Việt
Nam
Văn
Hiến
Năm Thứ 4889 www.vietnamvanhien.net
Vài Tư Liệu Mới Chính
Ðạo
Huỳnh Thúc Kháng ( 1876-1947) (ảnh của Wikipedia) Bán
tuần báo Tiếng Dân
là một cơ quan
ngôn luận tư nhân, độc lập đầu tiên tại An Nam (Trung
Kỳ). Dưới sự điều khiển
của Tiến sĩ Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947)–một
nho
gia
thuộc
trường
phái duy tân
theo kiểu mẫu Pháp thuộc đầu thế kỷ XX, từng bị đầy ra Côn
Ðảo 13 năm vì tội
xúi dục dân chúng làm loạn–Tiếng
Dân
xuất bản đều đặn suốt gần 16 năm dài, từ 1927 tới năm 1943.
Dù tòa soạn và nhà
in riêng đặt tại Huế, Tiếng Dân
phát
hành khắp miền Trung, tạo ảnh hưởng khá lớn trong giới
trí thức địa phương, và
là nguồn thông tin khả tín cho các
nhà nghiên cứu về An Nam thời Pháp thuộc
cũng như tinh thần quốc gia mới tại Việt Nam từ năm 1925 tới giai đoạn
Nhật
chiếm đóng Ðông Dương (1940-1945). Ðã
có nhiều
nghiên cứu về Huỳnh Thúc Kháng và Tiếng
Dân. Trong khi một số biên khảo đã khá
đầy đủ và trung thực,(1) nhiều sách
báo bằng Việt ngữ khó qua khỏi khuôn thức “cung
văn” hay “đào mộ” quen thuộc
tại Việt Nam.(2) Trong dịp du
khảo tại Việt I. DIỄN TIẾN VIỆC RA BÁO TIẾNG DÂN (8/10/1926-1/5/1928): Kho văn khố của
Tòa Khâm sứ An Nam
(HC/RSA) tại Trung Tâm Lưu Trữ Quốc Gia [TTLTQG] 2 Thành
phố Hồ Chí Minh (Sài
Gòn) có một hồ sơ ghi lại khá rõ diễn tiến
sự việc Huỳnh Thúc Kháng xin ra báo Tiếng
Dân từ ngày 8/10/1926 tới khi báo
ra mắt số 74 ngày 1/5/1928. Hồ sơ này có
trên 20 tài liệu cơ bản: Tài liệu 1: Ngày
8/10/1926, Huỳnh Thúc Kháng chính
thức làm đơn gửi XLTV Toàn quyền Pierre Pasquier
(10/1926-5/1927), xin được
phép xuất bản một tờ báo bằng chữ Việt mới [Quốc ngữ],
với tên Tiếng Dân, đặt trụ sở tại Tourane
(Ðà
Nẵng). Mục đích nhắm sử dụng cơ quan ngôn luận này
để phổ biến những tư tưởng
ôn hòa hầu đưa vào kỷ luật những khuynh hướng dị
biệt biểu lộ tại một khúc
quanh khó khăn của sự tiến hóa tại An Nam (Trung kỳ),
và hướng dẫn dân chúng
tiến bộ trong trật tự và hòa bình. Về khuôn
khổ, giống như những báo quốc ngữ đang
lưu hành ở Ðông Dương. Về phương diện pháp
lý, sẽ tuân theo luật lệ hiện hành.
Ðơn viết bằng Pháp ngữ, đánh máy, với
hàng chữ viết tay ở cuối thư: “Huynh Thuc
Khang, Président de la Chambre des représentants du
peuple d’Annam” [Huỳnh Thúc
Kháng, Chủ tịch Viện Dân biểu An Ðính
kèm là bản “Chương trình báo “Tiếng
Dân” [Programme du Journal “Tieng Dan”]. Gồm 2 trang đánh
máy, với 16 điều, đánh
số từ 1 tới 16. Ðiều 1:
Báo sẽ ra hai lần một tuần, vào
các ngày thứ Tư và thứ Bảy. Ðiều 3:
Lý tưởng phục vụ lợi ích quốc gia
an-nam-mit [la nation annamite], sẽ không phục vụ chủ nghĩa Cộng
Sản [se
gardera de servir le communisme], và tôn trọng giới
lãnh đạo Ðông Dương
[respectera . . .
la
Souveraineté
en
Indochine]. Ðiều 4:
Bài vở chọn đăng theo 4 nguyên
tắc: a. Khiến
chính quyền biết được
nguyện vọng của dân. b. Ðưa ra
ánh sáng quyền lợi
chung của dân chúng và những điều tệ hại khiến họ
bị phiền nhiễu. c. Giúp
chính quyền thực hiện
tất cả các kế hoạch chính trị cởi mở [libéral]. d. Tiếp tay
vào việc giáo dục đạo
đức, tri thức, chính trị và kinh tế cho dân
An-nam-mít. Ðiều 14:
Góc mặt, trên đầu trang nhất báo
sẽ dùng để trích đăng những tư tưởng hay cách
ngôn từ tác phẩm của các triết
gia kim cổ. Ðiều 16: Tất
cả những điều trên có thể
cải đổi, sau khi đã được sự chấp thuận của chính quyền. Phía dưới
tài liệu ghi “Huỳnh Thúc Kháng,
Chủ tịch Viện Dân biểu An Nam, ngụ tại xã Thanh
Bình, Tam Kỳ, Quảng Nam,” với
chữ ký của HTK. Tài liệu 2: Ngày
9/10/1926, Huỳnh Thúc Kháng viết thư
cho XLTV Khâm sứ J. d’Elloy, nhờ chuyển cho Toàn quyền đơn
xin ra báo ngày
8/10, đồng thời yêu cầu d’Elloy ủng hộ. Ông cho biết đang
ngụ tại nhà Nguyễn
Khoa Tùng, Ðập Ðá, Huế. [Thư
viết
tay]
(RSA/HC,
HS
1869) Một đoạn
trích từ phiên họp Cơ Mật Viện
ngày 13/10/1926, dưới sự chủ tọa của Pasquier. Pasquier
nói Phan Bội Châu từng xin ra
báo, nhưng đã được khuyên nên rút đơn.
Nay Huỳnh Thúc Kháng cũng xin ra báo.
Muốn được biết ý kiến Viện Cơ Mật. Thượng thư Hồ Ðắc Trung
(Bộ Lễ và Học) và
Tổng lý Nội các Nguyễn Hữu Bài đều đồng ý,
với điều kiện phải kiểm soát và kiểm
duyệt chặt chẽ. (Extrait
du
procès-verbal
de
la
8è séance de 1926 (13 Oct
1926) du Conseil de Co Mat; RSA/HC, HS 1869) Tài liệu 4: Ngày
14/10/1926, Huỳnh Thúc Kháng lại nhờ
XLTV Khâm sứ chuyển thư cho Pasquier, bổ túc thêm
chi tiết cho đơn xin ra báo
ngày 8/10: Ðích thân HTK sẽ là Chủ nhiệm
kiêm Chủ bút Tiếng Dân. (RSA/HC,
HS
1869) Tài liệu 5: Ngày
6/11/1926, trong thư gửi d’Elloy,
Pasquier chấp thuận đề nghị ngày 18/10/1926 của J. d’Elloy: đồng
ý trên nguyên
tắc cho Huỳnh Thúc Kháng xuất bản một tờ báo. Tuy
nhiên chỉ có quyết định cuối
cùng sau khi nhận được đầy đủ thông tin cần thiết. (RSA/HC,
HS
1869) Tài liệu 6: Ngày
12/11/1926, D’Elloy cho Huỳnh Thúc
Kháng biết là đã chấp thuận trên
nguyên tắc việc ra báo Tiếng Dân. Tuy nhiên,
muốn
biết thêm chi tiết về ban biên tập, tòa soạn cũng
như tài chính. Tài liệu 7: Ngày
26/11/1926, Huỳnh Thúc Kháng nhờ Ðốc
lý Tài liệu 8: Ngày
6/12/1926, D’Elloy [qua công sứ Hội
An] cho Huỳnh Thúc Kháng biết đã nhận được
tài liệu ngày 26/11/1926 về việc ra
báo Tiếng Dân. D’Elloy đồng ý, nhưng với điều kiện
tòa soạn phải đặt ở Huế. Tài liệu 9: Ngày
14/12/1926, Huỳnh Thúc Kháng [lúc
này ở nhà Lê Ấm, Giáo sư Quốc tử
Giám, tại Huế] gửi thư viết tay cho D’Elloy để
hồi đáp thư ngày 6/12/1926. Theo HTK,
công ty in báo sẽ là một công
ty cổ phần, mà không phải công ty vô danh như
đã viết trong thư ngày
26/11/1926. Về địa điểm đặt tòa soạn, HTK muốn nhấn mạnh
đã chọn Tourane, nếu
rời ra Huế phí tổn di chuyển quá nặng, trong khi
công ty nghèo. Ngoài ra,
Tourane là thành phố thương mại, trong khi Huế là
một trung tâm văn hóa, nơi có
nhiều trào lưu tư tưởng và chính kiến dị biệt,
chắc chắn có những tư tưởng
không phù hợp với chủ trương ôn hòa và
mục tiêu giáo huấn đám đông của Tiếng
Dân. Bản chất vốn không ưa những nơi náo nhiệt
và thích làm việc trong cảnh
thanh tịnh, HTK muốn giữ tòa soạn Tiếng Dân ở
Ðà Nẵng. Hơn nữa, vì dân trí người
Việt còn lạc hậu, HTK muốn Tiếng Dân ít bị ảnh
hưởng vì những áp lực chính trị đa
tạp như ở Huế. HTK cũng yêu cầu trong buổi gặp mặt ngày
hôm sau, 15/12, để bàn
về trụ sở Viện Dân Biểu, D’Elloy sẽ cho phép HTK
trình bày thêm về nơi đặt tòa
soạn. Tài liệu 10: Báo
cáo (Note) ngày 6/1/1927 của Công sứ
Phan Thiết gửi D’Elloy về những thương gia Phan Thiết muốn góp
cổ phần xuất bản
Tiếng Dân. Tài liệu 11: Ngày
11/1/1927, từ Tourane Huỳnh Thúc
Kháng viết thư cho D’Elloy về vấn đề tòa soạn và
tài chính của Tiếng Dân [để
giải thích thêm chi tiết đã nêu lên
trong buổi gặp mặt ngày 5/1/1927]: Tòa soạn Tiếng
Dân đặt tại Ðà Nẵng. Huỳnh
Thúc
Kháng sẽ là Chủ nhiệm (Directeur Gérant)
kiêm Chủ bút (Rédacteur en Chef). Phụ
