Việt
Nam
Văn
Hiến
Năm Thứ 4889 www.vietnamvanhien.net ![]() KHÁI
HƯNG
TRẦN
KHÁNH
GIƯ
(1896-1947?): Nỗi buồn người trí thức trong
cuộc đổi đời đầy
bạo lực, xương máu.
Nguyên
Vũ
![]() Khái Hưng Trần Khánh Giư (1896-1947?) (ảnh của Wikipedia) Khái
Hưng
gốc
làng
Cổ
Am,
Vĩnh Bảo, Hải Dương–nơi chính quyền Bảo hộ
Pháp từng dùng bom đạn
san bằng sau cuộc khởi nghĩa mùa Xuân năm 1930 của Việt Nam Quốc Dân Ðảng [VNQDÐ]. Thân
phụ là Trần Mỹ, Tuần phủ Phú
Thọ [Thái Bình?]. Trong số 4 anh em, Trần Tiêu cũng
đi vào đường văn bút, tác
giả Con Trâu. Nhạc phụ ông, Lê Văn
Ðinh, từng nắm Tổng đốc Bắc Ninh, Theo học chương trình
Pháp tại lycée Albert Sarraut Hà
Nội, ông bỏ
ngang việc học sau năm Ðệ Nhất (ban Cổ điển). Dạy học tại trường tư
thục Thăng
Long. Khái
Hưng
khởi
nghiệp
bằng
đường
báo chí, từ khoảng năm 1930.
Tác phẩm đầu tay là Hồn Bướm Mơ Tiên
(1933), nhưng tiểu
thuyết nhiều người đọc nhất là Nửa Chừng
Xuân (1934), từng được dùng làm tài liệu
giáo khoa Việt văn tại miền Nam.
Ðây là chuyện tình đầy lãng mạn giữa
Lộc, con một quan huyện, và Mai, một thiếu
nữ xinh đẹp, tài đức, nhưng cha chỉ đậu Tú tài,
không bước được vào hàng “danh gia,
thế phiệt.” Trước sự chống đối
của mẹ, Lộc thuê người làm đám cưới giả với Mai,
và hai người sinh hạ được một
trai. Khi biết sự thực, mẹ Lộc hết sức chống đối, bày kế ly
gián, rồi thuyết
phục Lộc cưới một người vợ chính thức con quan. Ít
lâu sau, biết được mưu kế
của mẹ, Lộc đề nghị Mai mang con theo mình đến một nơi thật xa,
sống bên nhau đến
trọn đời. Mai từ chối, khuyên Lộc nên trở lại với gia
đình, dù vẫn còn thương
yêu Lộc, vì như thế mới giúp mối tình giữa
hai người cao thượng hơn. Lộc chẳng
còn biện pháp nào khác, nhưng tự hứa sẽ
dành phần đời còn lại để phục vụ xã
hội. Trong
những
tác
phẩm
kế
tiếp
như Trống Mái
(1936), Cái Ve (1936) cùng những
tuyển truyện ngắn Giọc đường gió bụi
(1936), Tiếng Suối Reo (1937), Ðồng Xu
(1939), Ðợi chờ (1939), tiểu thuyết Thoát
Ly (1936), Thừa Tự (1940), Hạnh
(1940), hay ba tác phẩm viết chung
với Nhất Linh trong năm 1934-1935–Anh
Phải Sống, Gánh Hàng Hoa, Ðời Mưa Gió–Khái
Hưng
tiếp
tục
khai
thác sự tương
phản giữa “cựu và tân,” “gia đình với
cá
nhân,” “thị dân và nông dân,” “thượng
lưu với cùng đinh,” “học thức với vô học,”
v.. v... Ðây là những vấn nạn đối đãi
của xã hội Việt trong thập niên 1930, giữa tiến
trình toàn cầu hóa, trong khuôn
khổ “khai hóa thuộc địa” của Pháp và sự đe dọa của
những lượn sóng thần ý thức
hệ–từ quân phiệt Ðức-Nhật, tới vô sản quốc tế–đang
xâm nhập, phá vỡ và cải biến
Việt Nam “cổ truyền.” Trên
bối
cảnh
này,
giới
thanh
niên nam nữ của tiểu thuyết và
truyện ngắn Khái Hưng hướng về
mục tiêu tự trau luyện tinh thần và thể chất, tham gia cải
cách xã hội, và nếu
cần, gia nhập một tổ chức bí mật nào đó. Từ Tiêu
Sơn Tráng Sĩ (dã sử tiểu thuyết) tới Giọc
đường
gió
bụi, v.. v... Khái Hưng phản ánh những tư
tưởng “cách mạng lãng
mạn” tương tự như Nhất Linh Nguyễn Tường Tam (1908 [1906]-1963) trong Ðôi Bạn (1937). (1) So
với
giấc
mộng
“phi Cao đẳng bất thành phu phụ”
giai đoạn này, nhân vật tiểu thuyết Khái Hưng quả
thực lãng mạn, không tưởng.
Nhưng so với phong trào “thoát ly” của Ðảng
CSÐD–tiêu biểu bằng Nguyễn Thị Vịnh
(Minh Khai) trốn qua Trung Hoa “kết hôn
với kách mệnh,” Nguyễn Thị Thập bỏ chồng con lên
Sài Gòn hoạt động–hay Cô
Giang, cô Bắc của VNQDÐ, nhân vật nữ của Khái
Hưng chưa bước đủ những bước dấn
thân cần thiết. Và, đã hẳn, với những người chủ
trương nam nữ bình quyền, giải
phóng phụ nữ [feminists] khó thể chấp
nhận cảnh Nửa Chừng Xuân, thắt bụng
nuôi con. Ngay trong giới người Việt tị nạn, những nhân vật
Khái Hưng đã quá
lỗi thời. Không thiếu cảnh vợ bảo trợ chồng, nhưng ngay buổi
tái ngộ ở phi trường,
nhẹ nhàng thông báo đã có người trăm
năm mới. Chân ướt chân ráo qua Mỹ, vị hôn
thê của Việt kiều bỏ đi tìm người tình cũ. Người
Việt ở San Jose, California,
chưa quên việc một bà vợ hiền thục một thời, ngay sau khi
được chồng bảo trợ
qua Mỹ, đột ngột bỏ rơi người tình đầu đời đã
thoái hóa thành anh chồng vô tư
cách. Dù đã ba bốn mặt con, người thiếu phụ
không hẳn đã nuốt nước mắt lấy một
người Mỹ để dạy chồng cũ bài học “trả thù
dân tộc.” [Nhưng chưa biết nhục, gã chồng giả
điên, giả tỉnh, tiếp tục lê đuôi
theo cống rãnh, tình nguyện qua một trại tị nạn ở
Ðông Nam Á, và bị trục xuất
khỏi trại]. Sự
ngưỡng
mộ
của
độc
giả
dành cho Khái Hưng ở thập niên 1930
chứng tỏ ông đã phần nào nắm
giữ được tâm lý thị dân thượng lưu miền Bắc.
Dù khó thể tránh khỏi những phiền
toái với chính thế giới thượng lưu xuất thân của
ông. Ðiều đáng ghi nhận khác
là thái độ ôn hòa của Khái Hưng khi
tiếp cận các vấn nạn xã hội-kinh tế của
thời ông. Nhân vật của Khái Hưng tỉnh táo đối
mặt hầu giải quyết vấn đề. Khác
với tính chất bi kịch của Tố Tâm, hay
cay sót, châm biếm của Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng,
v.. v... Viết
về
Khái
Hưng
không
thể
không nhắc đến Nhất Linh Nguyễn Tường Tam.
Dù cách biệt nhau một
thập niên về tuổi tác, hai người có những
liên hệ vượt ngoài làng văn, làng
báo. Trước hết do họ cùng dạy tại trường Thăng Long,
và trong ban biên tập Phong Hóa
(bộ mới, số 14 ngày
22/9/1932), rồi Ngày Nay (30/1/1936).
Ðầu năm 1933, Nhất Linh lập ra Tự Lực Văn
Ðoàn, nòng cốt có Khái Hưng, Nguyễn
Tường Long (Hoàng Ðạo, Tứ Ly), Nguyễn Tường
Lân (Thạch Lam), rồi thêm Nguyễn Gia Trí, Nguyễn
Cát Tường, Thế Lữ, Tú Mỡ, Xuân
Diệu, Thanh Tịnh, Vũ Ðình Liên, v.. v... Sau
đó, tổ chức nhóm Ánh Sáng
(thêm Dương Ðức Hiền, Nguyễn
Cao Luyện, v.. v...). Một số trí thức trẻ, kể cả Vũ
Ðình Hoè, giữ liên hệ thân
hữu, dù không gia nhập, vì mến “tính trung
thực và lòng thành yêu nước” của
Nhất Linh. (2) Từ
khoảng
năm
1939-1940,
nhóm
Tự
Lực Văn Ðoàn ngả về khuynh hướng
thân Nhật. Môi giới có thể
là Lý Ðông A, Vũ Ðình Dy. Và,
cuối cùng, tổ chức thành đảng Ðại Việt
Dân Chính do Nguyễn Tường Tam
làm Tổng thư ký. Người ta không biết nhiều về chủ
thuyết của Ðảng này. Cán bộ
vỏn vẹn ít chục người, phần lớn cư trú ở các
thành thị, nhất là Hà Nội. Nó mới
chỉ có tính cách một nhóm chính trị,
với những quan điểm tương đồng, hơn một đảng
cách mạng. Ðây là đặc tính chung của hầu
hết đảng phái Việt Bị
bắt
giam
cùng
vài
thuộc
hạ vì tình nghi làm
gián điệp cho Nhật, nhưng sau đó được Nguyễn
Hải Thần đưa vào Việt Nam Cách
Mệnh
Ðồng
Minh
Hội (gọi tắt là Việt
Cách hay Ðồng Minh Hội), cánh
tay phụ lực của Ðệ tứ quân khu Trung Hoa Dân Quốc
trong kế hoạch “Hoa quân nhập Việt.” Cuối năm 1944, sau khi Nhật
chiếm Liễu
Châu (11/11/1944), Nguyễn Hải Thần, Trương Bội Công,
Nghiêm Kế Tổ, Vũ Hồng
Khanh, Nông Kính Du và Trần Báo lưu lạc qua
Côn Minh hay Quí Châu. Nhất Linh
tới Vân Theo
Vũ
Ðình
Hoè,
cuối
năm
1940, đầu 1941, Nguyễn Tường Tam cùng
Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí,
v.. v... mời Hoè gia nhập Ðại Việt Duy
Dân, có khuynh hướng thân Nhật. (5)
Chi tiết này cần tìm
hiểu thêm. Theo giới hoạt động chính trị Việt, Ðại
Việt
Duy
Dân
Ðảng do Lý Ðông A,
bí danh của Nguyễn Hữu Thanh,
thành lập. Lý Ðông A, một thành
viên Tự Lực Văn Ðoàn(?), gia nhập Phục
Quốc của Cường Ðể, rất thân cận với
Hoàng Lương, cố Vấn của Kiến Quốc Quân
