phức tạp và động loạn, cho những khách thể đó phải
tuân theo ý chí của
chủ thể mà điều độ. Có thể chia phép điều dưỡng
làm ba bước:
A. Thời kỳ thứ nhất:
Ðây là thời kỳ thu phục lại cái thường thức cho
bộ tổ chức và vận dụng
của óc, nhân đó thành lập một quy mô
sinh mệnh. Nhưng cái tiên quyết
điều kiện là người tự chữa phải cố gắng, có một ý
chí và chủ ngã rất
bền mạnh, rất trầm tiềm, rất nhẫn nại. Cái mục đích dự
định của thời kỳ
này là:
1)
Làm hết các trạng thái thắc loạn trong óc
bất cứ về sinh lý như hư hòa
dịch chất (humeur) cho óc và gân đươc sảng
khoái, thong thả hay là về
tâm lý như sầu muộn, ảo tưởng, hoang mang.
2)
Bắt đầu thu nạp lại cái qui mô và trật tự của sinh
lý sinh hoạt như thở
đều, tiêu hóa tốt, bài tiết tốt, máu chảy
tốt và của tâm lý sinh hoạt
như tư tưởng cho phải chăng, tình cảm cho điều hòa.
3) Nhân
đó dựng nên một cái nhân cách chớm đầu
hệ thống và quy luật hóa. Các phương pháp
chữa gồm có:
a) Tản bộ sớm
và chiều cho sinh cơ được thư triển và giúp
ích cho tinh thần đối với tự nhiên có ảnh hưởng đẹp
đẽ.
b) Hô hấp
sáng và chiều, nhè nhẹ và in ít để
khai thông vận hành cho vận động hệ của bộ óc,
hô hấp hệ, tuần hoàn hệ, tiêu hóa hệ.
c) Vận động nhẹ
và tẩy nhẹ cho các dịch chất đọng ngừng được thông
thoát và toàn bộ cơ năng của thân người được
sảng khoái.
d) Tung hợp và
điều chỉnh lại các ký ức của mình, tức là
tổ chức những tư tưởng tình cảm đã qua của mình
cho không hỗn loạn.
đ) Ngừng mặc, ngồi
lặng cho tinh thần được tĩnh định, không chút vẩn
lòng và yên nghỉ bộ óc.
e) Giữ vững được thận
của mình tránh những di tinh, mộng tinh.
g) Ổn định tâm
của mình cho khỏi bị ngoại vật kích thích hay bị
động với ngoại vật.
B. Thời kỳ thứ hai:
Phải tiến lên học đến cách vận dụng và phát
triển cái thường thái ở
trên cho tâm với thần được bình hành
phát triển, tâm lý cơ cấu khỏe
khoắn, sinh hoạt có quy luật, nhân cách biểu hiệu
được thống nhất. Các
phương pháp gồm có:
1) Tổ chức lý
trí hệ thống tức là học về lý tắc (logique).
2) Tổ chức
tình cảm hệ thống, tức là học về thẩm mỹ
(esthétique).
3) Tổ chức ý
chí hệ thống, tức là học về lịch sử.
C. Thời kỳ thứ ba:
Thu góp cái kết quả của thời kỳ trên mà đặt
yên cái sinh mệnh hệ thống
của mình và phát huy cái sinh mệnh
công năng của mình. Lợi dụng cái ý
chí tối cao làm trung tâm chỉ huy lý
trí và tình cảm, tiến sâu vào con
đường khoa học, bác ái và công minh, thời kỳ
này phải giải quyết 4 vấn
đề:
a) Nhân sinh
quan (thái độ đối với sự sống)
b) Nhân tử quan
(thái độ đối với sự chết)
c)
Phải hiểu cái khuôn khổ của thời đại. Thời đại với văn
hóa có cái khuôn
khổ riêng của nó, ví như văn hóa Hy Lạp, lấy
cái vóc đẹp, trí sáng, sức
khỏe làm mô phạm v.v... Cho nên biết văn hóa
thời đại hay lịch sử chẳng
qua chỉ có một nhiệm vụ tối cao là hun đúc
nên một con người xứng đáng.