tá biên tập là Ðào Duy Anh (1904-1988),
một cựu giáo viên. Quản trị giao cho
Trần Ðình Phiên, thương gia ở Phan Thiết. Về
tài chính, sẽ lập một công ty cổ
phần [une société en commandite par
actions] thay vì công ty vô danh. Yêu cầu
D’Elloy ban hành nghị định càng
sớm càng tốt. [Thư viết tay, 3 trang]. Tài liệu 12: Ngày
14/1/1927, Huỳnh Thúc Kháng gửi thư
cho D’Elloy, xin được yết kiến Toàn quyền trong dịp ghé
Huế, và nhờ chuyển thư đề
cùng ngày gửi cho Pasquier. (HTKháng
ngụ
tại
nhà
Nguyễn
Khoa
Tùng, Ðập Ðá, Huế) Tài liệu 13: Ngày
14/1/1927, Huỳnh Thúc Kháng viết thư
cho Pasquier, xin yết kiến để trình bày về báo Tiếng Dân. Tài liệu 14: Ngày
12/2/1927, Pasquier ký Nghị định
(Arreté) cho phép Huỳnh Thúc Kháng xuất bản
tờ Tiếng Dân. Tài liệu 15: Ngày
16/2/1927, D’Elloy chỉ thị Sở Liêm
Phóng (Sureté en Tài liệu 16: Ngày
21/2/1927, Huỳnh Thúc Kháng nhờ tân
XLTV Khâm sứ Friès chuyển công điện cám ơn
Pasquier về nghị định ra báo. Tài liệu 17: Ngày
18/3/1927, Huỳnh Thúc Kháng gửi thư
cho XLTV Khâm sứ Friès, nhắc lại lời Friès
tuyên bố là đã có trong tay nghị định
cho phép ra báo Tiếng Dân, và sẽ thông
báo cho HTK biết khi về tới Tài liệu 18: Ngày
19/3/1927, Léonard Sogny, Chánh Sở
Liêm Phóng An Nam, đệ trình kế hoạch kiểm
soát tờ Tiếng Dân. 1. Một ban kiểm
soát dưới
quyền Bùi Văn Cung, công dân Pháp,
thông dịch viên giao kèo của Sở Liêm
Phóng;
Ðoàn Nẫm, thư ký tại đoàn đại biểu Pháp
tại Bộ Lại; và Ðặng Thái Vận, “nho” tại
Sở Liêm Phóng. 2. Không
được xúc phạm chủ quyền
Pháp và chế độ thiết lập tại 3. Phải nạp hai
bản vỗ cho Sở
Liêm Phóng với bản dịch Pháp ngữ. Sau khi kiểm
duyệt, một bản sẽ trả lại cho
Chủ nhiệm báo, do đích thân Sogny ký, với
con dấu. Nếu Sogny vắng mặt, cần chữ
ký của Dussaut, cò đặc biệt. Sẽ có câu “Visa
pour publication” [cho phép xuất bản]. 4. Báo ấn
hành phải nạp hai
bản: tại Kho lưu trữ [dépôt légal] tòa
Khâm, và Kho lưu trữ cảnh sát [dépôt
de
police]. Sogny sẽ liên lạc trực tiếp với Huỳnh Thúc
Kháng. (Tờ
trình
số
462,
ngày
19/3/1927,
RSA/HC, HS 1869) Tài liệu 19: Ngày
13/4/1927, Huỳnh Thúc Kháng thông
báo cho Khâm sứ biết là sẽ rời chỗ cư trú ra
Huế để xuất bản báo. Tài liệu 20: Ngày
5/8/1927, Khâm sứ thông báo cho
Huỳnh Thúc Kháng biết mỗi số báo phải nạp 2 bản
cho văn phòng Tòa Khâm. Hai
ngày trước khi in, phải nộp cho Sở Liêm Phóng
HuếÔ hai bản vỗ với bản dịch đầy đủ
qua Pháp ngữ. Tài liệu 21: Ngày
1/5/1928, Huỳnh Thúc Kháng báo cho
Khâm sứ biết là sau khi thiết lắp lại nhà in, Tiếng Dân ra số 74 ngày 1/5/1928. Số
báo này cùng sáu số kế tiếp,
từ số 75 tới 80, chỉ có 2 tờ khổ nhỏ bằng nửa bình
thường, vì máy in do hãng
d’Alauzet sản xuất đang được tháo ra để thiết trí ở địa
chỉ mới. (RSA/HC,
HS
1869) II.
TRƯỜNG HỢP NÀO TIẾNG DÂN RA ÐỜI? A. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ
BÁO CHÍ VIỆT Kỹ nghệ
báo chí và xuất bản nhập cảng vào
Việt Tờ báo đầu
tiên xuất hiện tại Ðông Dương
là tờ Le Bulletin Officiel d’Expédition
de la Cochinchine [Thành tích biểu viễn chinh Nam
Kỳ], bằng Pháp ngữ. Số 1
ra mắt ngày 29/9/1861. Tiếp đó là tờ Le
Bulletin
des
Communes [Thành tích cộng đồng], bằng Hoa ngữ, số
1 ra năm
1862, rồi thêm tờ công báo bằng Pháp ngữ Le
courrier de Mãi tới
ngày 15/4/1865, tờ báo đầu tiên
bằng chữ Việt mới–dựa theo chữ cái Latin và dấu xướng
âm Portuguese–mới chào đời
ở Sài Gòn, tức tờ Gia Ðịnh Báo.
Tuần
báo này phát không trong các
làng mạc miền Theo tài
liệu Pháp, tờ báo thứ
hai bằng Việt ngữ là Nam Kỳ, do A.
Schneider xuất bản ngày 21/10/1897. (Số báo 46, ra
ngày 8/9/1898, có bài về
Petrus Key cùng một chân dung với đủ huy chương
Pháp-Việt, kể cả Bắc đẩu Bội
tinh) Tờ thứ ba là Phan Yên báo
(Phan
Yên là tiếng nói lái của Phiên An, tức
Sài Gòn). Báo này vừa ra mắt thì
phải đóng
cửa ngay vì Nghị định ngày 30/12/1898. Ðiều 2 của
Nghị định trên qui định rằng
tất cả các báo không viết bằng Pháp ngữ phải
đưa kiểm duyệt trước khi phát
hành.( 6) Riêng
báo tư nhân bằng Pháp ngữ phát
triển khá mạnh ở Ðầu thế kỷ
XX, mới xuất hiện một số báo
tiếng Việt hoặc song ngữ (Hán-Việt) trong một thời gian ngắn.
Tại Hà Nội, có Nông Cổ Mín
Ðàm (1904), Ðại Nam Ðăng cổ
tùng báo (1907), và Ðại Việt
Tân báo (1905-1908). Tại Sài
Gòn có Lục tỉnh tân văn (1907,
1910).
Sự chậm phát triển này có nhiều lý do. Số
độc giả chữ Việt mới còn rất giới
hạn. Cho tới năm 1908, khắp ba kỳ mới có 167 người (kể cả Nguyễn
Sinh Côn) đậu
bằng tiểu học Pháp-Nam. Ngoài ra, luật báo
chí ngày 30/12/1898 rất khe khắt. Nhân vật
lừng lẫy nhất trong giới văn bút
thời gian này là Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936). Tốt nghiệp
trường thông ngôn Hà
Nội năm 1896, Nguyễn Văn Vĩnh làm thư ký cho Tòa
Thống sứ tới năm 1907 mới đổi
qua nghề báo. Ngoài tờ Ðại Gần cuối Thế
chiến thứ nhất (1914-1918),
làm báo trở thành một nghề. Miền Thập niên
1920 chứng kiến sự
phát triển mạnh của báo chí và ngành
xuất bản tại Tại
Nam
kỳ,
gây
chú
ý
nhất là các tờ Le
Courrier
indochinois [Ðông Pháp Thời Báo]
(1923-1928) của Nguyễn Kim Ðính (sau bán
cho Diệp Văn Kỳ, con Diệp Văn Cương); Trung
Lập (16/1/1924-30/5/1933) (BNF, Jo 93899), và Sài
Thành
nhựt
báo của Trương Duy Toản (1885-1907), tức
Mạnh Tự; La tribune indochinoise [Diễn đàn
Ðông Dương]
(6/8/1926-1942), cơ quan ngôn luận của Ðảng
Lập Hiến, do Bùi Quang Chiêu (1873-1945) làm
Chủ nhiệm, và L’Echo annamite [Tiếng vọng An
Nam hay Dư
Luận] của Nguyễn Phan Long (1889-1960).(10) Ngoài
ra,
còn
tờ
Lục tỉnh tân văn
(1927-30/9/1944) của
nhóm Nguyễn Văn Của-Lê Quang Liêm (1881-1945) tự
“Phủ” Bảy.(11) L’Echo annamite, L’Impartial, Trung Lập và
Lục tỉnh tân văn giữ bề ngoài trung
lập. Riêng
bán tuần báo La Cloche fêlée
[Chuông rạn] bằng Pháp
ngữ đứng hẳn về phe đối lập, đòi hỏi dân chủ và
dân quyền cho người Việt. La Cloche
Fêlée do Nguyễn An Ninh
(1900-1943), Cử nhân Luật năm 1921, xuất bản tại Sài
Gòn từ ngày 10/12/1923 tới
14/7/1924 thì tự ý đình bản. Ngày
26/11/1925, báo tục bản với Luật sư Phan Văn Trường (1878-1933)
làm Giám đốc
chính trị. Theo E. Dejean de la Bâtie, Luật sư Trường
là “một người An-Nam toàn
vẹn (un annamite complet).” Cũng
ngày này, Phan Văn Trường cùng Nguyễn An Ninh
và Bâtie yêu cầu hủy bỏ lễ đón
tiếp Toàn quyền Alexandre Varenne (1925-1927) và đưa kiến
nghị (Cahier des
Voeux Annamites) để phản đối việc Phan Bội Châu bị kết án
chung thân khổ sai ba
ngày trước.( 12)
Nhóm
La
Cloche
Fêlée
luôn
đòi hỏi cải
cách xã hội, luật pháp và giáo dục,
hủy bỏ chế độ quân chủ, thay bằng chế độ
Cộng hòa. Báo cũng đăng tải nhiều khảo luận về các
biến cố lịch sử, như cuộc du
hành của vua Duy Tân năm 1916, v.. v... Thái độ của
viên chức thuộc địa với
nhóm La Cloche Fêlée khác
hẳn với
nhóm Phạm Quỳnh, Nguyễn Hữu Bài, Bùi Quang
Chiêu, hay Nguyễn Phan Long v.. v...