tại vùng Lạng Sơn. Sau khi Trần Trung Lập nổi dạy vào
mùa Thu 1940, nhưng thất
bại, bị Pháp xử tử ngày 28/12/1940, Ðông A lập Duy Dân ở Trung Hoa, nhưng không mấy ai
rõ chi tiết về hoạt động
của Ðảng này. Về lý thuyết, chỉ có vài
luận lý rất đại cương với khẩu hiệu “lấy
dân làm gốc.” Cuối năm 1944, Ðông A về nước, bắt
đầu tuyên truyền trong giới
sinh viên, học sinh. Hai cộng sự viên đắc lực là
Lê Quang Luật và Nghiêm Xuân
Hồng. Theo Luật, Luật cũng như Hồng gia nhập tổ chức thuần vì
tình bạn. Ngày
1/9/1945, Việt Minh vây đánh một căn cứ ÐVDD
ở Nga My, Xích Thổ, thuộc Gia Viễn, Ninh Bình, giết 8,
bắt 26. Năm 1946, VM tàn
sát Ðông A và ÐVDD ở
Hoà Bình vì “mưu
đảo chính.” Chỉ còn 3 cán bộ là Luật, Hồng
và Phạm Xuân Ninh, tức Nguyễn Ðức
Chinh, Giám đốc Thể Thao và Thanh Niên Bắc Việt năm
1947. Hồng thiên về Phật
giáo, và Luật, giáo dân Ki-tô,
Bí thư cho Giám mục Lê Hữu Từ. (6) Cách
nào
đi
nữa,
tổ
chức
của Nguyễn Tường Tam chính thức mang tên Ðại
Việt
Dân Chính. Khái Hưng gia
nhập, nhưng theo một một lãnh tụ Ðại Việt Quốc
Xã, Khái Hưng thân với
Hoàng Ðạo (Nguyễn Tường Long) hơn Nhất Linh. Ngày
15/9/1941, khi đại quân Nhật
tiến vào Ðông Dương, mật thám vây bắt
nhóm Tường Long, Khái Hưng, Gia Trí đưa
lên an trí ở Vụ Bản, Sơn La. Nhiều lãnh tụ
không Cộng Sản như Trương Tử Anh
cũng bị an trí tại đây. (7)
Năm 1943, vì lý do sức khoẻ, Khái Hưng được
đưa về quản thúc ở Hà Nội. Cuối
năm
1944,
đầu
1945,
để
chuẩn bị chiến dịch Mago (sau đổi
thành Meigo,
9-10/3/1945), Nhật khuyến khích các tổ chức tôn
giáo, thanh niên Việt đoàn ngũ
hóa, chuẩn bị giành độc lập từ tay Pháp. Một số
trí thức và cựu quan lại được
tập họp ở Sài Gòn, lập ra Ủy Ban Kiến
Quốc do Ngô Ðình Diệm và Nguyễn Xuân
Chữ cầm đầu. Ủy ban này có nhiệm vụ
của một nội các tương lai dưới quyền Cường Ðể. Một số
nhân vật nổi danh khác–như
Trần Trọng Kim, Trần Văn Ân, v.. v... hay Tráng Liệt,
Tráng Cử con Cường Ðể–được
đưa qua Chiêu Nam Ðảo ( Tại
Hà
Nội,
từ
tháng
2/1945,
Nhật cũng tổ chức các đoàn thể
Việt vào kế hoạch lật đổ chính
quyền Jean Decoux (1940-1945). Lực lượng thanh niên được chọn
làm xung kích. Về
chính trị, Nhật qui tụ hầu hết những khuôn mặt nổi danh
nhất miền Bắc vào Ðại Việt Quốc Gia Liên
Minh. Gồm có nhóm Ðại
Việt
Quốc
Xã (Nguyễn Xuân Tiếu), Ðại
Việt Dân Chính (Nguyễn Tường Long), Ðại
Việt
Quốc
Dân
Ðảng (Trương Tử Anh), VNQDÐ (Ngô
Thúc Ðịch, Bùi Như Uyên,
Nguyễn Thế Nghiệp, Nguyễn Ngọc Sơn, Nhượng Tống), Nguyễn Ðăng
Ðệ, Nguyễn Xuân Dương
tức Lạc Long. Ngày Chủ Nhật, 11/3/1945, báo Tin
Mới đăng “Tuyên Cáo” của ÐVQGLM. Lúc 17G00
cùng ngày–sau khi Bảo Ðại tuyên
bố độc lập, hủy bỏ Hoà ước 1884 và hứa hợp tác
toàn diện với Khối Thịnh Vượng
Chung Ðại Ðông Á–ÐVQGLM ra mắt tại Bờ Hồ
Hoàn Kiếm dưới tên Ðại Việt Quốc Gia
Cách Mệnh Ủy Viên Hội.
Tuyên bố thành lập Ủy Hội Hành Chính
Lâm Thời (vào lúc 9 giờ sáng cùng
ngày),
sau đổi thành Ủy Ban Chính Trị Bắc Kỳ. Nhưng sáu
ngày sau, 19/3, Ủy Hội Hành
Chính Lâm Thời ra “Tuyên Cáo Quốc Dân”
tự giải tán vì “nhân lúc giao thời đã
ra
đảm nhận mấy công việc cần cấp như trật tự, cứu tế, v.. v... Nay
tình thế đã
tạm yên, chúng tôi tự thấy nhiệm vụ đã hết,
xin tuyên bố giải tán, để nhường
các ngài có thực tài, thực đức ra
cáng đáng những công việc quan hệ hơn.” Lý
do
chính
là
sự
thay đổi chính sách
Ðông Dương của Nhật. Toàn quyền
Nhật quyết định trực trị ở Hà Nội và Sài
Gòn. Tới tháng 4/1945, chính phủ Trần
Trọng Kim mới được phép cử Phan Kế Toại, cựu Tuần phủ
Thái Bình, làm Khâm sai
Bắc Kỳ. Ngày
5/5/1945,
Hoàng
Ðạo,
Nguyễn
Tường
Bách, Khái Hưng xuất
bản tuần báo Ngày Nay: Kỷ Nguyên Mới.
Khái
Hưng
phụ
trách
mục
Tiếng Vang. Trung
tuần
tháng
5/1945,
Khái
Hưng có tên trong Tân
Việt Nam Ðảng, chính thức
thành lập ngày 16/5, “để đoàn kết
chặt chẽ dân tộc VN và củng cố nền độc lập của Tổ quốc.”
Gồm nhiều nhân vật
thành danh như Ðào Duy Anh, Phan Anh, Ðỗ Ðức
Dục, Ngô Thúc Ðịch, Trần Khánh Giư
(Khái Hưng), Vũ Văn Hiền, Vũ Ðình Hoè,
Ngô Tử Hạ, Ngụy Như Kontum, Vũ Ðình
Liên, Phan Huy Quát, Ngô Bích San,
Hoàng Phạm Trấn (Nhượng Tống), Bùi Như Uyên,
Nguyễn Xiển, Nghiêm Xuân Yêm. Theo báo Thanh
Nghị, Tổng thư ký ban vận động thành lập là Vũ
Ðình Hoè. Ngày 2/6/1945, chi
bộ số 1, ở Thuận Hóa ra mắt, với Tôn Quang Phiệt
làm Bí thư. Sau đó, Phiệt làm
Tổng thư ký của Tân Việt Thời
gian
này,
trước
viễn
ảnh
bại trận của Nhật, có những nỗ lực
móc nối giữa nội địa
và Hoa Nam. Ngày 12/4/1945, Y sĩ Nguyễn Tiến Hỷ (Phan
Châm, 1916-1992), bạn học
Trương Tử Anh, dẫn một phái đoàn qua Trung Hoa. Y sĩ Hỷ
cùng Vũ Hồng Khanh và
Nguyễn Tường Tam đạt thỏa ước lập ra Quốc
Dân Ðảng hay Việt Quốc–sử dụng
chiêu bài VNQDÐ ở hải ngoại để xin THDQ giúp
đỡ, trong khi tại nội địa tiếp tục
dùng tên Ðại Việt. Phái đoàn Y sĩ Hỷ,
Tường Tam và Hồng Khanh được Trung Hoa
Quốc Dân Ðảng khoản đãi nồng nhiệt ở Trùng
Khánh. Việt
Minh
thế
lực
cũng
ngày
một gia tăng. Lợi dụng nạn đói lan
tràn ở miền Bắc, cán
bộ Việt Minh tổ chức những cuộc đánh phá kho thóc,
nêu cao uy tín trong dân
chúng. Các toán vũ trang tuyên truyền
và ám sát đoàn–dưới sự chỉ huy của
cán bộ
từng được tình báo Bri-tên huấn luyện như Lê
Giản (Giám đốc Công An Trung Ương),
Hoàng Ðình Rong, Dương Công Hoạt (Bí thư
Cao Bằng), Pallat Nguyễn Văn Minh (cựu
Bí thư Bắc Kỳ), Nguyễn Văn Ngọc (Giám đốc Công An
Trung Bộ), Vũ Văn Ðịch (Cục
trưởng tình báo quân đội), Phan Bôi
(Hoàng Hữu Nam), v.. v...– hoạt động hầu như
công khai ở Hà Nội và các vùng ven
thị trấn. Chu Văn Tấn và Võ Nguyên Giáp
thành lập an toàn khu ở vùng Tuyên Quang-Bắc
Kạn, trải tới Cao Bằng. Tháng
5/1945, sau khi nhận lời hợp tác với tình báo Mỹ,
Hồ di chuyển từ Pác Bó xuống
Kim Lộng, Tuyên Quang. Toán Con Nai [Deer
Team] của Thiếu tá Allison K. Thomas từng nhảy dù
xuống Kim Lộng, giúp huấn
luyện khoảng 100 “bộ đội Việt-Mỹ” và
cứu Hồ thoát khỏi cơn bệnh mười chết một sống. Thomas còn
hành xử như Ban Ngoại
Giao của Hồ, chuyển ra ngoài lập trường kháng Nhật
và tranh đấu cho độc lập của
Việt Minh. Việc cơ quan tình báo Mỹ và Trung Hoa
chấp thuận sử dụng Việt Minh để
thu thập tin tình báo về Nhật còn tạo cho Việt
Minh sức mạnh tinh thần và một
vũ khí tuyên truyền sắc bén.(11) Tháng
8/1945,
sau
khi
Nhật
đầu
hàng, nhóm Trương Tử Anh mưu cướp
chính quyền Hà Nội,
nhưng không thành công. Ngày 18-19/8, Việt
Minh cướp chính quyền ở Hà Nội. Chỉ
trong vòng 10 ngày kế tiếp, hầu hết các tỉnh
đã ngả theo Việt Minh. Ngày 25/8,
Bảo Ðại chấp thuận thoái vị. Ngày 2/9/1945, Hồ
tuyên bố độc lập ở Hà Nội. Trong
giai
đoạn
mà
Y
sĩ
Nguyễn Xuân Chữ mệnh danh là “cắt
tiết,
mổ
bụng” này, khó thể kể xiết những thủ đoạn Việt
Minh nhằm trung lập
hóa và tiêu diệt đối thủ, thực hay giả. Cán
bộ CS bắt chước rất thành thạo các
thủ thuật của thực dân Pháp, đó là vu
cáo nạn nhân của họ bằng những tội hình
sự như trộm cắp, hiếp dâm, hay gây rối loạn trật tự
công cộng. Khi được chất
vấn, Trần Huy Liệu thản nhiên trả lời báo chí: tất
cả những người bị bắt giữ đều
nguy hại cho chính quyền. Năm ngày sau, HCM ký sắc
lệnh cho phép bắt giữ và cô
lập bất cứ ai nguy hiểm cho chế độ. (12) Thực
tế,
HCM
và
thuộc
hạ
quan tâm đặc biệt đến VNQDÐ và
Ðại Việt. Giáp cho lệnh tấn công một
số căn cứ Ðại Việt ở Phúc Yên và Sơn Tây.
