Việt Nam Văn Hiến
Năm Thứ 4889

www.vietnamvanhien.net




Trang mạng Việt Nam Văn Hiến  xin được trân trọng lưu trữ và phổ biến những tác phẩm của Triết Gia Lương Kim Định trong mục đích bảo tồn di sản văn hóa của Việt tộc và cũng để tri ân ngài đã hiện hữu trong dòng sinh mệnh của Việt tộc cùng những đóng góp vô cùng quí báu cho nền văn hóa văn hiến.

www.vietnamvanhien.net


TIỂU SỬ TRIẾT GIA LƯƠNG KIM ĐỊNH



Kim Định (1915-1997)


 Triết gia KIM ĐỊNH sinh ngày 15.6.1914 tại Trung Thành, Nam Định. Sau khi tốt nghiệp triết học tại Giáo Hoàng Chủng Viện Sait Albert Le Grand, ông dạy triết tại Đại Chủng Viện Bùi Chu (1943-1946). Năm 1947, ngài sang Pháp 10 năm nghiên cứu về triết học tại Institut des Hautes Etudes Chinoise để thâu thập tài liệu xây đắp nền triết lý Việt Nam. Trở về nước năm 1957, ngài dạy triết Đông tại Học Viện Lê Bảo Tịnh, Đại Học Văn Khoa Sàigòn, Đại Học Vạn Hạnh và Đại Học Đà Lạt.
Từ năm 1960, triết gia bắt đầu cho ra mắt một loạt những cuốn sách về triết Việt, mở đầu là cuốn Cửa Khổng, Triết Lý Giáo Dục, Nhân Bản, Căn Bản Triết Lý Trong Văn Hóa Việt Nam . . . Học giả Linh Mục Vũ Đình Trác viết về công trình của ngài như sau:
“Nhờ công phu mở đường trở về triết Đông của Giáo Sư Bửu Dưỡng và Nguyễn Văn Thích cũng như tâm huyết của Giáo Sư Nguyễn Đăng Thục, chương trình triết học Đông Phương được khai giảng tại Đại Học Văn Khoa Sàigòn năm 1958. Sẵn đường trở về Đông Phương, triết gia Kim Định tiện đường, đơn thương độc mã, ông lên một nước táo bạo, mở đường đi vào Triết Lâm Việt Nam. Trong suốt 16 năm trời tại giảng đường Đại Học Văn Khoa Sàigòn, giáo sư đã ảnh hưởng sâu rộng cho cả một thế hệ thanh niên và sinh viên. Mặc dầu bao chống đối, ông đã im lặng xây dựng một hệ thống Việt Nho khá trung thực và hấp dẫn. Không ai có thể chối cãi công phu xây dựng và ảnh hưởng sâu rộng của ông trong lãnh vực văn hóa dân tộc. Từ Đại Học Văn Khoa Sàigòn, ông mở rộng mặt trận tới các Đại Học khác: Đại học Đà Lạt, Vạn Hạnh, Minh Đức, Thành Nhân và An Giang. Chính trong giai đoạn này ông đã sáng lập chủ thuyết AI VI và VYẾT NHO”.
Nhận định về địa vị của triết gia Kim Định trên trường Việt Nho, Việt Triết - học giả Linh Mục Vũ Đình Trác còn viết như sau:
“Nhờ công khai thác và biên khảo, sáng tác của giáo sư, những bậc thức giả khắp nơi đã suy tôn ông là Triết Gia Việt Nam. Aûnh hưởng Việt Triết và Việt Nho của ông đã gây ý thức cho người Việt khắp nơi nhìn lại thực tại văn hóa của mình. Các đồ đệ của ông đã đáp ứng nguyện vọng của Thầy để khai thác và phổ biến Việt Lý của Thầy qua tổ chức AN VIỆT. Các nhóm An Việt được thành lập khắp nơi: San Jose, Orange, Houston, Louisiana, Washington DC, Philadelphia, Seattle, và tại Canada, Uùc Châu, Anh, Pháp, Đức v.v ... An Vi đã như một luồng gió dân tộc bùng lên khắp nơi có người Việt định cư. Các nhóm này coi Triết Gia Kim Định như bậc Đại Sư, mà họ tôn làm Tổ: TỔ SƯ AN VI, TỘC PHỤ AN VIỆT. Aûnh hưởng của Triết Gia không những thế mà còn lan rộng tới các học giả, triết gia ngoại quốc: Aâu Mỹ và khối Viễn Đông”.
