Việt Nam Văn Hiến
|
|
Đồn Phồn Xương - căn cứ một thời là nỗi kinh hoàng của thực dân Pháp. |
Di
tích đồn Phồn Xương
Vào đến trung tâm huyện Yên Thế,
chúng tôi có cảm giác như sống lại hơi thở
khói lửa của hơn 100 năm trước với những cái tên
phố Hoàng Hoa Thám, phố Bà Ba (bà Ba Cẩn,
vợ ba Hoàng Hoa Thám) hay đường Cả Trọng, Cả Dinh
(các con của Hoàng Hoa Thám)... Ngay giữa trung
tâm huyện lỵ Yên Thế, trong khu quần thể di tích
cuộc khởi nghĩa là một bức tượng lãnh tụ nghĩa quân
Hoàng Hoa Thám đứng uy nghi.
Đứng từ đây, chúng tôi có thể nhìn
thấy đồn Phồn Xương được đắp bằng đất, sừng sững. Đồn được Hoàng
Hoa Thám cho xây dựng vào năm 1892, trấn giữ con
đường độc đạo để đi vào căn cứ của nghĩa quân. Bây
giờ thì đồn luỹ này không phải nằm khuất sau rừng
cây rậm rạp để che tầm mắt địch nữa mà nó gần như
lộ thiên. Một con đường độc đạo nối từ phía ngoài
đường chính, bắc qua một cái hồ nước và theo như
lịch sử còn lưu lại thì sau khi tiêu diệt được cuộc
khởi nghĩa Yên Thế, Pháp đã cho san phẳng đồn Phồn
Xương. Sau này người ta mới cho dựng lại và phục chế y
như ngày xưa.
Phía sau đồn Phồn Xương là doanh trại, chiến lũy của
nghĩa quân Đề Thám. Ông đã cho xây dựng
ở khu vực này một bát quái trận với nhiều đồn lũy
thông nhau. Phía sau đồn Phồn Xương vẫn còn một
cái xóm mà gần đây đã được đổi
tên thành phố gọi là phố Bà Ba. Tương
truyền, ngày trước chính chỗ này là nơi ở
của bà Ba Cẩn - vợ ba Hoàng Hoa Thám, người vợ
mà ông yêu thương nhất, cũng là một tướng
tài của cuộc khởi nghĩa.
Khoảng cuối những năm 80, con gái của cụ Hoàng Hoa
Thám là bà Hoàng Thị Thế có về
đây, đứng ở chính xóm này thắp hương cho
vong linh của cụ Đề Thám. Lịch sử còn ghi lại bà
bị Pháp bắt cùng với mẹ (bà Ba) trong trận
Pháp đánh vào Phồn Xương năm 1907 và bị
đày sang đảo Guam (thuộc địa của Pháp) lúc
bà mới có 6 tuổi. Trên đường đi, mẹ của bà
đã nhảy xuống biển tự vẫn, còn bà lúc
đó quá nhỏ vẫn bị đày tiếp. Sau hàng chục
năm sống ở Pháp, lấy chồng Pháp có con cái,
bà vẫn nhớ về quê cha đất tổ và xin về Việt Nam để
sống (nhiều năm bà vẫn sống trong một căn hộ ở khu tập thể Văn
Chương, Hà Nội).
Khi bà Thế mất, mộ của bà được đặt ở đây.
Chúng tôi lặng người khi đứng trước ngôi mộ của
bà, trên tấm bia mộ chỉ ghi dòng chữ thật giản dị:
"Bà Hoàng Thị Thế, sinh năm 1901, mất 9.12.1988". Như
vậy, sau biết bao thăng trầm của lịch sử, bà lại trở về với mảnh
đất thiêng liêng. Mộ của con gái Hoàng Hoa
Thám thì nằm đây, nhưng còn mộ của ông?
Mộ Hoàng Hoa
Thám ở đâu?
|
Một
tài liệu của Pháp ghi: "Sau khi cuộc khởi nghĩa thất bại,
Đề Thám cùng vài thuộc hạ rút về Hố Nẩy,
nhưng có 3 thuộc hạ của cánh quân Lương Tam Kỳ gặp
cụ, chuốc cho cụ uống rượu say, rồi giết chết cụ. Pháp bêu
đầu cụ ở Nhã Nam, Bắc Ninh để thị uy dân chúng".
Hiện ở Hố Nẩy vẫn còn một ngôi mộ mà người ta nghi
là mộ của Đề Thám. Nhưng vẫn còn một thuyết
khác cho biết cụ không bị giết mà cụ đã
hoá thánh. Sau này bà Hải (người
giúp việc cho bà Hoàng Thị Thế) đã
thuê một số nhà ngoại cảm tìm mộ của cụ Đề
Thám nhưng vẫn không tìm thấy.
Có khá nhiều người Pháp đã lặng lẽ đến
đây, đứng rất lâu trước đồn Phồn Xương và trước
những di tích còn sót lại của cuộc chiến...
Có thể họ là hậu duệ của những lính Pháp
đã từng tử trận tại Yên Thế, họ muốn tìm lại những
chứng tích của một thời đã xa và khi đứng
đây họ sẽ hiểu được cuộc chiến mà cha anh họ đã
tham gia thật vô nghĩa biết bao.
Đi tìm di
tích ao Bò, đồi Tăngxê
Khi đến Phồn Xương, chúng tôi được anh Hồng,
dân bản địa cho biết, muốn tìm di tích của nghĩa
quân Hoàng Hoa Thám thì phải tìm theo
địa danh, có nghĩa nhiều nơi vẫn còn được đặt theo sự
kiện của cuộc khởi nghĩa Hoàng Hoa Thám như đền Thề (nơi
nghĩa quân cắt máu ăn thề trước trận đánh với
Pháp) hay đồi Tăngxê (nơi nghĩa quân đào rất
nhiều hào giao thông) và chúng tôi
không quên đi tìm di tích của ao Bò,
nơi mà theo tương truyền được nghĩa quân giết bò
khao quân trước mỗi trận đánh. Vượt qua thành lũy
khá cao của đồn Phồn Xương, nơi có thể nhìn bao
quát một thung lũng xanh mướt cây lá, chúng
tôi đi tìm di tích ao Bò.