Ba ngày sau lời hiệu triệu đoàn kết,
Giáp ký sắc lệnh giải tán Ðại
Việt Quốc
Gia Xã Hội Ðảng và Ðại Việt
QDÐ,
hiệu lực từ ngày 5/9/1945. Ngày 12/9, Giáp đặt ra
ngoài vòng pháp luật Việt Nam Thanh
Niên Ái Quốc Hội của Võ Văn
Cầm tại Hà Ðông, và Thanh
Niên Hưng Quốc
của Lê Ngọc Vũ. Thanh
trừng
diễn
ra
khắp
ba kỳ. Hầu hết chính khách tên
tuổi bị tắm máu, với tội danh chung chung là “Việt
Gian,
phản
động.” Trường Chinh, Tổng thư ký Ðảng
CSÐD không
dấu ác tính của mình qua những bài
báo trên Cờ
Giải Phóng, cơ quan ngôn luận của Ðảng CSÐD. “Nhân
tài
quí
thật,”
Trường
Chinh
viết, nhưng nếu cần cũng phải thẳng tay
triệt hạ đi,
đó mới là đại đoàn kết thực sự. (13) Ngoài
ra,
Ban
Thường
vụ
Ðảng
CS qui nạp thêm vào Việt
Nam
Dân
Chủ
Ðảng,
một
số trí thức trung lập, đặc
biệt là nhóm Thanh Nghị. Khả năng
và
uy tín của nhóm luật gia này được khai thác
tối đa trong lãnh vực dân vận, đặc
biệt là hai cơ quan ngôn luận Ðộc Lập
và La République. Vũ Ðình
Hoè và Dương
Ðức Hiền cũng được chia hai ghế trong chính phủ lâm
thời đầu tiên. Nghị
quyết
Hội
nghị
toàn
quốc
Ðảng CSÐD (14-15/8/1945) ngày
15/8, ngoài việc vận động các
giới và đảng phái thành lập “bạn Việt
Minh,” “Quan trường yêu nước,” “Việt Nam viên chức cứu quốc
hội,” còn có ý
tái lập VNQDÐ với những cán bộ đã theo Cộng
Sản và giúp đỡ Việt Nam Dân Chủ
Ðảng. Ngày 18/8, Dương Ðức Hiền thành lập Ủy
ban
Dân tộc Giải phóng ở Hà Nội với Trần
Ðình Long làm Cố vấn. Cán bộ CS còn
móc
nối Phan Kế Toại, qua con Toản, Phan Tư Nghĩa, và Phan Anh, qua
Phan Mỹ. Kế
hoạch tái lập VNQDÐ chưa kịp thực hiện thì quốc
quân Trung Hoa đã nhập Việt,
mang theo hai cánh tiền tiêu VNQDÐ từ Vân Nam,
và Việt Cách từ Liễu Châu (Quảng
Tây). (14) Cuộc
tranh
chấp
quyền
lực
chưa
ngã ngũ. Về số lượng, phe chống Cộng rất
đông đảo.
Lực lượng Việt Cách của Vũ Kim Thành từng tấn công
Móng Cái trong mùa Hè 1945.
Những đơn vị tiền tiêu Việt Cách tiến sát
biên giới, dưới quyền chỉ huy của Bồ
Xuân Luật, Trương Trung Phụng. Khoảng 2,000 VNQDÐ cũng ở
sát biên giới Lào Cai
và Hà Giang. Mặc
dù
sau
này
tài
liệu
tuyên truyền Pháp và
CSVN trình diện quốc quân Trung Hoa dưới góc
cạnh xấu xí nhất–như tai hại hơn bom nguyên tử–ở thời điểm
này, hơn 150,000
quốc quân Trung Hoa phần nào giúp một số cán
bộ Ðại Việt và VNQDÐ thoát cảnh cắt
tiết, mổ bụng, hay “mò tôm” trong tay những kẻ kiêu
hãnh lấy sự giết người làm
thành tích cách mạng. Phe chống Cộng–nhờ thế tựa
quốc quân TH–tăng gia hoạt động.
Họ không chỉ chống Cộng mà còn chống cả
Pháp. Tháng 9/1945, Hoàng Ðạo tái tổ
chức Ðại Việt Dân Chính, xuất bản Việt Nam Thời Báo. Tháng
2/1946,
Ðại
Việt
hợp
nhất
với VNQDÐ, được giao tổ chức chiến khu Vĩnh
Yên (Khu
3). Những
cuộc
bạo
động
và
công
kích trên báo
chí giữa Việt Minh và liên minh VNQDÐ-Ðồng
Minh
Hội diễn ra hàng ngày.
Tại Hà Nội, phe VNQDÐ-Ðồng Minh Hội
thành lập được khu tự trị tại vùng Quan-Thánh/Ngũ
Xã, mở trận chiến tuyên
truyền chống Việt Minh, tố cáo gốc Cộng Sản của Hồ cùng
các tay chân thân tín. Khái
Hưng
và
các
chiến
hữu sử dụng vũ khí sở hữu–tức
ngòi bút và lương tâm
mình–không ngừng đả kích, mỉa mai các
lãnh tụ Cộng Sản. Nhân Tết Trung Thu, báo Trẻ Em [Bình Minh], từng viết về tuổi
ấu
thơ
ưa
ném sấu, chèo me, đánh
đinh, đánh
đáo của HCM. Hai tờ Việt Nam và Ðồng Minh nhấn mạnh đặc tính Vẹm tức
giảo
hoạt,
dối
trá
viết tắt từ
tên Việt Minh [VM]. Dưới bút hiệu “Chàng Lẩn Thẩn,”
Khái Hưng viết những bài
phiếm luận trên Việt Nam (9/1945)
khiến cán bộ CS và thành phần “hoe
hoe” thân
Việt
Minh
không
khỏi
nhức đầu. Các
toán
cảm
tử
VNQDÐ
cũng
chống lại chiến dịch khủng bố của Việt Minh bằng cách
ám sát “Ba” [Ðại úy
Nguyễn Văn] Viên, một “đảng viên” phản bội, mưu sát
Bồ Xuân Luật, bắt cóc Trương
Trung Phụng, một lãnh tụ Ðồng Minh Hội. Có lần,
VNQDÐ còn bắt cóc được Võ
Nguyên Giáp. Trần Ðình Long bị bắt cóc
rồi thủ tiêu đầu năm 1946. (15) Phe
Việt Minh, qua các tờ Cứu Quốc và Ðộc Lập ra sức phản công. Nhưng như
trong bất cứ cuộc mưu bá đồ vương nào, luật kẻ mạnh thống
trị. Quân
đội
Việt
Minh
thiện
chiến
hơn Việt Quốc hay Việt Cách. Cán bộ Việt
Minh kiểm soát hầu
hết nông thôn và khu vực ven tỉnh thị.
Ðáng sợ hơn nữa, Hồ là một lãnh tụ kinh
nghiệm về chính trị và ngoại giao. Lên cầm quyền
khi ngân quĩ hầu như trống
rỗng, cán bộ CS các cấp hô hào và
ép buộc dân chúng “đóng góp”
vàng bạc qua Quĩ
Ðộc Lập, hay các Tuần lễ Vàng, Tuần lễ Văn
Hóa, v.. v... để tiêu dùng và hối lộ
quan tướng Trung Hoa, nhất là Lư Hán, Tiêu Văn, Chu
Phúc Thành, v.. v.... Cuối
năm 1949, Lê Văn Hiến còn giữ được số vàng lấy từ
cung điện Nguyễn và các cuộc
thu góp trong năm 1945-1946, nấu thành vàng
ròng, chuẩn bị cho một đợt “ngoại
giao hối lộ” khác. Ðối
diện
viễn
tượng
có
thể
bị tiêu diệt trong tay Quốc quân Trung
Hoa, từ tháng 11/1945, Hồ
bắt đầu mềm dẻo hơn. Hành động độc đáo nhất của Hồ
là giải tán Ðảng CSÐD–một
quyết định đến nay vẫn chưa được đánh giá đúng
mức. Theo Cờ Giải Phóng, cơ
quan
ngôn luận của Ðảng CSÐD, Ban Chấp hành trung ương
Ðảng họp ngày 5/11/1945,
“nghị quyết tự động giải tán Ðảng Cộng Sản Ðông
Dương từ ngày 11/11/1945. Những tín đồ của
Chủ nghĩa CS muốn tiến hành
việc nghiên cứu chủ nghĩa sẽ gia nhập Hội Nghiên Cứu Chủ
Nghĩa Mã Khắc Tư
[Marxist] ở Ðông Dương.” Trường Chinh–người chống đối
việc giải tán Ðảng–được
cử làm Tổng Thư ký. (16) Ðộng
cơ
của
việc
giải
tán Ðảng CSÐD thường được biết như
tránh bị quốc
quân Trung Hoa tiêu diệt, giải tỏa sự nghi ngờ của dư luận
quốc tế, đặc biệt là
Liên bang Mỹ, và “đoàn kết tinh
thành” với
các phe nhóm để bảo vệ độc lập, tự do. Hoàng
Tùng (Trần Thọ)–cựu Bí thư Hải
Phòng, rồi chánh văn phòng của Trường Chinh, Tổng
biên tập báo Nhân Dân–cho
rằng Ðảng CSÐD chỉ muốn “đánh
lừa” phe tư sản; nhưng địch không bị lừa, mà chính
“phe ta” (Nga và CS Pháp)
nghi ngờ, nên không ủng hộ VNDCCH trong giai đoạn
1946-1949. Nếu
tin
được
Linh
mục/Cao
ủy
d’Argenlieu, chiều ngày 22/2/1946, Maurice
Thorez từng khuyến
khích Cao Ủy Ðông Dương: “Quốc kỳ của
chúng ta trên hết! Vậy nếu cần đánh, cứ
đánh, nện cho nặng vào.” (17)
Theo
một
cựu
nhân
viên
ngoại
giao Hungary, mùa Thu 1950, Thorez
tuyên bố cuộc cách mạng 1945
của HCM đi ngược với chính sách của Stalin: Stalin muốn
Ðảng CS Pháp cướp chính
quyền trước, và tuyên bố cho VN độc lập sau. Stalin
không tin tưởng Hồ: Hợp tác
quá lộ liễu với tình báo Bri-tên và
OSS Mỹ, giải tán Ðảng CSÐD, không tham khảo
ý kiến Stalin. (18)
Tình
báo
Pháp
cũng
ghi
nhận quyết định giải tán
Ðảng CSÐD của Hồ tạo nên sự bất mãn và nghi
ngờ của Văn phòng Ban Phương Ðông [Dalburo]
Thượng Hải, đưa đến những cáo
buộc như “bán mình cho đế quốc,” “phản
bội” dân tộc Việt Nam và giai cấp công
nhân vào mùa Hè 1946. Vẫn
theo tình báo Pháp, tháng 9/1946, Dalburo Thượng Hải còn gửi phái
đoàn bí
mật qua Hà Nội để điều tra về quyết định rất “phản
động” trên. (19) Nhưng
để
hiểu
rõ
hơn
quyết định lịch sử này, không thể
không xét lại kinh
nghiệm cá nhân của HCM trước ngày lên cầm
quyền. Sự tiếp cận với chủ thuyết
Cộng Sản của HCM, cần nhấn mạnh, không do sự quyến rũ hay
thâm sâu của
Marxist-Leninism–một hình thái Nga hóa sơ khởi
thuyết Karl Marx–mà ngày đó HCM
chưa nghiên cứu kỹ lưỡng. Hồ đã đến với Ðảng
Cộng
Sản
Pháp
và rồi Ðệ Tam QTCS từ năm 1921-1924
phần lớn vì thời điểm này
chỉ có Mat-cơ-va bày tỏ thiện cảm với các nước bị
Tây phương xâm chiếm, gọi
chung là các nước thuộc địa hay bán thuộc địa. Hồ
nhiều hơn một lần, khẳng định
điểm này. Dĩ
nhiên,
chủ
nghĩa
Cộng
Sản tự nó có sức quyến rũ của
một thứ giả tôn giáo (pseudo-religion),
chẳng xa lạ với Ðông phương: đó là lấy
tài sản
phi nghĩa của tham quan, ô lại, hay cường hào, ác
bá (kẻ giàu có, gian ác),
chia cho đám đông đói khổ. Những anh
hùng/tướng cướp phổ thông trong dân gian
tại Trung Hoa hay Việt Nhưng
vào
đường
hoạt
động,
HCM dần dần khám phá ra sự
thực phũ phàng ở
hậu trường sân khấu. Quốc gia nào cũng có quyền lợi
tư riêng ẩn dấu sau những
chiêu bài truyền đơn, khẩu hiệu đẹp đẽ. Việc khai tử
bí danh Nguyễn Ái Quốc tại
Mat-scơ-va vào mùa Hè 1932 (và dưới
chính ngòi bút của Thống đốc Hong Kong ngày
19/1/1933, vì “ho lao và nghiện thuốc
phiện”)–tám năm ăn không ngồi rồi, chẳng được giao
nhiệm vụ nào vì đã lầm
lỗi khai sinh Ðảng Cộng Sản Việt Nam
ngày 6/1/1930–viết nên những tài liệu bị
chính đồng chí mình tại Ðại học Phương
Ðông chỉ trích là nặng tinh thần
cải lương
quốc gia, đầu cơ–không được ra công khai với những vợ
con cách mạng, v..