Mặc dù có phần vị nể Phan Văn Trường, Thống đốc Maurice
Cognacq (1922-1926) bí
mật yêu cầu Varenne ngăn chặn những hành vi “phỉ
báng các viên chức thuộc địa
Pháp cùng giới quan lại Việt” (Như hô hào
dân chúng đừng đón tiếp Varenne, gọi
Bảo Ðại là le roi bé con, hay
Khâm sứ
Pasquier là thằng). Sau khi Nguyễn An
Ninh bị câu lưu ngày 24/3/1926 [kết án 18
tháng tù, nhưng ngày 7/1/1927 được đặc
xá], báo đổi tên thành L’Annam.
Ra được
hơn một năm (6/5/1926 tới 25/7/1927), lại phải đóng cửa
vì Luật sư Trường bị
bắt ngày 21/7/1927 và truy tố ra tòa. Ngày
12/1/1928, L'Annam tục bản được ít số, rồi
đình bản vĩnh viễn từ ngày
2/2/1928.( 13) Tại
Bắc
kỳ,
ngoài
hai
tờ
Trung Bắc Tân Văn
và Nam Phong, còn có thêm
một số báo
tư nhân như Thực nghiệp Dân báo
(1920-1933), Hữu Thanh (1922-1924)
(BNF, MICR D-982), An Riêng
miền
Trung,
cho
tới
năm
1926, vẫn chưa có một tờ báo
nào. Hai tờ báo được đọc
nhiều nhất từ Bình Ðịnh trở ra là Trung
Bắc Tân Văn và Nam Phong.
Chính
trong khoảng trống báo chí này của miền Trung,
Huỳnh Thúc Kháng và những người
ủng hộ đã khai sinh Tiếng Dân. B. TRƯỜNG HỢP TIẾNG DÂN: Việc xin xuất
bản Tiếng Dân khởi đầu từ tháng
10/1926, sau khi Tiến sĩ Kháng đắc cử vào Viện Dân
Biểu An Nam [Trung Kỳ] và được
cử làm Chủ tịch Viện này. (15) Tiếng
Dân
ra
đời
dưới
thời
Toàn
quyền
Varenne, nhưng người có tiếng
nói quyết định là Khâm
sứ Pasquier, một viên chức hành chính thuộc địa
lão luyện, tác giả L’Annam d’autrefois [An
Nam
cổ
thời],
lúc
ấy
vừa rời Tòa Khâm sứ Huế ra Hà Nội xử
lý thường vụ chức Toàn quyền từ
tháng 10/1926 tới tháng 5/1927. Varenne
thuộc
Ðảng
Xã
Hội,
có
tinh thần cấp tiến, nghiêng về
chủ trương hợp tác hay Pháp-Việt
đề huề. Trước
ngày
Varenne
nhậm
chức
vào gần cuối
tháng 11/1925, mối quan tâm lớn nhất của viên chức
Thuộc địa Pháp tại Paris là
tâm trạng bất an và bất mãn của giới thanh
niên tân học Ðông Dương. Mặc dù
Pháp
có khả năng dẹp yên những người bất mãn trong nước,
nhưng các tổ chức chống đối
ở Trung Hoa hay tại chính mẫu quốc không dễ đối
phó. Nhóm Tâm Tâm Xã
từng mưu sát cựu Toàn quyền Martial Merlin tại Quảng
Châu vào giữa năm 1924, và các tổ chức
có khuynh hướng Bolshevik [như Việt Nam Thanh
Niên Kách Mệnh Hội [VNTNKMH]
của Lý Thụy] vừạ hình thành, với sự trợ
giúp của Quốc Tế Cộng Sản. Tại Pháp,
các học sinh, sinh viên tại Trung tâm Ðông
Dương (Foyer indochinois) cũng ngày
thêm bất an. Ngày 15/9/1925, Bộ trưởng Thuộc Ðịa cho
Varenne những chỉ thị tổng
quát về chính sách bản xứ như sau: (1)
Thứ
nhất
là
tạo
công
ăn, việc làm cho giai tầng
tân học; (2)
thứ
hai,
cải
tổ
Ðại
học Hà Nội, hầu đáp ứng nhu cầu học
hỏi về kỹ thuật, và cải
tổ lại nền giáo dục tiểu học; và, (3)
thứ
ba,
cải
tổ
các
cơ quan dân cử địa phương cũng như Hội đồng
chính phủ, để có
sự tham gia của giai tầng tân học.( 16) Ngay
sau
khi
nhiệm
chức,
Varenne
cải tổ Hội đồng Tư Vấn Bắc Kỳ và An Nam
thành Viện
Dân Biểu. Cuộc bầu cử năm 1926 đưa vào Viện Dân biểu
Trung Kỳ nhiều nhân vật
tên tuổi, kể cả Huỳnh Thúc Kháng hay Lê Văn
Huân, mới được phóng thích khỏi Côn
Ðảo ít năm trước. Tại miền Bắc, có Nguyễn Văn Vĩnh,
Phạm Lê Bổng, v.. v...
Varenne dự trù thiết lập một Thượng Hội Ðồng (Grand Conseil)
với 32 thành viên,
mà một nửa là người bản xứ. Varenne còn ban
hành ba nghị định–Nghị định ngày
27/2/1926, cùng hai nghị định ngày 20/5 và
28/8/1926–cho phép người Việt có
bằng cấp và quốc tịch Pháp được gia nhập ngạch công
chức thuộc địa “người Âu,”
ngoại trừ tiền trợ cấp xa xứ. Họ cũng có quyền, ít nhất
trên lý thuyết, nắm
những chức vụ ngang hàng với người Pháp trong guồng
máy hành chính thuộc địa,
ngoại trừ các chức vụ chính trị và tư pháp.
Varenne còn ban hành nhiều biện
pháp nâng đỡ giới công nhân và
nông dân, đặc biệt là phu đồn điền cao su. Giờ
làm việc giới hạn từ 12 tới 13 giờ mỗi ngày. Varenne cũng
nghiên cứu biện pháp
giúp đỡ những người mang hai dòng máu
Pháp-Việt (métis). Ðể
kiện
toàn
sự
thống
nhất
chương trình học vấn khắp ba miền,
Varenne thành lập
một Nha Thanh tra học chính. Ở cấp tiểu học, chỉ dạy tiếng quốc
ngữ mới. Ðại
học Hà Nội được nâng cấp, tổ chức chương trình cử
nhân luật khoa (ba năm). Trường
Thuốc (Y Khoa) được nối kết với Ðại học Y Khoa Paris. Các y
sinh tốt nghiệp ở
Hà Nội, nếu xuất sắc, có thể qua tu nghiệp tại Món
quà
chính
trị
đáng
ghi
nhớ nhất của Varenne với người Việt
là lệnh ân xá cho Cử
nhân Phan Bội Châu vào dịp Giáng Sinh 1925,
và phản ứng tương đối ôn hòa trong
dịp quốc táng Phó bảng Phan Châu Trinh ngày
4/4/1926. Tuy nhiên, Ðông Dương nói
chung và Việt Một
số
người
Việt
từ
Pháp
trở về cũng không hoàn
toàn tán thành. Theo họ, những cải
cách của Varenne quá ít, và quá
chậm. Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh, v.. v...
không ngớt đả phá nền hành chính thuộc địa,
đặc biệt là triều đình Huế. Nguyễn
Thế Truyền (1898-1969) nhắm vào các tệ nạn kinh tế,
xã hội như chính sách độc
quyền bán “rượu ty,” muối và thuốc phiện.(18) Ba
nhóm
“bản
xứ”
Việt
khiến
người Pháp chú ý đặc biệt
là Ðảng Lập Hiến [Le Parti Constitutionalist]
của
Bùi
Quang
Chiêu
(1873-1945),
Ðảng Lao Ðộng Nam Kỳ [Le
Parti
Travailliste de la Cochinchine] của Cao Triều Phát
(1888-1956) và Cao Hải Ðề (?),chủ báo L'ère
nouvelle [Thời Ðại Mới] (Vũ Ðình Dy [1906-1945]
làm Chủ bút), và các nhóm
Cộng Sản Bôn-xê-vích như L'Âme
annamite/Việt Nam Hồn của Nguyễn Thế Truyền tại Pháp, Thanh Niên của Nguyễn Ái Quốc (Lý
Thụy) ở Canton (Quảng Châu).