Năm 1987 hội nghị Quốc Tế về “Khổng Học Với Thế Giới Ngày Nay” (International Symposium on Confucianism and the Modern World) tổ chức tại Đài Bắc, Đài Loan, qui tụ 400 học giả khắp thế giới. Triết gia Kim Định cùng với Lm Vũ Đình Trác đã thuyết trình đề tài “Đạo Trường Chung Cho Đông Nam Á” (A Tao-Field for South East Asia). Bài tham luận do Giáo Sư Trần Văn Đoàn, Giáo Sư Đại Học Quốc Gia Đài Loan trình bày (Professor of Philosophy at Taiwain National University). Đề tài này đã gây tiếng vang rất lớn trong giới Nho Lâm Á Châu.
Sau đó ngài còn tham dự Hội Nghị Triết Học tại Brighton Anh Quốc năm 1988 (The World Congress of Philosophy) – Hội Nghị Triết Học Á Châu và Bắc Phi lần thứ 33 tại Toronto Canada năm 1990 (The XXXIII International Conference on Asian and North African Studies). Ngài nói với các đồ đệ; “Thầy phải đi để nói cho thế giới biết con người, tư duy và đạo sống cao đẹp của dân tộc Việt Nam”.
Oâng Nguyễn Ngọc Bích, giáo sư Đại Học Georgetown, Washington DC, viết về triết gia Kim Định trong báo Ngày Nay, số 121:
“Trong nỗ lực đi tìm một con đường Việt Tộc, Nhân Chủ, Tự Do, thì chúng ta phải kể ở hàng đầu công trình đồ sộ của triết gia Kim Định. Ở đâu ông cũng thế, không phải sang Mỹ ông mới tìm “về nguồn”. Việc làm của ông trong một tình cảnh mất mát vô biên, chẳng qua cũng chỉ là nối tiếp công việc của ông đã bắt đầu khi còn ở trong nước, khi còn ở Miền Nam tự do. Từ năm 1962 tới nay, ông đã hoàn tất được 23 cuốn triết học, tương đương với 7000 trang, một mảng tư tưởng mà không dễ mấy triết gia có thể so sánh được. Sự độc đáo ở nơi ông cũng đã là một truyện quá rõ - dầu ta có đồng ý với ông hay không, thì ta cũng không thể phủ nhận được tính cách độc đáo của tư tưởng ông. Ngày nay tham vọng cuối cùng của triết gia Kim Định là sẽ dựng xong một bộ Kinh (hiểu theo nghĩa Bible) cho dân tộc ta. Để thực hiện tham vọng này, ông đã cho in hoặc đang in năm cuốn thuộc bộ “Ngũ Kinh Khải Triết”, đó là: Hùng Việt Sử Ca, Kinh Hùng Khải Triết, Pho Tượng Đẹp Nhất Của Việt Tộc, Sứ Điệp Trống Đồng, Văn Lang Vũ Bộ (số lớn do nhà in H.T KELTON xuất bản). Nếu ai hỏi tôi rằng có nên đọc hay không, thì tôi xin thưa ngay: dứt khoát là có. Tại sao ? – Tại vì nếu ta không nhất thiết đồng ý với hết cả ý kiến của ông, ta cũng sẽ được làm thân với một trong những bộ óc triết lý lớn nhất nếu không của nhân loại thì cũng của Việt Nam. Tôi nói điều này trong sự cân nhắc, cũng không khác gì câu tôi sẽ trả lời cho người nào hỏi: Có nên đọc Platon hay Aristote không ? Đã nhất thiết gì ta đồng ý với Platon trong tác phẩm La République, nhưng ai không đọc tác phẩm đó, thì chắc chắn mất đi một mảng hiểu biết rộng lớn về triết học Tây Phương. Cũng như vậy, ai không đọc Kim Định cũng không sao, ông sẽ từ tốn mà “an vi”, để chờ một ngày kia người nọ sẽ tỉnh mộng mà trông thấy hết cả cái mất mát của mình”.
Triết gia Kim Định từ trần ngày 25 tháng 3 năm 1997 tại dòng Đồng Công hải ngoại, Carthage, Missouri, Hoa Kỳ, hưởng thọ 83 tuổi. Ngài để lại cho đời bộ triết Việt Nho và An Vi, gồm 42 cuốn để giúp cho dân tộc có Chủ Đạo để tránh cảnh vô hướng vô hồn và giúp cho dân tộc có một Minh Triết để sống an vui hạnh phúc giữa Trời và Đất.