v...– lời tuyên bố tâm đắc của Hồ, “Tôi
thuộc Ðảng Việt Nam,” lý lịch tự khai “Ðảng
Quốc
Gia” khi công bố danh sách chính phủ lâm
thời vào ngày 2/9/1945, hay
tranh cử Quốc Hội năm 1946, cần được hiểu dưới ánh sáng
lịch sử khách quan hơn
lý luận giáo điều hay những lời nguyền rủa, chỉ
trích đầy xúc động. Quyết
định
giải
tán
QTCS
của Josef V. Stalin năm 1943 cũng ảnh hưởng
trên
quyết định của Hồ. Từ ngày này, vì lý do
sinh tồn, Hồ nghiên cứu Tam dân chủ nghĩa
của Tôn Dật Tiên và hệ
thống chính trị dân chủ Mỹ. Không chỉ dịch
tác phẩm của Tôn Dật Tiên và Tưởng
Giới Thạch qua Việt ngữ cho cán bộ học tập, Hồ dùng ngay
câu mở đầu của Bản
Tuyên ngôn độc lập Mỹ để bắt đầu Tuyên ngôn độc
lập ngày 2/9/1945 của mình.
Ngày 13/9/1946, Hồ còn khẳng định với nhân
viên ngoại giao Mỹ tại Cho
tới
khi
có
tài
liệu chứng minh ngược lại, kết luận khả
tín là Hồ chỉ
“tả khuynh” và tìm đến nước Nga xin cầu viện đánh
thực dân Pháp giành độc lập hơn
thành tâm tin tưởng ở thuyết Marxist-Lennism hay
Stalinism. Ðiều đó không có
nghĩa Hồ không bị ảnh hưởng bởi lý luận duy vật biện chứng
và phương cách tổ
chức một đảng chính trị, cùng kiểu mẫu chính quyền
Liên Sô Nga. Dù
các
đơn
vị
Phục
Quốc trên
thực
tế
chiếm
đóng
một số địa điểm ở duyên hải vào
cuối tháng 2/1946, HCM
vẫn triệu tập Quốc Hội, công bố chính phủ Liên Hiệp
Kháng Chiến ngày 2/3/1946. (22)
Ðể
chứng
tỏ
tinh
thần
đoàn
kết của mình, HCM còn yêu cầu
Quốc Hội nghiên cứu và biểu quyết
việc lựa chọn một quốc kỳ khác.
(23) Vì
lý
do
nào
đó,
Khái
Hưng không được cử
làm đại biểu Quốc Hội năm 1946, trong khi
cả ba anh em Nguyễn Tường Tam, Tường Long, Tường Bách đều được
tặng ghế. Phần
vì
tình
trạng
lụt
lội,
Nguyễn Tường Tam về tới Hà Nội
ngày 12/1/1946, vừa là
lãnh tụ Ðại Việt Dân Chính,
vừa là
VNQDÐ. Ðịnh
xuất
bản
báo
Dân Chính, nhưng rồi trở
thành Chủ bút báo Ðồng Minh
của Việt
Cách. Ngày 21/2, Tường Tam làm Ủy viên Ngoại
giao của VNQDÐ. Vì
áp
lực
Trung
Hoa,
Tường Tam miễn cưỡng nhận chức Bộ trưởng Ngoại
Giao,
tháp tùng HCM ra Vịnh Hạ Long gặp d’Argenlieu và
tham dự Hội nghị trù bị Ðà
Lạt. Nhưng sau khi HCM lên đường qua Pháp, Tường Tam lại
“mất tích.” (24) Phần
Nguyễn
Tường
Long
phụ
trách
tổ chức các chiến khu Vĩnh
Yên, Yên Bái, Lào Cai dưới
quyền Vũ Hồng Khanh. Nhưng sau ngày quân Trung Hoa triệt
thoái, tình thế phe
chống Cộng ngày một tuyệt vọng. Từ
tháng
6/1946,
Việt
Minh
thanh toán dần các căn
cứ VNQDÐ. Trong
hồi
ký
gần
cuối
đời, Y sĩ Nguyễn Tường Bách ghi
nhận: Tôi gặp anh
Lê, người cầm đầu Bộ chỉ huy [chiến khu 3 tại Vĩnh Yên]
lúc đó. Sau bữa cơm rau
dưa thanh đạm với anh em, chúng tôi đi dạo trong
thành phố và ra cả ngoài thị
trấn nhưng không thể đi xa được nhiều vì chung quanh
làng mạc đều do Việt Minh
kiểm soát. Có cách nào để phát triển
ra vùng nông thôn? Anh Lê cũng chịu bó
tay
vì không có người biết cách tuyên
truyền nông dân. Mà dùng võ lực
thì chỉ có
vài chục tay súng. Muốn giữ vững thị trấn cũng đủ hụt hơn
rồi. Tất cả anh em,
kể cả đảng viên và các anh em khác,
không quá vài trăm người. Về tài
chánh lại
quá eo hẹp. Quân đội chủ yếu do đám lính khố
xanh cũ hợp thành. . .( 25) Tháng
7/1946,
Nguyễn
Tường
Long
phải
rút lên Yên Bái.
Ít lâu sau, chạy qua Côn Minh, sau vụ
thảm sát cán bộ huấn luyện Nhật của trường Lục quân
Trần Quốc Tuấn ở gần Hồ
Kiều, cây cầu biên giới qua Hà Khẩu (Vân Nam).
(26) Trong
khi
đó,
với
sự
tiếp
tay của Huỳnh Thúc Kháng và Vũ Trọng
Khánh, Việt Minh phát động hàng loạt
những cuộc thanh trừng phe chống Cộng. Giáp còn mở những
phiên tòa hình sự, xét
xử các đối thủ chính trị qua những tội danh tưởng tượng
như trộm cắp, hiếp dâm.
Ngay tại Hà Nội, số phận cán bộ VNQDÐ không kịp
thoát thân cực kỳ bi thảm, thường
được biết như “vụ án Ôn Như Hầu.” Những
người cầm đầu công an Việt Minh–kể cả Bùi Ðức Minh–vu
cáo VNQDÐ mưu toan bắt
tay Pháp làm đảo chính đúng ngày
Quốc Khánh Pháp (14/7/1946). Sau đó, trong hai
ngày 12-13/7, tấn công vào các trụ sở
VNQDÐ khắp nơi, đặc biệt là trụ sở số 7
Ôn Như Hầu [nay là Nguyễn Gia Thiều], bắt giữ Dân
biểu Phan Kích Nam, rồi ngụy
tạo ra vũ khí, dụng cụ tra tấn và “7 tử thi” để bôi
nhọ Việt Quốc đã bắt cóc,
giết người, cướp của. Ngày 16/7, Thúc Kháng họp
báo, bênh vực việc làm của Giáp
và Việt Minh, đả kích VNQDÐ nặng nề. (27) Cuối
tháng
10/1946,
tại
phiên
họp
Quốc Hội thứ hai, Tiến sĩ Kháng phái biểu
“Lỗi tại tôi,” nhưng không
nói thêm được điều gì. Cù Huy Cận đại diện
Bộ Nội Vụ tuyên bố: Các đại biểu
VNQDÐ như Lê Ninh, Hoàng Ngọc Bách, Phan
Kích Phần
Khái
Hưng,
chẳng
hiểu
tại
sao không xuất ngoại. Sau ngày 19/12/1946,
Việt Minh lại phát động
đợt thanh trừng mới, vì anh em Nguyễn Tường Tam ở Hoa Nam đang
vận động thành
lập một chính phủ chống Cộng. Tại miền Trung, Việt Minh bắt giữ
một số lớn cán
bộ VNQDÐ như Phan Trung Thuyết (Liên Hiệp Quốc Dân),
Trần Thanh Mại, Ngô Han
(?), Bửu Viêm, Nguyễn Khoa Phong v.. v... Võ Như Nguyện
và Nguyễn Ðôn Duyến
chạy thoát. Bửu Hiệp [Hạp?] cùng Nguyễn Khoa Toàn,
Ưng Du, Tôn Thất Tu
(?),Nguyễn Ðôn Duyến và Võ Như Nguyện hoạt động
dưới chiêu bài VNQDÐ. Nguyện ra
Hà Nội nhưng không liên lạc đựợc với Tường Tam. Tại
Lào Cai, các khóa sinh trường
Lục Quân Trần Quốc Tuấn bị vây hãm, tấn công
liên tục, phải vượt qua biên giới. (29) Rất
ít
thông
tin
khả
tín
về những ngày cuối đời Khái Hưng được bạch hóa.
Có tin từ Hà Nội về Nam Ðịnh,
Khái Hưng bị VM bắt giam tại Liên Khu III (Lạc Quần, Trực
Ninh). Rồi thủ tiêu ở
bến đò Cựa Gà, phủ Xuân Trường cuối năm 1946 hay
1947. (30) Cái
chết
bi
thảm,
uẩn
ức
của người trí thức và văn nghệ sĩ Khái Hưng mới
chỉ là nửa sự thực lịch sử
trong cuộc Tam Thập Niên Chiến (1945-1975). Ở phía đối
diện–tức phe Quốc Gia
hay Cộng Hòa–cũng chẳng vui vẻ gì hơn. Biết bao người
chết tối tăm từ Thừa Phủ
tới Côn Ðảo, từ các trung tâm thẩm vấn Mật
Thám Pháp tới Tổng Nha Cảnh Sát Quốc
Gia. Ngọn lửa sinh đăng cúng dường Phật pháp của Thượng
tọa Quảng Ðức
(11/6/1963) chỉ là một bằng chứng của bạo lực “cách mạng
Nhân Vị.” Cái chết tự
nguyện của Nhất Linh ngày 8/7/1963–không
chấp nhận cho thứ công lý Ki-tô Trung cổ của chế độ
Ngô Ðình Diệm (1954-1963)
xét xử mình–là một chứng từ khác. Trong
di chúc, Nhất Linh viết: “Ðời
tôi có lịch sử xử, tôi không chịu để ai xử cả.
Sự bắt bớ và xử tội tất cả các
phần tử đối lập Quốc Gia là một tội nặng sẽ làm cho nước
mất về tay Cộng Sản.