Ngoài ra phải kể đạo Cao Ðài của Lê Văn Trung
(1875-1934). (19) Các
nhóm
Pháp
kiều
cũng
công
khai chống đối chính sách “đề huề”
của Varenne. Những
biến
động
trong
năm
1926
khiến Varenne phải về III. VÀI GHI CHÚ
THÊM VỀ TIẾNG DÂN: Hiện đã
chụp microfilm, lưu
trữ trong thư viện Quốc Gia Pháp (Francois Mitterand) ở quận
XIII Paris. (BNF,
MICR
D-996) A. NGHỊ ÐỊNH CHO
RA BÁO: Qua những tư liệu
trên, ta thấy Pasquier
ký Nghị định (Arreté) cho phép Huỳnh Thúc
Kháng xuất bản tờ Tiếng Dân từ ngày
12/2/1927. (Tài
liệu
14) Ngày
5/8/1927, Khâm sứ Trung Kỳ nhắc nhở
Huỳnh Thúc Kháng rằng mỗi số báo phải nộp 2 bản
cho văn phòng Tòa Khâm. Ðồng
thời, hai ngày trước khi in, phải nộp cho Sở Liêm
Phóng Huế hai bản vỗ với đầy đủ
bản dịch qua Pháp ngữ. (Tài
liệu
20)
Tiếng
Dân ra mắt độc giả vào ngày 10/8/1927. Tính
đến đầu tháng 5/1928, ra được 74
số. (Tài
liệu
21) B. TÒA SOẠN
ÐẶT TẠI HUẾ: Sau một thời gian
dài tranh luận, ngày
13/4/1927, Huỳnh Thúc Kháng đã đồng ý đặt
tòa soạn tại Huế. (Tài
liệu
19)
Báo quán tại số 123 đường Ðông Ba. Mùa
Hè 1927, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Xương
Thái, và Ðào Duy Anh ra Hà Nội mua lại
trọn nhà in Nghiêm Hàm mang về Huế, và
dự trù xuất bản báo vào tháng 7/1927. (Ðào
Duy
Anh,
1989:22,
24)
Tuy
nhiên,
Tiếng
Dân ra mắt độc
giả trễ ít lâu. D. NHỮNG BIỆN
PHÁP KIỂM SOÁT TIẾNG DÂN: Mặc dù
Huỳnh Thúc Kháng khẳng định lập trường
chống Cộng, và cổ võ chính sách duy
tân thân Pháp, ôn hòa, nhưng viên
chức Pháp
vẫn theo lời khuyên của Nguyễn Hữu Bài và Hồ
Ðắc Trung, thực hiện những biện
pháp kiểm soát và kiểm duyệt chặt chẽ. 1. Ngày
16/2/1927, D’Elloy chỉ thị Sở
Liêm Phóng An Nam theo dõi kỹ Tiếng Dân. Sở
Liêm Phóng phải lưu trữ và theo dõi
thường xuyên. (Tài
liệu
15) 2. Ngày
19/3/1927, Sogny đệ trình kế
hoạch kiểm soát Tiếng Dân. Lập một ban kiểm
soát riêng dưới quyền
Bùi Văn Cung và hai người khác. (Bùi Văn
Cung từng cùng H. Peysson-naux hợp
dịch nhật ký của Linh mục Nguyễn Văn Thơ (hay Cư), một trong hai
thông ngôn của
sứ đoàn Lê Tuấn tham dự cuộc nghị hòa năm 1873 ở
Sài Gòn, đăng trên Ðô thành
hiếu cổ [Bulletin des Amis de Vieux Hué]).( 20) Ban kiểm duyệt
này sẽ bảo đảm bài vở
không được xúc phạm chủ quyền bảo hộ Pháp và
chế độ thiết lập tại 3. Ngày
5/8/1927, Khâm sứ lập lại điều
kiện hai ngày trước khi in phải nộp cho Sở Liêm
Phóng hai bản vỗ kèm theo bản
dịch Pháp ngữ. (Tài
liệu
20)
Năm
ngày
sau,
báo
ra
số đầu
tiên. 4. Thỉnh thoảng
trên báo Tiếng Dân có những
khoảng trắng, dấu
tích của ban kiểm duyệt. Trong báo cáo
chính trị hàng tháng của Cảnh sát
Pháp, đôi
ba lần Tiếng Dân và Huỳnh Thúc
Kháng được
nêu tên, nhất là dưới thời Nhật chiếm đóng
Ðông Dương. Tuy nhiên, Tiếng Dân
vẫn đều đặn xuất bản một cách
hợp pháp suốt hơn 15 năm. 5. Suốt gần một
năm Tiếng Dân chuẩn bị ra mắt, tình
hình chính trị Ðông Dương có những
chuyển biến khá lớn. Một trong những biến cố trực tiếp ảnh hưởng
đến Ðông Dương
là quyết định cắt đứt bang giao với Mat-scơ-va của Tưởng Giới
Thạch, chấm dứt
chính sách liên hiệp, phát động chiến dịch
“thanh Cộng.” Trước khi Varenne rời
Paris, ngày 21/4/1927 Bộ trưởng Thuộc Ðịa Léon
Perrier chỉ thị rõ ràng rằng đừng
nên vội vã cải cách, và vấn đề “chủ quyền”
Pháp phải ưu tiên hàng đầu. Varenne
cần tuyên bố rõ ràng rằng mặc dù Pháp
theo đuổi một chính sách cởi mở, nhưng
không quên bảo vệ quyền lợi Pháp; sẽ trừng phạt nặng
nề và tức khắc những vi
phạm luật pháp, kể cả giới báo chí. Perrier
còn chỉ thị Varenne phải theo dõi
và cô lập hoá những phần tử bị nghi ngờ, như
nhóm Bùi Quang Chiêu, Cao Triều
Phát, cùng các nhóm có khuynh hướng
Ðệ Tam Cộng Sản.( 21)
Hôm
sau,
ngày
22/4/1927,
Perrier
cử
Tướng Claudel, Tổng Thanh Tra Quân lực Thuộc địa, qua
Viễn Ðông để
nghiên cứu kế hoạch phòng thủ chống lại mọi xâm phạm
an ninh của Ðông Dương
cũng như Quảng Châu Loan.( 22) Ngày
16/5/1927, Toàn quyền Varenne trở
lại Ðông Dương. Pasquier về Pháp, cầm đầu Sở Kinh tế
Ðông Dương tại Bộ Thuộc
Ðịa. Ngày 4/10/1927, Varenne ký một nghị định,
áp dụng những biện pháp hành
chính để ngăn chặn giới cầm bút sử dụng báo
chí và sách vở chống chính quyền
bảo hộ. Theo Nghị định này, “mọi âm mưu và
hành vi gây rối loạn trật tự công
cộng hay gây nên những bất ổn trầm trọng, hay khích
động lòng ghét bỏ chính phủ
Pháp hay những chính phủ được bảo hộ” sẽ bị truy tố ra
tòa sơ thẩm hình sự và
có thế bị kết án tù tới 5 năm” [theo điều 91
hình sự].( 23) Nhóm
Nguyễn An
Ninh và Phan Văn Trường của báo La Cloche
Fêlée [Chuông Rạn] tại Sài Gòn trở
thành nạn nhân đầu tiên của nghị định
này. Mặc dù La Cloche Fêlée
đã đổi
tên thành L’Annam ngày 6/5/1926,
báo
bị gián đoạn từ hạ tuần tháng 7/1927, sau khi Phan Văn
Trường bị bắt giữ, truy
tố ra tòa. Tháng 1/1928, L’Annam tục
bản được ít số, nhưng cuối cùng phải đình bản
ngày 2/2/1928. Luật sư Trường bị
kết án 2 năm theo tinh thần Nghị định 4/10/1927. Là
công dân Pháp, ông chống án
tới Một Luật gia
khác, Tiến sĩ Dương Văn Giáo
(1890-1945), nguyên Luật sư tòa phá án
Paris, có thể coi như người tiếp nối con
đường đối lập của Phan Văn Trường. Năm 1928, Luật sư Giáo xuất
bản tờ Le Flambeau d’Annam [Ðuốc Nhà Nam]
đặt
cùng trụ sở tòa soạn với La Tribune
indochinoise. Chuyến hồi hương ngày 25/11/1927 của Luật sư
Giáo–cùng
Camille Brevet và Edith Pye của Women’s
International League for Peace and Freedom [Liên đoàn
Phụ nữ Quốc tế vì Hòa
bình và Tự do]–từng gây sôi nổi dư luận
Sài Gòn một thời. Trong khi nhóm Bùi
Quang Chiêu-Nguyễn Phan Long, qua báo La
Tribune indochinoise ngày 23/11/1927 hô hào
đón tiếp long trọng phái đoàn Dương
Văn Giáo, Diệp Văn Kỳ (1894-1945), trên tờ Ðông
Pháp
Thời
báo, chống lại. Theo Kỳ, Giáo cũng như
Bùi Quang Chiêu, Phó Chủ
tịch Hội Ðồng Quản Hạt Nam Kỳ, đều lấy tiền của tài phiệt A.
R. Fontaine. Hôm
sau, ngày 25/11/1927, tờ Văn Minh Báo
của Bác sĩ Lê Quang Trinh đăng lại bài của Kỳ về
Giáo. Tháng 9/1945, Giáo cũng
bị Cộng Sản bắt và thủ tiêu trong đợt tắm máu
các lãnh tụ Lập Hiến và Ðệ tứ
CS.( 25) E. TÀI
CHÍNH: Một tờ báo
tư nhân nào cũng cần ổn định
tài chính. Công ty Huỳnh Thúc Kháng
là một công ty cổ phần. Những người thuộc
ban quản trị đều phải có đa số cổ phần. Riêng Huỳnh
Thúc Kháng không có vốn,
các thương gia Phan Thiết “cho mượn” cổ phần để ông
làm Chủ tịch. Việc này
gây ra vụ kiện tụng, trong thập
niên 1970, về tài sản công ty Huỳnh Thúc
Kháng giữa Võ Ðàn Sơn tại Tam Kỳ và
người
thừa kế hương hỏa Tiến sĩ Kháng (con gái và rể
đang ở miền Bắc).( 26) F. BAN BIÊN
TẬP TIẾNG
DÂN: 1. Ngày
11/1/1927, từ Tourane
Huỳnh Thúc Kháng viết thư cho D’Elloy về vấn đề Ban
biên tập của Tiếng Dân. Huỳnh Thúc
Kháng sẽ là Chủ
nhiệm kiêm Chủ bút. Phụ tá biên tập là
Ðào Duy Anh. Quản trị giao cho Trần Ðình
Phiên, thương gia ở Phan Thiết. (Tài
liệu 12) 2. Theo
Ðào Duy
Anh, còn có: a. Trần
Hoành, tức Cửu Cai,
bạn tù Côn Ðảo của HTK, giúp việc quản đốc
nhà in; Nguyễn Xương Thái, từ chức
thư ký sở Thương chính Tourane, giúp việc văn thư.