Danh Sách Tác Phẩm của Kim Định

Cửu Khâu
(9 đồi nhỏ - Những vấn đề thiết yếu)

1 - 1. Nguyên Nho (Cửa Khổng)
2 - 2. Triết Lý Giáo Dục
3 - 3. Nhân Chủ
4 - 4. Hồn Nước Với Lễ Gia Tiên
5 - 5. Chữ Thời
6 - Vũ Trụ Nhân Linh
7 - 6. Lạc Thư Minh Triết
8 - 7. Định Hướng Văn Học
9 - 8. Loa Thành Đồ Thuyết
10- 9. Tâm Tư

278 trang
190 trang
306 trang
321 trang
700 trang
230 trang
149 trang
237 trang
187 trang
348 trang

Ra khơi
Ca Dao
Thanh Niên QG
Nam Cung USA
Thanh Bình
Khai Trí
Nguồn Sáng
Ra Khơi
Thanh Bình
Khai Trí

1965
1975
USA
1979
1967
1969
1971
1969
1973
1970

Bát Sách
(8 quẻ - nền tảng cho nhiều sách sau này)

11 - 1. Việt Lý Tố Nguyên
12 - 2. Dịch Kinh Linh Thể
13 - 3. Triết Lý Cái Đình
14 - 4. Vấn đề Nguồn Gốc Văn Hóa VN
15 - 5. Vấn Đề Quốc Học
16 - 6. Hiến Chương Giáo Dục
17 - 7. Cơ cấu Việt Nho
18 - 8. Tinh Hoa Ngũ Điển

430 trang
170 trang
188 trang
139 trang
157 trang
155 trang
285 trang
192 trang

An Tiêm
Ra Khơi
Nguồn Sáng
Nguồn Sáng
Nguồn Sáng
An Tiêm
Nguồn Sáng
Nguồn Sáng

1970
1970
1971
1973
1973
1970
1972
1973

Ngũ Luận
(Kinh điển – Minh Triết Việt)

19 - 1. Hùng Việt Sử Ca
20 - 2. Kinh Hùng Khải Triết
21 - 3. Pho Tượng Đẹp Nhất Của Việt Tộc
22 - 4. Sứ Điệp Trống Đồng
23 - 5. Văn Lang Vũ Bộ

272 trang
241 trang
226 trang
431 trang
251 trang

Thằng Mõ San Jose
Thanh Niên QG
HT Kelton
Thanh Niên QG USA
H.T Kelton USA

1984
USA
USA
1984
1982

Tam Phần
(Chơn dấu bảo vật dân tộc)

24 - 1. Đạo Trường Chung Cho Đông Á
25 - 2. Phong Thái An Vi
26 - 3. Trùng Phùng Đạo Nội

111 trang
230 trang
174 trang

An Việt Houston
An Việt Houston
Chưa xuất bản

1987
2000

Thái Bình
(Mở rộng khắp Thái Bình Dương)

27 - 1. Những Dị Biệt Triết Lý Đông Tây
28 - 2. Hoa Kỳ &Thế Chiến Lược TCầu
29 - 3. Cẩm Nang Triết Việt
30 - 4. Hưng Việt
31 - 5. Thái Bình Minh Triết
32 - 6. Gốc Rễ Triết Việt

33 - 7. Việt Triết Nhập Môn

222 trang
185 trang
80 trang
125 trang
225 trang
180 trang

174 trang

Ra Khơi
An Việt Úc Châu
An Việt Houston
An Việt Houston
Thời Điểm
An Việt Houston

An Việt Houston

1969
1986
1987
1987
1997
1988

1988

Chưa in

34. Tập Tranh Nước Việt
35. Nguyên lý Mẹ
36. Gia Tài Của Mẹ
37. Triết Lý Nghệ Thuật Việt
38. Quốc Phả Sử Trình
39. Triết Lý Thái Hòa
40. Cẩm Nang An Vi
41. Hội Nghị Triết Học Thế Giới