Tôi chống đối sự đó và tự hủy mình cũng như
Hòa thượng Thích Quảng Ðức tự thiêu
để cảnh cáo những người trà đạp mọi thứ tự do.” (31) Bản
di
chúc
của
người
đã
dâng trọn đời mình cho đất nước–cũng một
nhà văn tài hoa, cựu thủ lĩnh Tự Lực Văn
Ðoàn–hiệu nghiệm như lời
tiên tri. Cái chết trong lòng Thiết Vận Xa của
Diệm-Nhu sáng ngày 2/11/1963,
cuộc hành hình Cẩn trong khám Chí
Hòa ngày 9/5/1964, hay cái chết điên loạn
của
Thục năm 1984 tại Missouri, chỉ là hậu quả những tội
ác
chiến
tranh
và diệt
chủng (theo công pháp quốc tế) của họ Ngô. (32)
Nhưng còn đó, nỗi cay đắng,
chua sót của giới trí thức một quốc gia nhược tiểu đang
bị chao đảo, rúng động
từ rễ gốc bởi hai trào lưu ý thức hệ Tây phương–đen và đỏ–cùng cơn
điên
cuồng tập thể của bầy âm binh chịu phù phép trong
tay áo những phù thủy, trên
sạn đạo đi tìm tự do, dân chủ và một tương lai
đáng sống hơn cho dân tộc mình. Nguyên Vũ
Phụ
Chú: 1.
Tài
liệu
Việt
ghi
Nguyễn
Tường Tam sinh năm 1905, về nước năm 1930 hay 1931,
và dạy học
tại trường Thăng Long. Theo ông Nguyễn Tường Thiết, trên
căn cước thiết lập năm
1951, sau khi thân phụ ông từ TH trở về, ghi ngày
sinh 1/2/1906. (Phỏng vấn
ngày 5/1/2009). Bản tiểu sử do an ninh Pháp lập năm 1946,
ghi Tường Tam sinh
ngày 1/2/1908 tại Cẩm Giàng, Hải Dương, du học tại
Pháp từ 1930 tới 1936, đậu
Cử nhân Vật lý. Về nước, làm Lục sự Toà
án Hà Nội. Chủ trương Tự lực Văn đoàn.
Năm
1940,
bỏ
việc,
làm
báo và xuất bản. Thành lập Ðại
Việt Dân
Chính; CAOM (Aix), GGI, 14 PA [Hồ sơ Decoux], c. 2.
Ðáng lưu ý là tài liệu
Pháp trong năm 1946 về các lãnh đạo Việt,
vì lý do nào đó, có nhiều hoang
tưởng.
Võ Nguyên Giáp, chẳng hạn, được phong làm
Khoa trưởng trường Luật Hà Nội năm
1937, từng qua Nga huấn luyện trong thời gian 1939-1940, rồi gặp Hồ ở
Trung
Hoa, gia nhập Việt Minh, về nước năm 1944; Amiral Thierry d’Argenlieu, Chronique d’Indochine, 1945-1947 (Paris:
Albin Michel, 1985), tr. 254 (dẫn tin tình báo
ngày 11/4/1946). Võ Giáp tốt
nghiệp năm thứ hai luật [chương trình 3 năm]. 2.
Vũ
Ðình
Hoè,
Hồi ký Vũ Ðình Hoè
(Hà Nội:
2004), 63-64, 692. Xem thêm nhận xét về sự đổi mới văn
chương, thời trang phụ
nữ và tranh hoạt kê (Lý Toét-Xã Xệ)
của nhóm Tự Lực Văn Ðoàn trong Nguyễn Xuân
Chữ, Hồi Ký (Houston: Văn Hóa, 1996),
tr. 210-212. 3.
Trần Phước An (1898-1943) sinh vào khoảng
từ
1895 tới 1898 tại Tường Lộc, Vĩnh Long. 1906, du học Nhật trong
phong
trào Ðông Ðộ. 29/11/1933, tham dự Ðại Hội
thanh niên (Seinen Kyodan) do Nhật bảo trợ với tư
cách đại diện An-Nam; CAOM
(Aix), Amiraux [GGI], 42469. 1937-1943, sĩ quan trong quân đội
Hoàng Gia Nhật.
1939, trung ủy Việt 4.
Theo
Lê
Tùng
Sơn,
Hồ
đưa ra ý kết nạp Nhất Linh với hy vọng
lôi kéo nhóm Tự Lực Văn
Ðoàn; Nhật ký một chặng đường (Hà
Nội:
1978),
tr. 140. 5.
Vũ
Ðình
Hoè,
2004:63-64,
692.
Theo Giáo sư Hoè, đầu năm
1941, ông nhắn tin cho Nhất
Linh là chỉ chú tâm vào báo Thanh Nghị, không
chính trị. 6.
Cứu Quốc [CQ], 12/9/1945; SHAT ( 7.
Trương
Tử
Anh
(1917-1946)
sinh tại Tuy Hòa,
Phú Yên. Còn có tên khác
là Trương Khán. Con Trương Bội Hoàng và
Nguyễn Thị
Miên. Năm 1940, học sinh tư thục ở Hà Nội. Thành
lập Ðại Việt Quốc Dân Ðảng. Ngày
4/10/1941, bị Pháp bắt, đưa đi tập
trung. Tháng 7/1942, được phóng thích, quản
thúc ở miền Trung. Tháng 1/1943,
trốn ra Bắc. Ngày 21/7/1944, Thống sứ Bắc Kỳ cho lệnh bắt, Tử
Anh tuyệt thực
phản đối. Nhật lại can thiệp, phải trả tự do. Ngày 2/9/1944,
trốn khỏi nhà thương
René Robin (Hà Nội). Tháng 3/1945, tái xuất
hiện ở Hà Nội; CAOM (Aix), GGI, 7F
29. 8.
Thông
Tin, “Loại tranh đấu” số 11,
ngày Chủ Nhật, 10/6/1945, đăng hình Vũ Văn An, Vũ
Ðình Dy, Ngô Ðình Diệm,
Nguyễn Xuân Chữ và Lê Toàn, với lời
chú thích họ thuộc “Ủy Ban Kiến Quốc,” “lập
nên để gánh vác việc kiến thiết nước Việt Nam mới;”
Vũ Ngự Chiêu, Phía bên kia cuộc
cách mạng 1945: Ðế quốc
Việt Nam (3-8/1945) (Houston: Văn Hóa, 1996). 9.
Tin Mới, 9/6/1945; Sài
Gòn, 12/6/1945; Tin Tức, 30/7/1945; Hải
Phòng, 31/7/1945;
L’Opinion-Impartial, 1/8/1945. 10.
Dân Chủ Ðảng do Dương Ðức Hiền,
chủ
tịch Tổng Hội Sinh Viên, làm Tổng thư ký. Giống như
Nguyễn Hữu Thọ và Huỳnh Tấn
Phát với Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng
Miền
Nam sau này, Hiền chỉ giữ vai “phỗng đá,” nhận lệnh
ra công khai ngày
30/6/1944. Chủ chốt là Pehznef Trần Ðình Long
(1904-1946), từ Nga về năm 1931, được
Văn phòng Ðông Dương của Ban Phương Ðông
Quốc Tế Cộng Sản dự trù sẽ thay Lê
Hồng Phong nếu có chuyện bất trắc. “Báo
cáo
của
LHP
tại
Ðại Hội VII QTCS
(15/1/1935);” Lê Hồng Phong, 2002:
685 [685-697], & “Thư ngày 7/2/1932, Vera I. Vasilyeva gửi
Litvinov [LHP];” LHP, 2002:742-743. Cuối thập
niên
1930, tham gia mặt trận báo chí ở miền Bắc. Thực
sự
nắm
Ðảng Dân Chủ từ tháng 8/1945.
Nhân vật tích cực khác là Hoàng Minh
Chính, Thư ký Ðảng Ðoàn Thanh Niên,
Lê
Trọng Nghĩa (Ðoàn Xuân Tín), cán bộ
tình báo. Do đề cử của những ngưới này, Hoè
và Hiền được đại diện Ðảng Dân Chủ trong chính
phủ lâm thời ngày 28/8/1945; Ðộc Lập,
4/9/1945; Vũ Ðình Hoè,
2004:718, 795, 797-798. Ðầu
năm
1946,
Long
bị
Việt Cách giết; Lê Tùng Sơn,
1978:186; Anatoli
A.
Sokolov,
Quốc
Tế Cộng Sản và Việt Nam, bản dịch Ðào Tuấn
(Hà Nội: CTQG, 1999), tr. 269-270. 11.
Lê
Tùng
Sơn,
1978:110-112
[Mỹ
thả 2 đợt, gần 80,000 truyền đơn của
Việt
Minh xuống Hà Nội, Huế và Việt Bắc]; René
Defourneaux,
“Secret
Encounter
with
Ho
Chi Minh;” Look
(NY), 8/9/1966, tr. 32-33; Robert
Sharplen,
The Lost Revolution (NY: Harper &
Row, 1965), tr. 30;
Báo
cáo
ngày
22/8/1945,
William J. Donovan gửi
Byrnes;
Bộ Quốc Phòng, US-Vietnam Relations,
1947-1967 (Washington, DC: GPO, 1971), Bk I, C 58-59, 67; The Pentagon Papers (Gravel), vol. I,
pp. 17, 20, 50, 51; Lê Giản, “The Story of
An Exile;” 12.
Cứu Quốc [CQ], 12/9/1945; Cờ Giải
Phóng, số 18, 20/9/1945; Dân Chủ (Hai
Phòng), 20/9/1945; Nguyễn
Xuân Chữ, 1996:278, 280, 284-289; Hoàng Văn
Ðào, Việt Nam Quốc Dân Ðảng (Sài
Gòn:
1971),
tr.
254-255; Trần Huy Liệu, Tài
liệu nghiên cứu Cách Mạng Tháng Tám, 3
tập (Hà Nội: 1956), I:34-38; Marr,
1995:chương 8 [539ff]. 13.
SL
số
8,
CQ, 9/9/1945; SL số 30 ngày
5/9/1945; Dân Chủ (Hải Phòng),
19/9/1945; Cờ
Giải Phóng
(Hà Nội), số 21, 30/9/1945; Nguyễn Xuân Chữ,
1996:294-304; 14.
Văn Kiện Ðảng Toàn Tập [VKÐTT],
7:1940-1945, (Hà Nội: CTQG, 2000),
tr.
431-433. 15.
Nguyễn
Tường
Bách,
Việt Nam những ngày lịch sử
(Québec, Canada: NNCSÐ, 1981), tr. 80-83; Vũ Ðình
Hoè, 2004:750-812. 16.
CGP (Hà
Nội), số
33, 18/11/1945. Năm 2000, Ðảng CSVN
sửa lại là BCH Ðảng họp ngày 11/11/1945, quyết nghị
tự giải tán, thành lập “Hội
nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Ðông Dương;” VKÐTT,
8:1945-1947, 2000:19-20. 17.
D’Argenlieu, Chronique, 1985:168. 18.
János
Radványi,
Delusion and Reality: Gambit,
Hoaxes, & Diplomatic One-Upmanship in Vietnam (South Bend,
Indiana:
Gateway, 1978), tr. 4-5, 20, 269n1; Theo Nikita S. Khrushchev, Stalin
rất lạnh
nhạt với Hồ trước 1950; Khrushchev
Remembers, trans. and ed. by Strobe Talbott (Boston: 1970), tr. 482. 19.
République
francaise,
S.D.E.C.E.,
“Notice
technique
de contre-espionnage:
Extrême-Orient, Les services spéciaux sovietiques en
Extrême-Orient” (20 mai
1947); Annexe II,” tr. 12;
CAOM
[Aix],
INF,
c.
138-139, d. 1245.
20.
V.
I.
Lenin,
State and
Revolution (New York: International Publishers, 1974), tr. 15-20. 21.
TTLTQG
3
(Hà
Nội),
QH, HS 1; “Ðường Kách Mệnh”
(1929), VKÐTT, 1:1924-1930, 2000:13-82;
Marr,
1981:131n,
374-376;
Idem.,
1995:289n191; Chính
Ðạo,
Việt Nam Niên Biểu, I-A:
1939-1946, (1996); Idem., “Báo Tiếng
Dân: Vài tư liệu mới;” Hợp Lưu
(Fountain Valley, CA), số 86 (Xuân Bính Tuất, 2006), tr.