(Anh,
1989:24-5) b. Chủ nhân
rạp chiếu bóng Tam
Tân ở Huế, ông Trần Kiêm Trinh và cháu
là Phạm Ðăng Nghiệp, giúp đỡ chỗ ở trong
những tháng đầu, và rồi thuê tòa soạn, v..
v... (Anh,
1989:25) c. Y sĩ Trần
Ðình 3. Huỳnh Thúc
Kháng (1876-1947) sinh tại Thanh
Bình, Tiên Phước, Quảng Năm 1904, được
Nguyễn Thành
mời tới tư gia, cùng Phan Châu Trinh, gặp Phan Bội
Châu (1868-1940).( 27)
Sau
khi
Cử
nhân
Châu
rời
nước, Phan Thúc Diện, Lê Bá Thuần
[Trinh], và Nguyễn Ðình Tân lập Hội
thương ở Faifo (Hội An).( 28)
Trong
khi
đó,
một
số
thân sĩ đồng
hương hô hào việc mở mang hương học, cắt tóc ngắn,
mặc âu phục, học tiếng Pháp.
Năm 1905, nhóm Phan Châu Trinh, Trần Quí
Cáp, Huỳnh Thúc Kháng còn làm một
huyến du Nam, sáng tác ra bài Chí
Thành Thông Thánh và Lương Ngọc Danh Sơn
Phú
khích bác lối học khoa cử từ chương, kêu gọi giới
sĩ phu đứng lên nhận trách
nhiệm duy tân. Việc phát triển “tân học” được đẩy
mạnh hơn sau khi Trần Qúi Cáp
được bổ làm Giáo thụ Thăng Bình năm 1906. Năm này,
Phan Châu Trinh qua
Quảng Ðông, rồi theo Phan Bội Châu sang Nhật, nhưng
không tán thành chủ trương
tranh đấu bằng vũ lực. Về tới Quảng Mùa Thu
1907, sau ngày Toàn
quyền Paul Beau về nước, các viên chức bảo hộ Pháp
xuống tay với phong trào Duy
Tân. Ðồng chí của Phan Bội Châu, ngoại trừ
Phó bảng Ðặng Nguyên Cẩn, bị bắt giữ
khắp nơi. Khâm sứ Fernand Levecque tìm đủ cách để
khép nhóm Tiến sĩ Ngô Ðức Kế
ở vùng Thanh-Nghệ-Tĩnh vào tội tổ chức sở buôn để
chuyển tiền cho Phan Bội
Châu, qua trung gian Lương Tam Kỳ, một thổ phỉ người Hoa
đã đầu thú. Ðích thân
Levecque còn tới Bắc Trung Kỳ hướng dẫn các quan tỉnh để
có được bản án mong
muốn, nhưng các quan Việt–như Tuần vũ Hường Khản–quá “ngu
dốt,” viết nên những
bản án thiếu sự tham khảo và áp dụng luật
pháp.( 30) Nhóm duy
tân Quảng Nhưng phải tới
phong trào nổi
dạy của nông dân miền Trung đòi giảm sưu dịch, thuế
má trong mùa Xuân 1908–khởi
đầu từ Quảng Nam, rồi lan rộng tới Quảng Ngãi, Bình
Ðịnh, Thừa Thiên–Levecque
và Charles mới có cơ hội xuống tay mạnh mẽ. Phan
Châu Trinh, đang ở Hà Nội đã hơn
nửa năm, bị bắt, dẫn giải về Huế, kết án tử hình, rồi
giảm còn chung thân khổ
sai, đầy ra Côn Ðảo. Trương Huy bị
án đánh 100 trượng,
7 năm khổ sai. Nguyễn Ðình Tân, vì đã 70
tuổi, bị lột bỏ mọi chức sắc. 10 người
khác bị 100 trượng, 3 năm khổ sai vì biết
mà không báo cáo. Ngày 29/8/1908,
Phủ Phụ Chính duyệt xét và y án tỉnh
Quảng Nam, ngoại trừ trường hợp Nguyễn Bá Trác,
lúc ấy đã trốn qua Nhật. Cử
nhân Trác (tác giả bài Hồ trường
sau
này) được giảm án còn 3 năm khổ sai. (Năm 1913,
Trác còn bị Hội Ðồng Ðề Hình
Bắc Kỳ lên án tử hình khiếm diện). Cùng bị
đầy ra Côn đảo với
Tiến sĩ Kháng có Cử nhân Diện (được phóng
thích sau Thế chiến I), Thuần
(Trinh), và Thành [chết ở Côn Ðảo năm 1910 hoặc
1912].( 32) Phần Tiến sĩ
Cáp bị một viên
chức Pháp và Bố chính Phạm Ngọc Quát đến
tận Ninh Hòa bắt ngày16/4/1908 cùng 9
người khác (6 giáo quan, 3 Ðông y sĩ), dẫn về
Nha Trang. Sau đó, Bố chính Quát
làm án tử hình ông với tội phản nghịch,
tàng trữ tài liệu quốc cấm, và thông đồng
với nước ngoài. Cùng bị kết án với TQC là
Nguyễn Tư Trực, người đã cung khai
những chi tiết vô cùng tai hại cho ông. Ngày
13/6/1908, Phủ Phụ chính Huế y án
Tiến sĩ Cáp, trong khi giảm án Trực còn “giảo giam
hậu.” Hai ngày sau,
15/6/1908, Tiến sĩ Cáp lên đoạn đầu đài. (33)
Như
thế,
chi
tiết
Tiến
sĩ
Cáp bị chém trong
vòng 24 giờ mà Phó bảng Trinh nêu
lên trong bản điều
trần Trung Kỳ dân biến thỉ mạt ký
(1911 và 1913) không đúng. Nhờ sự can thiệp
của ký giả
Ernest Babut và Hội Nhân và Dân Quyền
Pháp, tháng 6 năm 1910 Phó bảng Trinh được
Toàn quyền Anthony Klobukowski đem ra tái xử, và
phóng thích, rồi ngày 1/4/1911
đưa ông cùng con trai là Phan Châu Dật sang
Pháp với học bổng 6 tháng. Sau khi
Albert Sarraut được cử thay Klobukowski, ngày 18/7/1911 Phan
Châu Trinh viết thư
xin ở lại Pháp thêm một năm nữa để “lãnh hội văn
minh.” Sarraut chấp thuận
ngay. Ai ngờ thời gian Phó bảng Trinh tự lưu đầy tại Pháp
kéo dài tới 14 năm,
kể cả ngót một năm bị tạm giam trong ngục Santé khi Thế
chiến thứ nhất
(1914-1918) bùng nổ.( 34) Nhờ bản điều trần
của Phó bảng Trinh nạp
cho Sarraut năm 1911 (do Ðại úy Jules Roux dịch, gồm khoảng
50 trang giấy khổ
lớn), và sự can thiệp tích cực của Hội Nhân Quyền,
năm 1913 một số nho sĩ duy
tân được Phủ Phụ chính Huế giảm án. Huỳnh
Thúc Kháng, Ngô Ðức Kế, Ðặng Nguyên
Cẩn và một số người khác ở Côn Ðảo chỉ được
phóng thích năm 1921.( 35)
Ngày
26/6/1925,
Phó
bảng
Trinh
về tới Sài
Gòn, nhưng không có cơ hội gặp lại bạn cũ. Tối
24/3/1926, ông từ trần vì bệnh
lao phổi. Ngày
4/4/1926,
Huỳnh
Thúc
Kháng
dự
lễ quốc táng Phan Châu
Trinh ở Sài Gòn. Ông là
một trong hai diễn giả chính đọc điếu văn trước khoảng
trên 60,000 người tham
dự tang lễ. Ít
lâu
sau,
Huỳnh
Thúc
Kháng được yểm trợ
ra tranh cử dân biểu Trung Kỳ. Ông đắc cử với số phiếu cao
nhất (600 trên tổng
số 640 phiếu), và được bầu làm Chủ tịch Viện Dân
biểu.(36) Trong
thời
gian
ở
Huế,
Tiến
sĩ Kháng khá thân tình với
Phan Bội Châu, đang bị an trí tại đây
từ cuối năm 1925. Sau khi báo L’Annam của Phan Văn Trường/Nguyễn
An Ninh bị đóng
cửa, Tiếng Dân đứng ra tiếp tục nhận quyên góp cho
Cử Nhân Châu sinh sống suốt
những năm cuối đời. Ông ít nhiều tham gia vào việc
hiệu đính bản dịch Việt ngữ
hồi ký của Phan Bội Châu (Tự Phán
hay Niên Biểu). Ông cũng viết nhiều về
Phan Tây Hồ, kể cả một tiểu sử tóm lược không được
chính xác lắm. Huỳnh Thúc
Kháng còn viết lại về cuộc dân biến 1908,
cùng lược sử đời ông. Từ
ngày
Nhật
thiết
lập
Tòa
Lãnh sự ở Huế năm 1942, nhân
viên Hiến Binh [Kempeitai] Nhật liên
lạc với nhóm Tiến sĩ Kháng. Có lẽ vì thế
năm 1945, Y sĩ Trần Ðình Tháng
3/1946,
Tiến
sĩ
Kháng
được
chọn làm Bộ trưởng Nội vụ trong
chính phủ Liên hiệp Kháng
chiến, với cương vị “độc lập.” Ðược Hồ Chí Minh cử
làm Quyền Chủ tịch Nhà Nước
từ 31/5 tới 21/10/1946, khi Hồ qua Pháp thương thuyết về một
giải pháp chính
trị cho Việt Tham
dự
phiên
họp
Quốc
Hội
“kháng chiến” từ 28/10 tới 9/11/1946, rồi
vào Huế. Sau ngày
19/12/1946, được di tản vào Liên khu V. Ngày
24/4/1947 chết tại Quảng Ngãi. 4. Ðào
Duy Anh
(1904-1988) nguyên quán Khúc Thủy, Tả Thanh Oai,
huyện Thanh Oai, Hà Ðông. Sinh
tại Thanh Hóa. Học Quốc học Huế. Năm 1923, tốt nghiệp cao đẳng
tiểu học (trung
học đệ nhất cấp), dạy học ở Ðồng Hới, Quảng Bình (37) Giống như nhiều
thanh niên “thế hệ 1925,”
Ðào Duy Anh bắt đầu có ý thức quốc gia
dân tộc nhờ phiên tòa xét xử Phan Bội
Châu ngày 23/11/1925 ở Hà Nội. Sau khi Phan Bội
Châu bị Hội đồng đề hình Bắc Kỳ
kết án chung thân khổ sai, một phong trào
đòi ân xá bùng lên khắp nơi.