Ta thử tưởng tượng xem cái văn hóa tương lai của
dân tộc Việt nên lấy
cái khuôn khổ gì? Như ý tôi nghĩ chỉ
cần: thận vững, tim trong, óc
sáng, mình nhẹ, tay mạnh.
d)
Phải kiến thiết một đời sống lý tưởng. Ðời sống của người ta
vốn là một
cuộc đi có dự định kế hoạch để đạt tới một dự định mục
tiêu, hoàn thành
một dự định ý nghĩa và một dự định giá trị của
nhân sinh. Châm đối theo
cái đó hãy nêu cho đời mình một
phương châm tinh thần làm cái đích để
dấn thân tới, triệt để cống hiến cho dân tộc và
nhân loại.
I. BỒN GỘT RỬA
A- Gột rửa những trầm trệ bệnh của tâm lý về lịch
sử:
1) Tâm
lý thù oán tổ tiên.
2) Tâm
lý miệt thị tổ tiên
3) Tâm
lý quên bỏ tổ tiên
4) Tâm
lý kiêu nịnh tổ tiên
5) Tâm
lý lầm lẫn nguồn gốc.
B- Gột hết những
trầm trệ bệnh tâm lý về hiện tại:
1) Tâm
lý thù ghét xã hội
2) Tâm
lý quảng phiếm xã hội
3) Tâm
lý giai cấp đơn độc
4) Tâm
lý cá nhân đơn độc
5) Tâm
lý dân tộc đơn độc
6) Tâm
lý thế hệ đơn độc.
C- Gột rửa hết
những trầm trệ bệnh của tâm lý về tương lai:
1) Tâm
lý cẩu thả sinh hoạt
2) Tâm
lý bạo khí sinh hoạt
3) Tâm
lý thiên khích sinh hoạt
4) Tâm
lý dao động sinh hoạt
D- Mấu cứ của tin
tưởng trên lịch sử:
1) Quyền lợi đương
nhiên
2) Ðoàn
thể dân tộc
3) Tư cách
lịch sử
4) Lập trường
siêu nhiên
5) Ðường đi cỗi
gốc
6) Chủ trương thắng
nghĩa.
Ð- Mấu cứ của
tin tưởng trên hiện đại
1) Nhân
tình:
a) Phản cách
mạng
b) Phóng cách mạng
c) Giả cách mạng
d) Bất cách mạng
Hữu tình nhỏ
Ý thức hẹp
Nhận xét sai
2) Thế thái:
a) Danh
b) Lợi
c) Tình
d) Thế
đ) Dục
Tạo hóa ở tự nhiên
Sống chết ở loài người
Xấu tốt do chế độ
Nhân
cách siêu
nhiên vượt lên
hiện đại mà sai
khiến được xấu
tốt lẫn đức thuật
E- Mấu cứ của tin
tưởng về tương lai:
1) Nhân cách khởi tín
2) Học thuật khởi tín
3) Thời sự khởi tín
Nội bộ:
1) Không bị
sàm hoặc
2) Không bị ly gián
3) Không bị sơ ngại
4) Không bị nghi trệ
Tâm
thông
Mục đích
khởi tín lấy phục vụ cho cương thường loài người, sống
chung toàn tính, làm cho mục đích
kiên quyết, phải đề phòng:
a) Trảm thặng vận
động (phản động chém trừ toàn thể vì đa số,
chém trừ đa số vì thiểu số chém trừ thiểu số
vì độc tài).
b) Phân ly vận động: (ly tâm xu hướng, phá hoại
chiến thuật) phải kiên trì.
c) Sinh hóa vận động (từ một ra ít, ít ra nhiều,
nhiều ra toàn thể).
II. ÐÀI
HY SINH
A-
Ý nghĩa của hy sinh là hình thức của nó qua
các thời đại. Tông giáo hy
sinh lễ là tuẫn đạo, các cuộc hy sinh vì học
thuật, tư tưởng v.v...
B-
Sự sống bắt rễ ở sự chết. Lễ nhập quan tông giáo: đời
người bắt đầu tự
đó. Sự thoát xác qua các thế hệ, sức suy
tiến loài người của hy sinh.
C- Chân
ngôn.
D- Ðại nguyện.
Ð-
Ðại giá của hy sinh là vinh quang, đại giá của
sự chết là sự sống còn
mãi mãi của loài người, đại giá của quyết
chết là thành công, đại giá
của lý tưởng là một ý nghĩa với một công
năng tích cực cho vũ trụ không
nghĩ ngợi và làm lụng, một ý nghĩa hiện thực trong
sát na và vi trần
của vô thường.
E- Trỉ đạo của hy
sinh trong trí tuệ và nghị lực chân chính.
X.Y.