25-26, 28; William
J.
Duiker,
Ho Chi Minh (New York: 2000),
tr. 618ns13,15.
Tuy
nhiên,
theo
cựu
Thiếu tá OSS Thomas,
trong bữa tiệc chia tay ở Hà Nội, Hồ nhìn nhận
mình là Cộng Sản; Wesley Fishel
(ed), Vietnam: Anatomy of a Conflict
(Itasca, IL, 1968), tr. 7; Về việc khai tử Nguyễn Ái Quốc, xem
“Biographie de
Ho Chi Minh (1949);” CAOM (Aix), GGI, 19 PA, c. 4, d. 62. 22.
La République (Hà Nội), 10/3/1946;
DPSG, Rapport mensuel, Déc 1945 (7/1/1946); CAOM (Aix),
Conseiller Politique
[CP], c. 125; “Tình hình và chủ
trương,
ngày 3/31946;” VKÐTT, 8:1945-1947,
2000:42-43. Ngày 2/3/1946, 70 đại biểu VNQDÐ và Việt
Cách mới được chính thức
giới thiệu ; TTLTQG 3 (Hà Nội), Kho QH, HS 1; Quốc Hội Việt Nam,
Lịch sử QHVN, 2 vols, (Hà Nội: 2000),
I:369-372. Theo Võ Nguyên Giáp, Hồ đã
bàn về việc thành lập chính phủ Liên Hiệp
với Tiêu Văn; vì các đảng phái chống đối; Những
Năm Tháng Không Thể Nào Quên, Hữu Mai
viết, tái bản lần thứ 5 (Hà Nội:
QÐND, 1974, 2001), 1974:142-144, 149-50; 2001: 129-131, 136-137;
Nguyễn Tường
Bách, 1981:80-87. 23.
Báo
cáo
của
Nguyễn
Văn
Tố và HCM trả lời chất vấn; TTLTQG 3 (Hà
Nội), Kho QH, HS 5. Năm
năm sau, trong báo cáo chính trị tại Ðại hội
kỳ II Ðảng CSVN (11-19/2/1951), Hồ
giải thích việc giải tán Ðảng CSÐD là một
trong những biện pháp đau đớn–để cứu
vãn tình thế. Ðảng tự giải tán (rút
vào bí mật) là đúng. Dẫn lời Lênin: “Nếu có lợi cho cách mạng, thì
dù thỏa
hiệp với bọn kẻ cướp, chúng ta cũng thoả hiệp;” VKÐTT,
Tập 12:1951, 2001:22 [12-39]. 24.
Chính
Ðạo,
“Hiệp
Ước
Sơ
Bộ 6/3/1946,” Hợp Lưu, số 88,
4-5/2006, tr. 95-148. 25.
Nguyễn
Tường
Bách,
1981:91-92. 26.
Phạm
Văn
Liễu,
Trả Ta Sông Núi, 3 tập ( 27.
VKÐTT, tập 8:1945-1947, 2001:104; Võ
Nguyên Giáp, KTNQ, 2001:256-257, 258-259. 28.
TTLTQG
3
(Hà
Nội),
QH,
HS 4: Khoá họp thứ hai của QH nước VNDCCH
tại thủ đô Hà Nội (từ
28/10 đến 9/11 năm 1946). [56 trang. Sao lục lại ngày 1/4/1954]
Tả có 83 người
(14 Mac-xít, 24 xã hội, 45 dân chủ); Ðứng giữa
có 170 người (80 Việt Minh, 90
vô đảng phái); Cánh hữu có 37 người (17 Việt
Cách, 20 QDÐ) [tr. 5] Ðại diện
QDÐ: Phạm Gia Ðộ; Việt Cách: Nguyễn Cao Hách;
Dân Chủ: Lê Trọng Nghĩa. 29.
CAOM
(Aix),
INF,
c.
138-139/d.
1245; L’Humanité ( 30.
Trịnh Văn Thanh, Thành ngữ điển tích, Danh
nhân từ điển
(Sài Gòn: 1966), I:577-578. Ông
Nguyễn
Tường
Triệu,
con
nuôi Khái Hưng, tiết
lộ “papa” mất tích sau Tết Ðinh Hợi (22/1/1947). 31.
TTLTQG
II
(TP/HCM),
Kho
Phủ Tổng thống Ðệ I Cộng Hòa
[PTT/Ð1CH], HS 8500. Nhất Linh nhập viện lúc 17G45
ngày 7/7/1963, khi Diệm đưa
ông ra tòa Mặt Trận xét xử vụ đảo chính hụt
ngày 11/11/1960. Chết
tại
bệnh
viện
Grall lúc 10G10 hôm sau, 8/7;
Ðiện văn số 1252 ngày 8/7/1963, BNV gửi Ðổng lý
VP/BT tại PTT. Theo Ban Giảo nghiệm của Tổng Nha CSQG,
trong máu
của Nhất Linh có chất độc “Véronal.” Ngày
13/7/1963, đám tang cử hành trọng
thể. Linh cữu đưa từ nhà thương Grall
tới chùa Xá Lợi, làm lễ cầu hồn,
rồi
tiến về nghĩa trang Giác Minh (Gò
Vấp) của Thượng Tọa Trí Dũng. Hàng ngàn học sinh,
sinh viên tham dự. (HS 8500)
Kể từ ngày này, học sinh, sinh viên bắt đầu tham
gia những cuộc tranh đấu chống
Diệm. 3.
A
Classification of the SRVN’s International Crimes: discuss briefly
the categories of
international crimes that the SRVN was committing inside Viet-Nam in
the 1970s
and 1980s. Although there is an overlap of the five major categories of
international crimes—i.e., genocide, politicide, war crimes, crimes
against
humanity, and human rights crimes [100]—I shall attempt to analyze the
SRVN
offenses within these categories rather than each kind of offenses such
as
killing, torture, rape, etc. Redundancy of facts and criminal offenses
is
inevitable. Additionally, I shall focus on the SRVN’s violations of
human
rights after 1975 rather than during the wars. 100.
For
a
comprehensive
treatment,
see
Jordan J. Paust, M. Cherif, et
al., INTERNATIONAL CRIMINAL LAW: CASES AND
MATERIALS, 823-832, 967-1025, 1028-1080, 1081-1112, 1115-1134 (Durham, N.C.: Carolina Academic Press, 1996)
[hereinafter INT’L CRIMINAL LAW (1996)]. One may also consider
“cultural
genocide” committed by the SRVN. a. Genocide: The term genocide
is derived from the Greek
word “genos” (race, tribe) and the Latin word “caedo” (to kill). Adolf
Hitler’s
Nazi has been often credited for inspiring Raphael Lemkin, a Polish
jurist, to
coin the term during World War II (1939-1945). Genocide, however, is as
old as
the history of humankind. The General Assembly Resolution 95(I) of
December 11,
1946 classifies genocide as “a crime under international law that is
condemned
by the civilized world,” whether the perpetrators are "private
individuals, public officials or statesmen."[101] Article II of the
Convention on the Prevention and Punishment of the Crime of Genocide
(1948
Genocide Convention) defines genocide as one of the following acts when
committed "with intent to destroy, in whole or in part, a national,
ethnical, racial or religious group, as such": (a)
killing
members
of
the
group; (b) Causing
serious bodily or mental harm to members of the group; (c) Deliberately
inflicting on the group conditions of life calculated to bring about
its
physical destruction in whole or in part; (d) Imposing measures
intended to
prevent births within the group;(e) Forcibly transferring children of
the group
to another group.[102] The full scope of the jus cogens prohibition
clearly
expresses in the original and unanimous General Assembly resolution
condemning
the crime of genocide that was to serve as a foundation for the
Genocide
Convention. Since the resolution was unanimous, it is certainly
consistent with
jus cogens norms. For example, the International Court of Justice (ICJ)
cited
Resolution 95(I) as evidence of the General Assembly's intention to
"condemn and punish genocide as a crime under international law
involving
a denial of the right of existence of entire human groups, a denial
which
shocks the conscience of mankind.”[103] Section 702 of the Restatement
(Third)
of Foreign Relations Law of the United States also lists “genocide” on
the top
of acts genuinely violating against
customary international law of Human Rights.[104] Comments d and n and
Reporters note 1 of Restatement, 3rd, §702 explain further that
“an agreement
to commit or tolerate genocide would be trumped by the jus cogens
prohibition
of genocide, and such an agreement would be void in ab initio as a
matter of
law.”[105] 101.
G.A.
Res.
95(I),
1
U.N.
GAOR, U.N. Doc. A/64/Add.1 at 188-189. For an
illustrative discussion, see Jordan J.
Paust, Book Review: Individual Criminal Responsibility for Human Rights
Atrocities and Sanction Strategies; TEX. INT’L L. J.
631-641 (Summer 1998). 102.
Art.
III
of
the
Convention
on the Prevention and Punishment of the Crime of
Genocide, adopted Dec. 9, 1948 (G.A.
Res. 2670), 3 GAOR, Part 1, U.N. Doc A/810, p. 174); entered into force
on
January 12, 1951, 78 U.N.T.S. 277, 280
(1951). Deliberately taken out of the Genocide Convention were the
categories
of “political groups” and “universal jurisdiction.” Due to the
elimination of
the political term, not until 1987 did the 103. Advisory Opinion on Reservations to the
Convention on the Prevention and Punishment of the Crime of Genocide,
1951
I.C.J. 15, 23 (amy 28); Paust et al., INT’L CRIMINAL LAW, supra note
100, at
1082 (1996). Also see Bosnia-Herzegovina v. 104.
Restatement
(Third)
of
the
Foreign
Relations Law of the 105.
Comment
n
of
Restatement,3d,
§702
states: “Not all human rights norms are
peremptory norms (jus cogens), but those in clauses (a) to (f) of this
section
are, and an international agreement that violates them is void; The Chinese
Vietnamese or Hoa formed an
ethnic-cultural group not only within the scope of the U.N. Charter, or
Article
II of the 1948 Genocide Convention, but also customary international
law. They
were members of an ethnical group distinguishable from the majority of
the
Vietnamese. By forcing the Chinese Vietnamese to leave the country en
masses,
the SRVN’s “Chinese resolution” was genocidal in character. The Chinese
nationals were overloaded in the small boats heading into the open sea,
regardless of whatever dangers might occur. They were in fact
victimized by any
imaginable sufferings, from dehydration for lack of sweet water to sea
storms,
from malnutrition to rape, torture, looting and killing by the Thai and
Malay
pirates. It is impossible to account the number of women being raped,
or
children and adults were tortured and/or murdered.
Long after reports of the traumatic
experiences of the boat people were publicized, the VCP leaders
continued to
export the Hoa refugees. The VCP activities thus satisfy not only
paragraph (b)
of Article II of the Genocide Convention (i.e., “causing serious bodily
or
mental harm to members of the group”) but also properly matches the
description
of paragraph (c) of the said Article, (“deliberately inflicting on the
group
conditions of life calculated to bring about its physical destruction
in whole
or in part”).[106] 106.
Convention
Implementation
Act
of
1987,
18 U.S.C. §1091 (1988), supra note
103.
See also Kadic v. Karadzic , 70 F.3d 232, 239-243 (2d Cir. 1995). Even
with the
narrower definitions of the These activities,
on the one hand, were
intended to liquidate the Chinese nationals in the SRVN, and, as a
result,
numerically reduced the Hoa population by about one-half. On the other
hand, Meanwhile, the
massive detention of the
SRVN civilians, especially religious practitioners, was committed "with
intent to destroy, in whole or in part, a . . . religious group, as
such,"
and entitled the SRVN to the category of genocide under Article II of
the Genocide Convention. Religious
persecutions
in Catholic priests
and many Catholic
adherents—the most dominant, organized and politicized religious group
since
the French occupation of Viet-Nam, despite its numerical minority,
about seven
percent of the whole population—did not fare better. They were forced
to join
the government-controlled Catholic Patriotic Association under the
umbrella of
the Fatherland Front. All 107.