Ngày
5/12/1925, khi tân Toàn quyền Varenne (11/1925-11/1927) ra
tới Hà Nội, hàng trăm
học sinh, sinh viên biểu tình chào mừng và
yêu cầu ân xá cho Phan Bội Châu. Bốn
ngày sau, 9/12, Hội đồng Bảo hộ Bắc Kỳ dưới sự chủ tọa của
tân Thống sứ René
Robin quyết định giảm án chung thân của Phan Bội
Châu xuống án treo.( 38) Ngày
21/12/1925, Pasquier ra Hà Nội; gặp
Phan Bội Châu một tiếng đồng hồ tại văn phòng chúa
ngục để thảo luận với cựu
lãnh tụ Ðông du về các điều kiện an trí.
Cuối cùng, ngày 23/12/1945, Varenne ký
nghị định an trí Phan Bội Châu tại Huế, dưới sự kiểm
soát của Chánh sở Mật thám
Trung Kỳ Sogny.( 39) Trên đường
xe hơi từ Hà Nội về Huế, Phan
Bội Châu ghé qua trụ sở Hội Quảng Trị ở Ðồng Hới,
Quảng Bình. (Anh,
1989:
9-10)
Sau
lần
gặp
Phan
Bội
Châu
này, Ðào Duy Anh bỏ nghề
giáo, định vào Sài Gòn làm
báo. Tới Ðà
Nẵng, Ðào Duy Anh gặp
Huỳnh Thúc Kháng, và đồng ý tham gia
công ty Tiếng Dân. (Anh,
1989:20).
Mùa
Hè
1926,
Trần
Mộng Bạch kết nạp
Ðào
Duy Anh vào Việt Nam Cách Mệnh Ðảng,
hoá thân của Hưng Nam Hội (Anh,
1989:20, 28-31). Lúc này Bạch đã chịu ảnh hưởng
của Việt Nam Thanh Niên Kách Mệnh Hội
[VNTNKMH] của Lý Thụy, qua đường
dây Lê Duy Ðiểm, và cử Trần Phú qua Quảng
Châu vào tháng 7/1926. Nhưng Ðiểm
thực ra đã bí mật tham gia tổ chức VNTNKMH, và
được gửi về nội địa hoạt động.
Trần Phú rồi cũng ngả theo Lý Thụy và được gửi qua
Nga huấn luyện. Mùa
Hè 1927, Ðào Duy Anh tham
gia Việt Vì lập
trường “Cộng Sản” này,
việc Ðào Duy Anh xa rời Tiếng Dân rất
dễ hiểu, nhất là từ khi các tân lãnh đạo
Ðảng CSÐD công khai chỉ trích Tiếng
Dân và Huỳnh Thúc Kháng là “cải
lương”,
“phá hoại cách mạng.” Thêm
vào đó, năm 1928, Huỳnh Thúc Kháng bị
ép buộc phải từ chức Viện trưởng
Viện Dân biểu, sống thuần bằng nghề báo. Thập
niên 1950, Ðào Duy Anh dính líu
vào vụ Nhân
Văn-Giai Phẩm, bị cách chức Giáo sư, về làm
việc dưới quyền Trần Huy Liệu
tại Viện Sử học Hà Nội. KẾT TỪ:
Bán
tuần
san
Tiếng Dân–dù không gây
nhiều
tiếng vang hay được nghiên cứu sâu rộng như Tiếng
Dân
là
cơ
quan
ngôn
luận
tư
nhân bằng Việt ngữ đầu tiên xuất
bản tại Huế và phục vụ độc
giả An Nam (Trung Kỳ) suốt hơn 15 năm dài. Huỳnh
Thúc
Kháng–giống
như
những tri kỷ của
ông từng hy sinh đời mình cho
giấc mộng hiện đại hóa đất nước một cách ôn
hòa–đã kiên nhẫn tối đa, dùng Tiếng
Dân như một phương tiện giáo hóa đám
đông mà theo ông còn “chậm tiến,” chưa đủ sức
chen vai, thích cánh với thế giới
của Luật kẻ mạnh. Một
mặt,
chính
quyền
bảo
hộ
Pháp, liên tục theo dõi
và kiểm duyệt chặt chẽ. Ðiều
này cũng dễ hiểu. Và chưa hẳn chỉ có thực
dân Pháp mới đàn áp giới văn bút. Tại miền Bắc Việt
Nam, sau sự cố Nhân Văn-Giai Phẩm, từ năm 1957
không
còn một tờ báo tư nhân nào. Sau năm 1975,
tình trạng triệt tiêu báo tư nhân
trải rộng khắp nước. Những đòi hỏi về quyền tự do cơ bản
mà nhóm Nguyễn Ái Quấc
đưa ra trước Hội nghị Versailles ngày 18/6/1919–nhất là
tự do tư tưởng và phát
biểu, tự do hội họp–đều có thể lập lại vào đầu thế kỷ
XXI, ngay tại Việt Nam.
Ngoài ra, còn những pháp lệnh và “Luật bảo
vệ an ninh quốc gia,” cho phép tịch
thu mọi ấn loát phẩm, trừng phạt những người tàng trữ,
nếu cần. Dưới chế độ Quốc
Gia Việt Nam, và rồi hai
chế độ Việt Nam Cộng Hòa, mặc dù cũng có
nguyên tắc “tự do ngôn luận” nhưng
giới báo chí, xuất bản đều chịu những kiểm soát
chặt chẽ. Chính sách kiểm duyệt
được duy trì từ năm 1949 tới 1975. Các Nghị định, Sắc
luật báo chí năm 1949,
1950, 1954, hay Sắc Luật số 10/64 ngày 30/4/1964, và nhất
là Luật 07 (1972) dưới
chế độ Nguyễn Văn Thiệu từng là mục tiêu của những cuộc
tranh đấu đòi hủy bỏ
(Ngày ký giả đi ăn mày). Lưỡi kiếm treo trên
đầu giới báo chí Quốc Gia Việt Báo
chí, sách vở đều bị kiểm duyệt. Ðặc
biệt là các tác phẩm viết về chiến tranh của
Nguyên Vũ, Phan Nhật Mặt
khác,
lập
trường
“Pháp-Việt
đề
huề” của Tiếng
Dân, cũng như nhóm Tự Lực Văn Ðoàn ở miền
Bắc, hay Lập Hiến ở miền Nam, thường
bị Ðảng Cộng Sản và một thiểu số quá khích chỉ
trích. “Án
Nghị
Quyết”
của
Ðảng
CSÐD vào tháng 3/1931, chẳng
hạn, xếp hạng “bọn”
Huỳnh Thúc Kháng, Phạm Quỳnh, cùng nhóm Lập
Hiến là “quốc gia cải lương,” “phá
hoại cách mạng.”(41) Tại
Ðại
hội
lần
thứ
I
của Ðảng CSÐD từ 27 tới 31/3/1935, còn gay gắt hơn nữa. Nghị
quyết
Ðại
hội
I
chửi
rủa–một đặc tính khó trộn lẫn của
những “công nhân giác ngộ cách
mạng”–“bọn” cải lương Bùi Quang Chiêu, Huỳnh Thúc
Kháng, Phan Bội Châu, Dương Văn
Giáo, v.. v... là treo bảng hiệu “phản đối đế quốc”. . .
“để
bán
mình
cho
cao giá.”( 42) Truyền
đơn
và
các
tài
liệu
học tập hay báo cáo khác của Ðảng
CSÐD trong năm 1936 vẫn còn lên án “bọn
cải lương” Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng,
Bùi Quang Chiêu, v.. v... là
“phá hoại cách mạng.” (43) Thực
ra,
đây
chỉ
là
quan
điểm của nhóm tả khuynh mới từ Mat-scơ-va trở
về bắt đầu công tác
chỉnh Ðảng (Trần Phú, 1930-1931) và rồi tái
dựng Ðảng CSÐD (Litvinov Lê Huy
Doãn [Hồng Phong, 1902-1942], Cintchkin Hà Huy Tập [Năm
nhỏ, 1906-1941], Svan
Nguyễn Văn Dựt, Kan Nguyễn Ngọc Vi [Phùng Chí Kiên,
1906-1941], v.. v..., từ
1932 tới 1941). Quá giáo điều và trung
thành với Liên bang Sô viết, họ công
kích ngay cả Nguyễn Ái Quốc, người sáng lập ra
VNTNKMH và Ðảng Cộng Sản Việt Với
đại
đa
số
người
Việt
đương thời, chẳng có gì quí hơn
một cuộc sống no đủ, yên
lành. Luật sinh tồn là khuôn thước
có
hàng ngàn năm lịch sử. Giấc mộng độc lập, tự chủ
người Việt nào chẳng thầm
mơ ước. Nhưng những người có viễn kiến không thể
không nhìn về giai đoạn
hậu-thuộc-địa. Một nước “độc lập” trên giấy tờ, truyền đơn, khẩu
hiệu–nhưng
thực chất độc tài, chuyên chế, nghèo khổ, lạc hậu,
người cầm quyền trở thành
những kẻ cướp ngày, công khai có vũ khí
và được “luật pháp” bảo vệ–chưa hẳn đã đáng
mong ước, trông đợi hơn một chế độ lệ thuộc ngoại nhân.
Ðó là chưa nói đến hiểm
họa đời kiếp từ phương Bắc. Chủ
trương
và
liên
lũy
tranh
đấu nâng cao dân trí,
đòi hỏi nhân và dân quyền là
những điều chỉ có bậc trí thức với viễn kiến mới đủ đại
dũng hô hào, thực hiện
bằng sự khổ đau, tủi nhục và ngay cả mạng sống mình.
Chẳng cần đọc Lenin, một
người có minh trí bình thường thôi, cũng
hiểu được rằng “nhiệt tình cộng với sự
ngu dốt
thành phá hoại.” Một phe nhóm, đảng
phái nào đó có thể giành đoạt
chính
quyền bằng họng súng, độc quyền cai trị và độc quyền tư
tưởng, lý luận; nhưng
khó thể hiện đại hóa được đất nước, đưa dân tộc
vào nhịp sống văn minh, hiện đại
chung của thế giới. Liều thuốc duy nhất để chữa chạy căn bệnh chậm tiến
của
Việt Chỉ
những
cá
nhân
đặt
quyền
lợi đảng phái, tôn
giáo hay bè phái mình trên quyền lợi
đất nước, dân tộc–hoặc vì thiếu sự hiểu biết và tầm
nhìn, hoặc vì quá giáo điều–mới
không đọc lại và suy nghiệm vai trò của nhóm
nho sĩ duy tân mà Huỳnh Thúc Kháng
là con ngựa chiến già cuối cùng kéo chiếc
xe Tiếng Dân từ 1927 tới 1943. Chính
Ðạo
[Chính
Ðạo,
“Báo
Tiếng
Dân
(1927-1943): Vài Tư Liệu
Mới;” Hợp Lưu
Magazine ( Phụ chú: 1.