Người ta kể rằng khoảng năm 60, ao Bò vẫn còn rộng lắm,
nghĩa quân đặt ở đây một phiến đá to như cái
phản để giết bò, khao quân. Chúng tôi đứng
cạnh ao Bò và cảm thấy không khỏi ái ngại
vì bây giờ di tích ao Bò chỉ còn
là một cái hố nông choèn với tí nước
còn sót lại. Phiến đá to ngày xưa cũng
đã bị lấp mất (hoặc lấy mất). Một ruộng rau muống khá to
bên cạnh đang lấn dần và theo đà này, chỉ
sau ít năm nữa ao Bò sẽ biến mất hẳn.
Một di tích thật đẹp, thật sống động như vậy mà mất đi
quả thật là phí. Người ta đã san lấp gần hết
các hào tăngxê ngày xưa và trồng
lên cả một rừng nhãn. Trước đây đoàn
làm phim "Thủ lĩnh áo nâu" khi về đây
làm phim có đào lại một số đoạn hào, nhưng
nguy cơ chẳng còn một chút chứng tích nào
rất có khả năng xảy ra.
Đứng trên đỉnh đồi, có thể phóng tầm mắt
nhìn bao quát ra cả một dải Yên Thế. Đúng
là cụ Đề Thám có một tầm nhìn thật xa khi
chọn nơi này làm căn cứ kháng Pháp. Từ
đây có thể chi viện dễ dàng cho đồn Phồn Xương,
mà chỉ duy nhất có một con đường độc đạo. Nếu chẳng may
đồn thất thủ, Pháp chỉ có thể phơi mình ra
trên một khoảng trống lớn trên cánh đồng để nghĩa
quân tiêu diệt mà không thể tấn công
sâu vào bên trong căn cứ của nghĩa quân.
Một tiềm năng thật
quý giá
Trở về qua khoảng ruộng của lão nông Nguyễn Văn
Chức, năm nay 72 tuổi, chúng tôi được ông mời
vào uống nước. Ông Chức cũng sống ở xóm Bà
Ba này từ năm 45, nơi mà theo ông kể: Hồi ấy rừng ở
đây còn rậm rạp, còn cả thú rừng và
cướp rất nhiều. Ông cũng hiểu rằng mình đang sống
trên mảnh đất đầy truyền thống yêu nước và phải giữ
gìn, nhưng ông nói với vẻ e ngại: Ngay như
ông cũng chẳng hiểu gì nhiều lắm về lịch sử cuộc khởi
nghĩa Đề Thám, nói gì đến con cháu. Quả
thật, khi chúng tôi hỏi mấy đứa cháu của ông
về cụ Đề Thám, chúng chỉ cười.
Đứng dưới bức tượng Đề Thám uy nghi chúng tôi
có cảm nghĩ như mình đang được ngắm nhìn một bức
tranh tổng thể, thật bi hùng về cuộc khởi nghĩa. Chính ở
đây có thể dựng lại gần như nguyên bản bức tranh của
cuộc khởi nghĩa với con đường độc đạo, trạm gác, với tiếng
vó ngựa, thành lũy... thậm chí cả trang phục thời
ấy, chắc chắn sẽ là một di tích có một không
hai còn lại, có thể làm được. Những cuộc khởi
nghĩa kháng Pháp hồi ấy như của Phan Đình
Phùng, Đốc Ngữ, Nguyễn Thái Học... đến nay di tích
gần như không còn gì. Có lẽ còn lại
một cách đầy đủ nhất là những di tích của cuộc
khởi nghĩa Hoàng Hoa Thám. Nhưng rất tiếc mọi thứ vẫn
đang chỉ là đề án...
Chúng tôi thử đặt vấn đề này với ông Dương
Hồng Cơ - Trưởng phòng VHTT huyện Yên Thế, một trong những
người đang chịu trách nhiệm xây dựng đề án khai
thác tiềm năng Yên Thế. Ông Cơ cho biết: Tỉnh
và huyện đang tích cực xây dựng trung tâm
này thành một quần thể di tích lịch sử, trung
tâm văn hóa và du lịch không những cho Bắc
Giang mà còn cho cả nước. Nhưng ngặt một nỗi là
kinh phí. Ông Cơ cho biết: Từ Hà Nội đi lên
đây chỉ hết khoảng 2 tiếng đồng hồ. Yên Thế lại có
phong cảnh hữu tình với rất nhiều đồi, núi trùng
điệp xen lẫn hồ nước trong xanh, vừa tốt để làm du lịch vừa
có thể tắm mình trong lịch sử.
Chúng tôi cũng đã cất công thử đi tìm
những hậu duệ của nghĩa quân ngày trước, nhưng hình
như chẳng còn mấy ai. Rồi những hiện vật còn lại như
súng ống, mã tấu, gươm, giáo... cũng chẳng
còn lại bao nhiêu. Tuy nhiên, người ta vẫn có
thể phục chế lại được. Cái quan trọng là quyết tâm.
Trên đường trở về chúng tôi cứ trăn trở mãi
với câu hỏi: Đến khi nào thì việc khai thác
tiềm năng lịch sử văn hoá ở đây mới trở thành hiện
thực?
Nguồn: Báo Lao động xuân Ất Dậu 2005
Nguồn: http://www.chuyenluan.net