For
details,
see
Weekly
Report
No. 49, Bunker to the President, May 2,
1968;
Lyndon B. Johnson Library (Austin), National Security File, Country
File,
Vietnam, 8B(3) [hereinafter, LBJ Library, NSF, Vietnam]. This party
regrouped
former members of Ngo Dinh Diem’s ruling party, the Can Lao Nhan Vi
Cach Mang
Dang (Workers’ Personalist Revolutionary Party), which had been
dismembered
since 1963. 108.
See,
e.g.,
U.S.
Dep’t
State,
VIETNAM COUNTRY REPORT ON HUMAN RIGHTS
PRACTICES
FOR 1997, at 7 (1998) [hereinafter, VIETNAM COUNTRY REPORT 1997]. My
information are based on various interviews with the Vietnamese
religious
leaders since 1975. I am especially grateful to Supreme Monks Thich Ho
Giac and
Thich Tam Chau for their revealing information. The SRVN leaders
might contend that its
policy was justified by national security or an emergency
situation—i.e., the
aftermath of a prolonged war. There is no excuse for the crime of
genocide,
however. ICCPR Articles 4, 5 and 6 reiterate the obligations under
Article V of
the Genocide Convention that there is no immunity for genocide, and all
contracting nations “undertake to enact . . . the necessary legislation
to give
effect to the provisions of the present Convention and, in particular,
to
provide effective penalties for persons guilty of genocide.”[109] 109.
Genocide
Convention,
Art.
V,
supra
note 102; ICCPR, Arts. 4, 5 and 6, supra
note 15. 110.
H.
Hannum,
International
Law
and
Cambodian Genocide: The Sounds of
Silence, 11
HUMAN RIGHTS Q. 82 (1989). Even if the VCP
leaders may not be strictly
accused of genocide per se, their policy constituted all of the
following punishable
acts: (a) Conspiracy to commit genocide; (b) Direct and public
incitement to
commit genocide; (c) Attempt to commit genocide; and (d) Complicity in
genocide
as dictated by Article III of the 1948 Genocide Convention.[111] All
the SRVN
officials, especially the military and police authorities, were liable.
Also,
it should be noted that the Statute of Limitations is not applicable in
case of
genocide. 111.
Genocide
Convention,
Art.
III,
supra
note 102. b. War Crimes: A universal
consensus is that war crimes
are violations of the laws or customs of war which include, but are not
limited
to, murder, ill-treatment of prisoners of war or of persons on the
seas,
killing of hostages, plunder of public or private property, wanton
destruction
of cities, towns, or villages, or devastation not justified by military
necessity. Generally, the "grave breach" and any breach of any of the
international humanitarian law, conventions relating to the laws of
warfare, or
any relevant protocol or convention that the committing state is a
party
constitute war crimes.[112] 112.
For
details,
see
Paust
et
al, INT’L CRIMINAL LAW, supra note 100, chapter 9
(1996). On August 21, 1996, Congress passed the War Crimes Act of 1996,
18
U.S.C. §2401, which criminalizing any "grave breach of the The SRVN’s
treatments of the American POWs
and the South Vietnamese officers, public servants and civilians during
and
after the war, as mentioned earlier, are authentically classified as
various
war crimes. The SRVN egregiously ignored all major obligations of the
POW
Geneva Convention. It violated Articles 70 (prohibiting torture and
killing of POWs), 71 (prohibiting public
display and
humiliation of POWs), 122 (failure to report their names), and 125 (denial of the right to exchange letters
or receive visits from international humanitarian agencies). It also
violated
Article 10 of the ICCPR. In brief, The expulsion of
the Chinese-Vietnamese,
including women and children, confiscation of their properties, and extortion of exit fees during the
Sino-Vietnamese conflict, constituted other acts of war crimes (and
genocide
crimes also). The reprisals on the
Chinese civilians during the conflicts with the PRC were in themselves
punishable war crimes. It is impossible to account the number of women
being
raped, or children and adults murdered along their tormenting sea
routes to the
neighboring countries. Ignoring the world opinion and concerns after
the first
wave of “boat people,” the SRVN continued to export the refugees until
1989.
The VCP activities, in fact, satisfied the description of “persecutions
on
racial ground” listed in the IMT Charter. c. Crimes Against
Humanity (Dilicti Jus
Gentium): Although there is
an overlap between Crimes
Against Humanity and War Crimes, the former is much broader than the
latter.
There are two sets of Crimes Against Humanity. First, it includes but
not
limited to murder, extermination, enslavement, deportation, torture,
rape, or
other inhumane acts against any civilian population before or during a
war.
Second, it encompasses “persecutions on political, racial, or religious
grounds
in execution . . ., whether or not in violation of the domestic law of
the
country where perpetrated.”[113] 113.
Art.
II(1)(c)(1945)
of
the
Control
Council Law No. 10. It should be noted
that
Art. 6(c) of the Charter of the International Military Tribunal (Aug.
8, 1945)
omitted the categories of “imprisonment, torture, rape”; 59 Stat. 1544,
1547,
82 U.N.T.S. 279, 288 [hereinafter, the IMT Charter]. The mass exodus
of the Chinese-Vietnamese
occurred in 1978-1979, when the PRC and the SRVN were involved in a
border and
strategic conflicts. The SRVN leaders, for whatever reasons, forced a
substantial part of the Chinese Vietnamese to depart from the country.
This act
was properly confined to the categories listed in Article 6(c) of the
Charter
of the International Military Tribunal in Nuremburg and Article 5(c) of
the
Charter of the International Military Tribunal in The same may be
asserted regarding the
situations of the religious monks, priests, and sect leaders. The VCP
religious
policy amounted to “persecutions on religious grounds.” d. Politicide
(Crimes Against Political
Groups): Professor Jordan
Paust advances the
following observation about Politicide: “[It is] a new international instrument to
further sanctify criminal proscription and to provide additional
guidance
concerning the contours of present prohibitions. . . . Politicide, as a
useful
rallying term, can encompass more odious forms of aggression against
authority,
the crime against self-determination, the crime of political
oppression, and so
forth, while providing a logically related focus on supplementation of
the
Genocide Convention.”[114] 114.
See
Jordan
J. Paust, Aggression Against
Authority: The Crime of Oppression, Politicide and Other Crimes Against
Human
Rights, 18 CASE W. RES. J. INT’L L. 283 (1986); cited in Paut et al.,
INT’L
CRIMINAL LAW, supra note 100, at 960-965, 1086-1088 (1996); See also In
re
Extradition of Demjanjuk, 612 F.Supp.
544, 555, n11 (N.D. Ohio, 1985). Generally
speaking, politicide has been a
common crime in the third world countries, where the golden rule is
"the
winner becomes King; the losers, bandits." This habit of liquidating
groups of political dissents has been quite well-entrenched in
Vietnamese
history. Between 1975 and 1979, the SRVN worked hard on the feudalists,
counterrevolutionaries and reactionaries, Chinese and Cambodian agents
and
spies, and the alleged CIA agents (xia). When those subjects were
exhausted,
the VCP leaders turned upon the southern “Viet Cong” and its own
cadres.
Conflict with the PRC prompted full-scale purges aimed at all party
leaders,
local official, military officers, and citizens supposedly associated
with the
Chinese (as in cases of Hoang Van Hoan, former Ambassador to China, and
General
Chu Van Tan, former Commander of the Northeast Autonomous Military
Zone) and
political "opposition."[115] Friends and family members of the
accused were instantly guilty by association, and children were
encouraged to
denounce their parents. The intensified repression that followed was
justified
on the ground that the revolution was at all times in jeopardy of
sabotage by
counter-revolutionary forces. The massive detention of South Vietnamese
civilians—including though not limited to Vu Hong Khanh, a leader of
the
Vietnamese Nationalist Party (Viet Nam Quoc Dan Dang or VNQDD) since
the 1930s,
and members of other political parties—and the persecutions of the two
pseudo-political, religious Cao Dai and Hoa Hao sects constituted the
SRVN’s
Politicide offenses. Dozens of thousands
of South Vietnamese political activists, it should be noted, were
liquidated by
the SRVN authorities. Many individuals were punished simply because of
their
alleged “counter-revolutionary thoughts.” These summary oppressions may
escape
the strict definition of genocide or war crimes, but can be encompassed
in the
category of politicide. 115.
Hoang
Van
Hoan
was
one
of Ho Chi Minh’s close associates in the 1940s and
1950s. General Chu Van Tan, of e. Crimes Against
Human Rights: The U.N. Charter
of June 26, 1945 is the
foundation of modern human rights. In its Preamble, the contracting
nations
“reaffirm faith in human rights, in the dignity and worth of the human
person,
in the equal rights of men and women and of nations large and small.”
Article
1(3) encourages “international cooperation in solving international
problems of
an economic, social, cultural, or humanitarian character, and in
promoting and
encouraging respect for human rights and for fundamental freedoms for
all
without distinction as to race, sex, language, or religion.” Article
55(c) encourages
“universal respect for, and observance of, human rights and fundamental
freedoms for all without distinction to race, sex, language or
religion.”
Article 56 indicates that “All Members pledge themselves to take joint
and
separate action in co-operation with the Organization for the
achievement of
the purposes set forth in Article 55,”[116] which creates a duty to
respect and
ensure respect for human rights. 116.
U.N.
Charter,
supra
note
16. Another
foundation of Human Rights is the
Universal Declaration of Human Rights of Dec 10, 1948. In its Preamble,
the
General Assembly proclaims: This
Universal
Declaration
of
Human
Rights
as a common standard of achievement for
all peoples and all nations, to the end that every individual and every
organ
of society, keeping this Declaration constantly in mind, shall strive
by
teaching and education to promote respect for these rights and freedoms
and by
progressive measures, national and international, to secure their
universal and
effective recognition and observance, both among the peoples of Member
States
themselves and among the peoples of territories under their
jurisdiction.[117] 117.
G.A.
Res.
217
(III),
U.N.
Doc. A/810, at 71 (1948). Article 1 of the
UDHR proclaims that, “All
human beings are born free and equal in dignity and rights. They are
endowed
with reason and conscience and should act towards one another in a
spirit of
brotherhood.” Article 3 of the UHDR adds: “Everyone has the right to
life,
liberty and the security of person.”[118] 118.
Another pillar of
Human Rights is the
International Covenant on Civil and Political Rights of December 19,
1966.
Article 26 of the ICCPR recognizes that “the law shall prohibit any
discrimination on any ground such as race, colour, sex, language,
religion,
political or other opinion, national or social origin, property, birth
or other
status.” Article 1(1) emphasizes the concept of individual
self-determination,
but not that of state.[119] 119.
ICCPR,
supra
note
15. Section 702(g) of
the Restatement (Third)
of Foreign Relations Law of the 120.
Restatement,
3d,
§702,
supra
note
104. For an instructive account on this
matter, see Jordan J. Paust, INTERNATIONAL LAW AS LAW OF THE UNITED
STATES,
chap. 5 (1996). 1. Extrajudicial
Killings: Extrajudicial
killing
is
defined
as
a
deliberate killing not authorized by a previous judgment pronounced by
a
regularly constituted court affording all the judicial guarantees which
are
recognized as indispensable by civilized people.[121] Although it may
be argued
that the SRVN authorities did not directly commit extrajudicial
killings, their
prolonged arbitrary detention of hundreds of thousands South Vietnamese
civilians and officers proximately caused thousands of extrajudicial
killings
in the reeducation camps or prisons, and numerous unresolved
disappearance of
prisoners.[122] 121.