David
G.
Marr,
Vietnamese Tradition on Trial, 1925-1945
( Berkeley: Univ of California Press, 1981); Idem., Vietnamese
Anti-Colonialism,
1885-1925
( Berkeley: Univ of
California Press, 1971); Huỳnh Văn
Tòng, Lịch sử báo chí Việt-Nam từ khởi
thủy đến 1930 (Sài Gòn: Trí Ðăng, 1973). 2.
Nguyễn
Quốc
Thắng,
Huỳnh Thúc Kháng: con người
và thơ văn (Sài Gòn: PQVKDTVH, 1972; Huỳnh
Thúc Kháng, Tự truyện, Anh Minh dịch từ
bản Hán ngữ (Huế: Anh Minh, 1963). 3.
Trung
tâm
lưu
trữ
Quốc
gia [TTLTQG] 2 (Sài Gòn), RSA/HC, HS 1763 và
1869. 4.
Le Courrier de 5.
Xem
thêm
Nguyễn
Văn
Trung,
Trương Vĩnh Ký:
Nhà văn hóa (Hà Nội: 1993), tr. 169-205. 6.
CAOM
(Aix),
GGI
[AMIRAUX],
d. 7717. 7.
Huỳnh
Văn
Tòng,
1973,
tr.
57-58, 65-66; Marr, Tradition
On Trial, 1981:151-52, 164. Nguyễn Văn Vĩnh chủ trương
tách biệt Bắc Kỳ khỏi Trung Kỳ. Từng đắc cử Hội đồng
thành phố Hà Nội; từ 1913
là Nghị viên Hội đồng tư vấn Bắc Kỳ (sau là Viện
Dân biểu), và có chân trong Thượng
Hội đồng Ðông Pháp. 8.
Yểm
trợ
báo
này
có
Sarraut và Khải Ðịnh. Pierre Pasquier, Giám đốc Nha
Chính trị và Hành chính,
cung cấp mỗi tháng 500 đồng. Ngay từ bài “Mấy nhời
nói đầu” trong số ra mắt đã
phải chịu sự kiểm duyệt của Nha Liêm phóng và Thống
sứ Bắc Kỳ. CAOM
(Aix),
R.19.40;
dẫn
trong
Marr,
Tradition
on Trial, 1981:153n38, 68n28 (dẫn tư liệu văn khố Thống sứ Bắc Kỳ
tại Việt 9.
Trung
Bắc tân văn chỉ đình bản vào tháng
9/1945. Nguyễn Văn Vĩnh còn xuất bản bán
tuần san L’Annam Nouveau, tại Hà Nội, bằng
Pháp ngữ; từ ngày 25/1/1931 cho
tới ngày 26/4/1942. Tuy nhiên, Nguyễn Văn Vĩnh chết từ năm
1936. Từ số báo 920,
đề ngày Chủ Nhật, 4/2/1940, Vũ Ngọc Liên làm Chủ
bút. (BNF, Jo 95260) 10.
Trương
Duy
Toản
là
một cựu du học
sinh phong trào Ðông độ, tới 11.
Lục
tỉnh tân văn, lập trường thân chính phủ, chỉ
đóng cửa năm 1944. 12.
La
Cloche Fêlée, số 20, (26/11/1925). 13.
Ngày
27/3/1928,
Phan
Văn
Trường bị
Tòa Ðại hình Sài Gòn kết án hai
năm tù. Chống án qua Pháp, nhưng bị y án.
Ngày
14/8/1929, bị bắt ở 14.
Tản
Ðà
Nguyễn
Khắc
Hiếu (1888-1939),
quê Bất Bạt, Sơn Tây (huyện Ba Vì, ngoại
thành Hà Nội). Con Án sát Nguyễn Danh
Kế và bà Lưu Thị Hiền. Thi hỏng khóa thi Hương năm
1912. Chủ bút Hữu Thanh năm 1921-1924,
và chủ biên An 15.
La Tribune indochinoise (Sài Gòn),
15/9/1926. Ngày 30/10/1926, Huỳnh Thúc
Kháng, Chủ tịch Viện Dân Biểu An Nam,
gửi thư cho Khâm sứ về mẫu triện [con dấu] Viện Dân Biểu An
Nam; TTLTQG 2 (Sài
Gòn), RSA/HC, HS 1763. 16. CAOM (Aix),
INF, carton
276, d. 2423. Xem thêm “Note pour le Ministre” ngày
14/3/1927; Ibid., d. 2425. 17. Báo
cáo ngày 3/3/1926,
Varenne gửi BTTÐ; CAOM (Aix), INF, carton 276, d. 2424; “Note pour
le Ministre”
ngày 14/3/1927; Ibid., d. 2425. Một hồi ký xuất sắc về
ngành thuốc tại Ðông Dương
là Hồi ký Nguyễn Xuân Chữ (Houston:
Văn
Hóa,
1996). 18. Theo Chủ tịch
Ðảng Việt Nam Ðộc Lập, khi A. F. Fontaine thành lập công ty Société
francaise des Distilleries de l'Indochine [SFDI] tại miền Bắc năm 1901,
tổng số
vốn chỉ 2 triệu francs. Phần tư thế
kỷ sau, năm 1926, vốn của Fontaine tăng lên 1500% (30 triệu francs), trong khi trị giá mỗi cổ phần tăng
lên 1320% (500 francs năm 1901 lên
6,600 francs năm 1926). Ðó là chưa
kể
những tệ nạn bắt rượu lậu–đưa đến những vụ tố cáo rượu lậu
vô bằng chứng, nhưng
đủ mang lại bao thảm kịch, khó khăn cho nông dân.
Nạn độc quyền muối, ban hành
từ năm 1898, cũng khiến dân chúng cực kỳ bất mãn.
Dân làm muối ở vùng biển phải
mang số muối thu hoạch tới cân ở sở đoan, bán cho
nhà nước; rồi nhà nước bán
lại cho giới tiêu thụ qua trung gian các đại lý.
Năm 1926, chính phủ mua vào, 6
hào một tạ; nhưng bán ra cho đại lý 3.70 đồng 1
tạ, và khi nhà buôn bán ra cho
dân, giá lên tới 6$ tới 7$ 1 tạ; Ibid., SLOTFOM,
Séries III, cartons 2 & 3.
Xem thêm hồ sơ các báo Ðông Dương
và Pháp trong Ibid., INF, carton 276, d.
2424, 2426, và 2427. 19. Note của
Duchêne ngày
14/3/1927; Ibid., INF, carton 276, d. 2425. 20.
Bulletin
des
Amis
de
Vieux
Hué [BAVH], vol.
VII,
No.
3
(7-9/1920),
tr.
365-384. 21.
Thư
ngày
21/4/1927,
Perrier
gửi
GGI; CAOM [Aix]. INF, carton 276, d. 2425. 22.
“Instructions
secrètes
au
sujet
de
la 23.
“Le
régime
de
la
presse;”
Văn Lang (Sài Gòn),
26/8/1939, tr. 31. Những điều khoản của Luật báo chí năm
1898 vẫn giữ nguyên. Ngày
1/11/1927,
Varenne
về
nước.
Tổng
thư ký Ðông Dương, Monguillot,
xử lý thường vụ
cho tới ngày 7/8/1928. Mặc dù có những vận động
đưa Monguillot lên thay
Varenne, tháng 8/1928, Pasquier được cử làm Toàn
quyền; Thư ngày 23/1/1928,
Darles gửi BTTÐ; CAOM (Aix), INF, carton 276, d. 2425. René
Robin, Thống sứ Bắc
Kỳ, xử lý thường vụ tới ngày 26/12/1928, khi Pasquier
nhiệm chức. 24.
Ðã
có
nhiều
nghiên
cứu về Nguyễn An
Ninh, Phan Văn Trường và “khuynh hướng Cộng Sản” của hai tờ La Cloche Felée và L’Annam.
Xem, chẳng hạn, Tâm Vũ [Trần Văn Giàu], “Khuynh hướng Cộng
Sản trong hai tờ báo La Cloche Felée và L’Annam ở
Sài Gòn ( 1923-1927);” Nghiên Cứu Lịch
Sử (Hà Nội), số 175
(7&8/1977), tr. 19-26, 36; và Nguyễn Phan Quang-Phan Văn
Hoàng, Luật sư Phan Văn Trường (TPHCM: 1995).
Xem thêm, Trần Ngươn Phiêu, Phan Văn Hùm
(Amerillo, TX: Hải Mã, 1993). Tâm Vũ và Nguyễn Phan
Quang-Phan Văn Hoàng có lẽ đi
quá xa khi giải thích 25.
TTLTQG
2
(TP/HCM),
Goucoch,
IIA.45/233(2).
Hồ sơ trục xuất Kỳ về Huế năm 1937 ghi năm sinh
là
1900. Xem thêm truyền khẩu về Kỳ và cha, Diệp Văn Cương,
trong Hứa Hoành, Những phú hộ lừng danh Nam
Kỳ (Houston:
Văn Hóa, 1999), tr. 163-67, 244-62. 26.
Xem,
Xuân
Tùng,
“Nhân
chuyến
đi thăm nhà thờ cụ Huỳnh;” Bách
Khoa (Sài Gòn), số D [405], [1/3/]1974, tr. 47-8. 27.
Nguyễn
Thế
Anh,
Phong
trào kháng thuế miền Trung năm 1908 qua châu bản
triều Duy Tân (Sài-gòn:
1972), Tài liệu 9, tr. 143.
Huỳnh
Thúc
Kháng
chỉ
nói
gặp
nhau; Idem., “Cuộc kháng thuế ở
Trung Kỳ năm 1908,”
trong Nguyễn Quốc Thắng, Huỳnh Thúc
Kháng: Con người và thơ văn (Sài-gòn:
1972), tr. 317.