Thái
Dịch Lý Ðông A
8/8/4823 tuổi Việt
(1944)
Gió
Ðáy
thuộc
Duy
Dân
Học
Xã
xuất bản lần thứ nhất tại Sài Gòn, Việt Nam
ngày 7 tháng 10 năm 1969 (Kỷ Dậu 4848 tuổi Việt)
Sơ LượcTiểuSửX.Y. TháiDịchLýÐông A
X.Y. TháiDịchLýÐông A tênthậtlàNguyễnHữuThanh, sinhnăm 1920, tuổiCanhThân,
mệnhMộc,
tạihuyện
Kim BảngtỉnhHàNam. ÔngthônghiểuvềDịchLý, PhậtHọc, vàLịchSử, v.v... khimới 16 tuổi.
Theo
lờikể, ôngđượclinhquangthầnnhậpthểvàolúc 16 tuổi,
nênđượckhaimởtrítuệ: đọcrấtmau, thâutómtưtưởngrấtlẹ.
LýÐông A khaitriểnvănhóavàtruyềnthốngdântộckếthợpvớicácsuytưvềsựkếtcấuxãhộinhânloạivàxãhộitựtínhđểlậpthuyết.Mộtcáchgiảnlược, lấyngườilàmtrục, cănbảntriếtlýcủachủnghĩaDuyDâncóbabìnhdiệnlàbathànhphầnbiệnchứngđưađếnmộtquanđiểmthốngnhất, đạiđồng, chânxácvềngười:
Vũtrụ: duynhiên, vônguyên.
Nhânloại: duynhân, nhấtnguyên.
Dântộc: duydân, đanguyêntươngđối.
Vũtrụlàmộtlãnhvựcthuầntúykháchquan...trongđó con
ngườilàsinhvậtđặtthùluônluôncónổlựcvượttrênvậnđộngtựnhiênđểthànhlậpxãhộinguyênthủylàxãhộitựtính, từđó con ngườimớixứngdanhlàngười. Ý niệmxãhộilà ý niệmcănbảncủamọiquanđiểmvềngười.
Ngày
1 tháng 1 năm
1943, X.Y. TháiDịchLýÐông A sánglậpvàlàThưKýTrưởngViệtDuyDânÐảngđểđấutranhchốngPhápvàchốngCộng.
VìthờicơchưađếnvớingườiQuốcGiachânchính, nênsautrậnNga My (1945) vàHòaBình
(1946) đấukhángvớiCộngSản, ÔngtuyênbốgiảitánÐảngvàbiệttích,
lúcấyÔng 26 tuổi.
Saunăm
1946, ngườitakhôngcònghinhậnnhữnghoạtđộngnàocủaÔng,
ngoàinhữnglờiđồnđãilàÔngđãbịCộngSảnthủtiêunhưđãthủtiêulãnhtụcủacácđảngpháicáchmạngthờiđó. TuynhiêncáccơquantìnhbáoPhápvàngaycảCộngSảnViệtNamđãkhôngcóbằngchứngnàochứngtỏlàÔngđãbịsáthạicả.
NhàcáchmạngLýÐông
A đãquyếttâmđilàmcáchmạngcứunướcgiữnòibằngcảtráitimđầymáunóng, mộtlòngyêunướcthươngnòinồngnàn. CáctácphẩmcủaÔngngoàiphầnvănchươngtráctuyệtvàtâmhuyếtngúttrờiđốivớiQuốcGiaDânTộc, cònlàmộthệtưtưởngtuyệtvờicaosâuthựctiển, nhânái, viễnkiếnchínhtrịsuốtdọc, làmnềntảngchocuộccáchmạngphụchoạtsắptớichodântộcViệtvàlàmộtcuộccáchmạngkhuônmẫuchonhânloạisaunày. CáctácphẩmcủaÔngđãđượcxuấtbản
: ÐạoTrườngNgâm, HuyếtHoa, Chu
Tri Lục, DuyNhânCươngThường, ThiếtGiáo, ViệtSửThôngLuận, vàmộtsốtàiliệu.
Tómlại, lãnhtụ X.Y. TháiDịchLýÐông A đượckểlàmộttrongsốíttriếtgiaViệtNam, mộtnhàcáchmạngnhânbảnxãhội, mộtnhàchínhtrịđạođức, mộtnhàđạithihàocủadântộc.
GióĐáythuộcDuyDânHọcXã, xuấtbảnthứnhấttạiSàiGòn,
ViệtNamtháng
9 năm 1969 (KỷDậu 4848 tuổiViệt)