Torture
Victim
Protection
Act
(TVPA)
of, § 3(a), 106 Stat. 73 (1991)
[hereinafter, TVPA (1991)]. This is a criminal code (not civil one as
ATCA),
establishing a civil action for recovery of damages from an individual
who
engages in torture or extrajudicial killing. 122.
For
details,
see Vietnam Human Rights
Practice, 1992; DOS Dispatch, Mar. 1993. 2. Torture: Torture is
defined as "any act by
which severe pain and suffering, whether physical or mental, is
intentionally
inflicted by or at the instigation of a public official on a person for
such
purpose as obtaining from that
individual or a third person information or a confession,
punishing that individual, intimidating or
coercing him or other persons."[123] Article 13 of the
ICCPR proclaims that "no one shall be
subjected to torture."[124] It constitutes basic principles of
international law; prohibiting any state from permitting the dastardly
and
totally inhuman act of torture.[125] The Convention Against Torture and
Other
Cruel, Inhuman or Degrading Treatment or Punishment of December 10,
1984 also
outlaws any form of torture.[126] Section 702(d) of the Restatement
(Third) of
Foreign Relations Law of the United States, lists “torture or other
cruel,
inhuman, or degrading treatment or punishment” as a violation of
customary
Human Rights. The landmark case law is Filartiga v. Pena-Irala, holding that torture is a violation of the
law of nations and can be redressed in U.S. courts (i.e., allowing
federal
courts to hear civil claims by non-citizens alleging acts committed in
violation
of the law of the nations or a treaty of the United States when the
wrongdoer
can be found in the United States).[127] 123.
TVPA
(1991),
§
3(b),
supra note 121. 124.
ICCPR
(1966),
supra
note
15. 125.
GA
Res.
3452. 126.
The
U.S.
Senate
advised
and
consented, with reservations, on Oct. 29, 1990. 127.
See
Filartiga
v.
Pena-Irala,
630
F.2d 876 (U.S. Ct of App., 2nd Cir. 1980);
Filartiga v. Pena-Irala, 577 F.Supp. 860 (E.D.N.Y. 1984). Also see, Torel-Oren v. Libyan Arab Republic, 726 F.2d
774, 781, 819-820 (D.C. Cir. 1984) (torture is violation of customary
international law; the proscription of official torture [is] a
principle that
is embodied in numerous international conventions and declarations,
that is
‘clear and unambiguous’…); Forti v. Suarez-Mason, 672 F. Supp. 1531,
1541 (N.D.
Cal. 1987) (prohibition against official torture is “universal,
obligatory, and
definable”). Also see Xuncax v. Gramajo, 886 F. Supp. 162 (D. Mass.
1995);
Hilao v. Marcos (In re Estate of Ferdinand E. Marcos Human Rights
Litigation),
25 F.3d 1467 (9th Cir. 1994), cert. denied, 115 S. Ct. 934
(1995);
Hilao v. Estate of Ferdinand Marcos (In re Estate of Ferdinand E.
Marcos Human
Rights Litigation), 94 F.3d 539 (1996)
(recognized state sovereignty immunity in torture cases); Hilao v.
Estate of
Ferdinand Marcos, 103 F.3d 767 (1996) (rejected former head of state’s
immunity
in torture cases and human rights abuses). Although the
SRVN’s laws prohibited
physical abuse and conditions of the re-education camps have improved
since
1989, there have been continued credible reports of police brutalities
during
interrogation of suspects and the severity of conditions to those
confined in
prisons. These reports indicated that beatings and ill-treatments were
still a
common practice and a means of punishment in prisons, despite legal
safeguards.
In general, detainees faced substantial malnutrition, poor or
non-existent
medical care, and severe and often arbitrary punishment for minor
infractions
of 128.
3. Arbitrary
Detention: Article 9 of the
1966 International
Covenant (ICCPR) provides in part: “Everyone
has
the
right
to
liberty
and security of person. No one shall be subjected
to
arbitrary arrest or detention. No one shall be deprived of his liberty
except
on such grounds and in accordance with such procedure as are
established by
law.”[129] 129.
ICCPR
(1966),
supra
note
121. Detention is
arbitrary “if it is not
pursuant to law; it may be arbitrary also if it is incompatible with
the
principles of justice or with the dignity of the human person.”[130]
Detention
is arbitrary if “it is not accompanied by notice of charges; if the
person
detained is not given early opportunity to communicate with family or
to consul
counsel; or is not brought to trial within a reasonable time.”[131]
Applying
these principles, one district court has held that individuals
imprisoned for
years without being charged were arbitrarily detained.[132] A number of
courts
have also recognized the international norm against arbitrary arrest
and
detention.[133] 130.
Rest,3d,
of
Foreign
Relations
§
702, comm. h (1987), supra note 104. 131.
132.
See
Forti, 672 F. Supp. at 1541. See
also Fernandez-Roque v. Smith, 622 F. Supp. 887, 903 (D.C. 133.
De
Sanchez
v.
Banco
Central
de Nicaragua, 770 F.2d 1385, 1397 (5th
Cir. 1985); Xuncax, 886 F. Supp. at 185; Forti, 672 F. Supp. at 1541. As a police
state—or, more precisely, a
socialist totalitarian state—the SRVN’s acts of arbitrary arrest and
detention
have been the rule than exception. The massive detention of the South
Vietnamese in 1975 was an example. Domestic courts, according to
various
credible testimonies, were no more than theatrical shows of justice.
Rights to
due process allocated by Article 14 of the ICCPR have been no more than
theaterical. 4. Rape: Rape is expressly
prohibited in Article 27
of the Geneva Convention Relative to the Protection of Civilian Persons
in Time
of War of August 12, 1949, a prohibition based on customary
international
law.[134] It is implicitly prohibited in common Article 3. It has been
punished
as a war crime under the U.S. Lieber Code (1863),[135] and was cited on
the
List of War Crimes prepared for the Paris Conference in 1919.[136] It
has also
been punished as Crime Against Humanity.[137] Even rape or sexual
offenses on
an aircraft (or vessel) is punishable by the U.S. law.[138] Rape can be
punishable as a Crime Against Human Rights under Articles 1 and 26 of
the
Convention Against Torture and Other Cruel, Inhuman or Degrading
Treatment or
Punishment of December 10, 1984.[139] 134.
Geneva
Convention
Relative
to
the
Protection of Civilian Persons in Time of
War, signed on Aug. 12, 1949; 75 U.N.T.S. 287, 6 U.S.T. 3516, T.I.A.S.
No.
3365; Paust et al., INT’L CRIMINAL LAW, supra note 100, at 1014 (1996). 135.
136.
137.
The
Prosecutor
of
the
Tribunal
v. Radovan Karadzic, Ratko Mladic,
Indictment:
The International Criminal Tribunal Tribunal for the former Yugoslavia
(July
24, 1995); Id., at 64-65, 761; Report of the Secretary General Pursuant
to
Paragraph 2 of Security Council Resolution 808 (1993), UN. Doc S/25704
(May 3,
1993), 138.
United
States
v.
Georgescu,
723
F. Supp. 912 (E.D.N.Y. 1989); Paust et al,
INT’L CRIMINAL LAW, supra note 100, at 158 (1996). 139.
39
U.N.
GAOR,
Supp.
No.
51, at 197, U.N. Doc. A/39/51; Paust et al., INT’L
CRIMINAL LAW, supra note 100, at 1115-1119 (1996). Also see Kadic v.
Karadzic,
70 F.3d 232 (2d Cir. 1995) (upholding jurisdiction over ATA claim
against
individuals for alleged violations of law of nations involving
genocide, war
crimes, and violations of humanitarian law, and rejecting forum non
conveniens
defense in suit against individual alien). Although there has been so far no allegation concerning
the SRVN ‘s
rape crime,
accounts are abundant about the rapes of the Vietnamese “boat people”
on the
open seas, remote islands or even in transit camps.[140] The SRVN
leaders are
jointly and severally liable for these crimes because their policy of
exporting
refugees was implementing during or after the Sino-Vietnamese
conflicts. Their
expulsion of the boat people was carried out despite the fact that they
foresaw
all kinds of dangers and degradation which would have not happened to
the
victims in the open seas but for their crimes. The intentional export
of these
refugees, whether for economic gains, ethnical hatred,
or political and ideological motives,
proximately caused the rape incidents. 140.
See,
for
instance,
“Anti-Piracy
in
5. Looting and
Destruction of Property: Article 17 of the
UDHR confirms both the
right to own property and the protection of such right, mandating that
“No one
shall be arbitrarily deprived of his property without just
compensation.” The
same rights are reaffirmed in the International Covenant on Economic,
Social
and Cultural Rights of December 19, 1966.[141] The SRVN authorities
egregiously
violated this article by nationalizing all private businesses and some
residential properties without any compensation. According to an
authentic
account, in Saigon alone the Communist authorities nationalized 230
private
properties, 400 industrial plants, and 14,000 artisan properties
between 1975
and 1976, and the total value of expropriated properties amounted to 19
billion
dong (piasters) of 1970 exchange rate (equivalent to $US19
billion).[142]
Nearly all homesteads of former South Vietnamese officers and
government
officials were also expropriated during their prolonged detention.
Their
families were forced to move out of their residence with very little or
without
compensation. In 141.
See,
e.g.,
Arts.
1(2),
2(2),
4, 5, International Covenant on Economic,
Social
and Cultural Rights of December 19, 1966, entered into force on Jan. 3,
1976;
999 U.N.T.S. 3. 142.
Nguyen
Van
Linh,
10
YEARS,
supra note 89, at 68, 88
(1986). 143.
6. Racial
Discrimination: Article 2 of the
UDHR proclaims that “Everyone is entitled
to all the rights and
freedom set forth in this Declaration, without distinction of any kind,
such as
race, colour, sex, language, religion, political and other opinion,
national or
social origin, property, birth or other status.” Article 7 of the UDHR
mandates: “All are entitled to equal protection against any
discrimination in
violation of this Declaration and against any incitement to such
discrimination.”[144] 144.
G.A.
Res.
217
(III)
A,
2 U.N. GAOR (183d plen. mtg.) at 71 (1948); Jordan J.
Paust, INTERNATIONAL LAW AS LAW OF THE UNITED STATES, at 313 (1996). Article 6 of the
Agreement and Charter
Establishing the Nuremberg War Crimes Tribunal (1946), it should be
repeated,
condemned and punished "persecution on political, racial, or religious
grounds," regardless of whether the offenders acted as "individuals
or as members of organizations."[145] Article 20 of the ICCPR calls for
the banning of advocacy or war propaganda indicating racial or
religious hatred
or violence.[146] Racial discrimination is also denounced by the 1966
International Convention on the Elimination of All Forms of Racial
Discrimination.[147] 145.
IMT
Charter,
supra
note
113. 146.
ICCPR
(1966),
supra
note
15.
Also see GA General comment 11/19, 38 U.N. GAOR
Supp. (No. 40), Annex VI, at 109, U.N. Doc. A/38/40 (1983). 147.
RACIAL
DISCRIMINATION
CONVENTION
(1966),
supra
note 53. The SRVN leaders
in particular and the
Vietnamese people in general are under a perennial constant fear of the
Chinese
southward hegemony. The discovery of oil and gas in the Racial
discrimination acts were also waged
against the Tay and Nung ethnic groups in the North, and the E-de
(Rhade) in
Central Viet- 148.
For
further
details,
see
Douglas
Pike (ed), THE BUNKER PAPERS: REPORTS TO
THE
PRESIDENT FROM
Trang mạng Việt Nam Văn Hiến
Trang Khai Hưng Trần Khánh Giư www.vietnamvanhien.net email: thuky@vietnamvanhien.net Trang
mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi bảo tồn di sản văn hóa của
Việt tộc
và phục hồi nền An Lạc & Tự Chủ. |