PCT
cho
rằng
chỉ
có
HTK và Phan Diện gặp PBC. 28.
Nguyễn
Thế
Anh,
Châu
Bản, TL. 9,
tr.
43-4.
Nguyễn
Ðình
Tân
có lẽ là Nguyễn
Toàn trong điều trần của PCT, một
quan đã về hưu, trên 70. 29. Báo
cáo ngày 3/5/1908, RFaifo gửi Khâm sứ; CAOM
(Aix), GGI, d. 5886. 30. Nguyên
văn: “Le
jugement rendu par les autorités provinciales, ne paraissant pas
suffisamment
étudié et l’application de la loi n’étant pas
régulièrement faite, . . . Ce jugement,
comme plusieurs autres qui m’ont été remis ayant
montré
d’une facon trop évidente, l’ignorance, la faiblesse ou la
complaisance du Tuan
phu de cette province,...;” Báo
cáo ngày
27/6/1908, RSA gửi Gougal; Ibid., d. 5887. 31. Nguyên văn:
“de ne plus battre le
tambour, de crainte de troubler la tranquilité publique;”
Lệnh ngày
18/1/1908 [ngày 15 tháng chạp Duy Tân năm thứ
nhất]; Ibid., d. 5886. 32.
Xem
Phan
Chu
Trinh,
A Complete Account of the
Peasants’ Uprising in Central Vietnam (1908), bản dịch Anh ngữ của
Peter
Baugher and Vũ Ngự Chiêu (Madison: Center for Southeast Asian
Studies,
Monograph No. 1, 1983); Nguyễn Thế Anh, Châu
bản, Tài liệu 9, tr. 43-6
(bản
án
26
nhân
sĩ
Quảng Nam); và, đặc biệt, thư Quảng
Nam Thân sĩ gửi Toàn
quyền Bonhoure ngày 13/6/1908, trích in trong
Chính Ðạo, Hồ Chí Minh: Con người
và huyền thoại, tập I: 1892-1924, tái bản có
bổ sung (Houston: Văn Hóa, 1997), tr. 272-
75. 33.
Tel.
Cabinet
209C,
19/6/1908,
RSA
gửi Gougal; CAOM (Aix),
d. 5886, và danh sách 66 người bị quan tỉnh Khánh
Hòa bắt giữ trong Ibid., d.
5887;
Nguyễn
Thế
Anh,
Châu Bản, TL
30, tr. 105-7. 34.
Phan
Văn
Trường,
đã
bị
động
viên với cấp bậc Trung sĩ, bị nhốt tại quân lao.
Phó bảng Trinh không hề
bị nhốt chung với Nguyễn Ái Quốc tại ngục Santé
như có người hoang tưởng. Nhân vật tội nghiệp
nhất trong vụ này là Nguyễn
Như Chuyên, từng làm thông dịch viên cho Phan
Châu Trinh từ năm 1911-1912. Năm
1917, Chuyên tháp tùng Nguyễn Sinh Côn [Paul
Thành] từ 35.
CAOM
(Aix),
GGI,
9PA,
d.
15. 36.
La
Tribune
indochinoise
(Sài
Gòn),
15/9/1926. 37.
Ðào
Duy
Anh,
Nhớ nghĩ chiều hôm
(Hà Nội: Trẻ, 1989),
tr. 7. 38.
CAOM
[Aix],
Affaires
Politiques
[AP],
carton
1642. 39.
Journal officiel
de l’Indochine Francaise [JOIF], 26/12/1925;
CAOM [Aix], AP, carton 1642. 40. TTLTQG 2 (TP/HCM), Phủ Thủ tướng VNCH, HS 29285 (Nghị định về
báo chí),
29290 (ký giả thân Cộng), 29291 (báo Tiếng
Chuông, Tia Sáng và Sống). 41. Văn Kiện Ðảng Toàn Tập [VKÐTT], tập 3: 1931 (Hà Nội:1999), tr. 88. 42.
VKÐTT, tập 5:1935, 2002:14. Ðại
hội
kỳ
I
Ðảng
CSÐD,
tổ chức tại 43.
Tháng
4/1936,
trong
lời
kêu
gọi
nhân ngày 1/5/1936, Ðảng
CSÐD lên án Bùi Quang Chiêu,
Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Văn Vĩnh và “bọn quốc gia
cải lương không lùi bước trước
âm mưu nào để đánh lừa nhân dân bị
áp bức nhằm làm họ bị lạc hướng trong cuộc đấu
tranh cách mạng;” VKÐTT, 6:1936-1939,
2000:3. “Thư ngỏ của Ban Trung ương Ðảng CSÐD” vào
tháng 6/1936 thêm một lần tố
cáo “bọn quốc gia cải lương Phan Bội Châu, Bùi
Quang Chiêu, Huỳnh Thúc Kháng,
Nguyễn Văn Vĩnh làm lệch hướng tranh đấu;” VKÐTT,
6:1936-1939, 2000:8. 44. VKÐTT,
tập
5:1935,
2002:20. Phụ
Bản I: DANH SÁCH KÝ GIẢ “THÂN CỘNG”
(1964) Do Tổng Nha Cảnh Sát Công An Việt (HS29290) 1. Nguyễn
Duy
Hinh
(1922-?)
tự Nguyễn Minh 2. Triệu
Trường
Thế,
tức
Triệu
Công Minh (1909-?), Vĩnh Mỹ, Bạc
Liêu.
Trí vận; vợ là Lê Liễu Huệ, tự Ái Lan. Con
Triệu Việt Sơn, Triệu Công Khanh tập
kết ra Bắc, tốt nghiệp Kỹ sư. 3. Trần
Minh
Ký
tự
Cậu
Năm (1921), Vĩnh Trạch, Bạc Liêu. 4. Nguyễn
Văn
Tùng,
tức
Lê
Thanh Thủy, Sơn Tùng (1926,
Long Thành, Mỹ
Tho): Cán bộ báo chí VC của Ðặc khu Sài
Gòn-Chợ Lớn. 5. Nguyễn
Kỳ
6. Hồ
Ngọc
Cứ
(1924,
Sa
Ðéc) [1956: Quận trưởng Q 2; Nghị
viên Ðô
thành]: “thân Cộng nguy hiểm” 7. Nghiêm
Kế
Tổ
(1911-?):
Sinh tại Móng Cáy. Cha là
Nghiêm Ðức Tu, mẹ,
Nguyễn Thị Mỹ. Có tin VC mời ra Củ Chi xem triển lãm. 8. Ngô
Văn
Quân
tự
Quảng
(1926-), Sài Gòn, ký
giả nằm vùng CS. 9. Hàng
Thị
Quế
(1922),
Chợ Lớn. Thân Cộng. 10. Nguyễn
Xuân
Hoà
(1926,
Nha
Trang), quản lý báo
Tia Sáng. Kinh tài
cho CS. 11. Phạm
Thu
Trước
tức
Việt
Ðịnh Phương (1929), Vĩnh Thanh Vân,
Rạch
Giá: “thân Cộng.” 12. Trần
Thanh
Thế,
bí
danh
Trần Chi Lăng (1928), Long Mỹ, Rạch
Giá:
“thân Cộng.” 13. Ðặng
Văn
Trí,
tự
Hương
Ngô: Cán bộ Ðảng
Dân Chủ: thân Cộng. 14. Lê
Tràng
Phùng
tự
Lê
Tràng Kiều (Hà
Ðông, 1913): “thân Cộng.” 15. Hoàng
Thái
Sơn
tự
Lê
Minh (1920), Hà Nội:
“thân Cộng.” 16. Trần
Tự
Thành
tự
Trần
Tấn Quốc (1914), Mỹ Trà, Cao
Lãnh, Sa Ðéc.
Cựu đảng viên Trốt-kít. 1945 hợp tác với Nguyễn Văn
Sinh tự Năm Quốc Cang. Ngầm
liên lạc với Lê Văn Thủ, tự Việt Tha: “thân Cộng.” 17. Nguyễn
Văn
Ðông
tức
Xích
Tùng Tử (1908, Quảng 18. Bùi
Quang
Thành
tự
Vũ
Bình (Hoà Mỹ, Cái
Nhuôm, Vĩnh Long): “thân
Cộng.” 19. Trương
Lê,
hiệu
Phong
Châu
(1913, Ðiện Bàn, Quảng 20. Lâm
Thế
Nhơn
tự
Phi
Vân (1917), An Xuyên: thân Cộng
và tiếp tay CS. 21. Dương
Minh
Cựu
tự
Hoàng
Việt: Cán bộ VC. 22. Nguyễn
Bảo
Hóa,
Tô
Nguyệt
Ðình (1920), Phước Lễ,
Bà Rịa: VC nằm
vùng nguy hiểm. 23. Trần
Văn
Bảy
tức
Hoàng
Minh Nhựt (1927), Long Hòa, Chợ
Lớn: Cán bộ
VC nằm vùng. 24. Nguyễn
Kiên
Giang
tức
Lý
Thanh Cần (1918), Long Mỹ, Rạch
Giá: “thân
Cộng.” 25. Phạm
Văn
Ương
tức
Ðoàn
Hùng (1912), Mỹ Tho. 26. Nguyễn
Vỹ
(1910),
Ðức Phổ, Quảng Ngãi. Theo Trần Kim Tuyến,
được
Ngô Ðình Nhu yểm trợ tiền ra báo Bông
Lúa: “thân Cộng.” 27. Chu
Văn
Bình,
bút
hiệu
28. Hồ
Ngọc
Bảy
tức
Quốc
Phượng (1935), Chợ Lớn. 29. Huỳnh
Hoài
Lạc
tức
Huệ
Chương. Ngoại
trừ
một
số
người
đã
tự xác nhận là đảng viên Cộng
Sản, “thân Cộng” chỉ là cái mũ vừa
khôi hài, vừa nguy hiểm cho đời sống các đương sự.
Trang mạng Việt Nam Văn Hiến
Trang Báo Tiếng Dân www.vietnamvanhien.net email: thuky@vietnamvanhien.net Trang
mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi bảo tồn di sản văn hóa của
Việt tộc
và phục hồi nền An Lạc & Tự Chủ. |