 

 

 

Các sách bị thất lạc

42. Duy Vật Và Duy Thực
43. Tự Chiêu Minh Đức
44. Tâm Đạo
45. Triết Lý Hòa Giải
46. Huyền Sử Nước Việt

1945
1957
1957
1975
1975







Phong Thái An Vi
Kim Định


   Mục Lục

I. Biết người

II. Cứu cánh con người

III.An Vi siêu tượng

IV.Đường lên cá tính

V.Sống như chơi

VI.Từ Lao Động tới An Vi

VII.Bản tóm triết lý An Vi

VIII.Tổng luận về An Vi

IX.Ngộ Không công trạng (phụ trương)




Tựa

Các quyển trước căn cứ trên những yếu tố Việt và Nho để lên sổ những nét căn bản trong quan niệm con người của triết lý An-Vi. Quyển này sẽ tóm lược tinh hoa các quyển trên để rồi tự đây đi đến vài nét cùng cực và bất ngờ về con người Việt, đó là hai đức tính "tự tác và du hí". Về tự tác trước đã có nói qua nhưng đến quyển này sẽ khai triển rộng rãi hơn. Còn du hí tính thì chưa. Đây cũng là một đức tính rất cao sâu trong đời sống Việt cần nhận thức ra. Cho đến nay người mình còn sống lơ mơ nhưng hầu đã mất ý thức.

Tuy nhiên người có mắt tinh đời cũng còn nhìn ra chút ít. Ông Paul Mus (8) bảo "dân Việt là một dân gồm toàn những tay chơi (un peuple de joueurs)" Chơi đây hẳn không là chơi bời ma là chơi theo Hồng Phạm của "Hóa Nho Đa Hí Lộng". Đó cũng là con đường mà nhân loại tất phải tiến đến: đó sẽ là giai đoạn thứ 5, giai đoạn của "con người chơi" (homo ludens) sau giai đoạn thứ 4 thuộc con người công nghệ hay "con người kinh tế" (homo economicus). Việt tộc đã phần nào bước vào giai đoạn 5 rồi, có người nghiên cứu lối sống các dân Đông Nam Á đã nhận xét rằng muốn hiểu được họ người quan sát cần phải có chút máu homo ludens (Indo 91)
Homo Ludens chơi như thế nào? Quyển này sẽ thử đưa ra vài lời giải đáp, một hai thử thách hiện thực của người xưa như lối vui chơi trong "mồng 3 ngày Tết" chẳng hạn. Đó là một hai nét chấm phá cố vẽ ra cảnh sống như chơi: một lối sống kết tinh của An Vi triết. Vậy nên kèm theo ít lời tổng quan về An Vi. Và cuối cùng đưa ra hình ảnh của một mẫu sống như chơi, cái lối chơi siêu việt đầy ý nghĩa: đó là hình ảnh chí sĩ Tôn Ngộ- Không.


I. BIẾT NGƯỜI "TRI NHÂN TẮC TRIẾT"

1. Muốn làm triết nhân phải biết tri nhân. Người xưa nói có biết người mới là triết, hoặc triết nhân là kẻ biết mình: "tri nhân tắc triết", "triết nhân tri kỷ". Đấy là những vấn đề cần thiết trong đạo làm người, vậy mà chưa được giải quyết. Ai cũng tưởng mình đã biết người, biết mình: sự vật còn biết phương chi con người gần mình, là chính mình sao lại không biết. Nhưng đó mới là cái biết thông thường, chưa phải là cái biết cùng tột, cái biết toàn diện.
Với cái biết thông thường, ai cũng biết người không phải là con vật, không phải cỏ cây. Đó mới là cái biết tiêu cực, tưởng là biết mà kỳ thực lại không. Cho nên khi muốn tìm câu định nghĩa con người ta sẽ gặp thấy lung tung: người thì cho đó là con vật có tôn giáo, con vật có chính trị, con vật thích hợp quần; người lại cho là con vật biết suy lý, con vật kinh tế. Có người định nghĩa là con vật có hai chân mà không có lông cánh, hôm sau một người đem con gà vặt hết lông vất ra trước cử tọa nói to: Đó là con người !

2. Trên đây tuy là những định nghĩa người theo triết, nhưng xét cho cùng chưa phải là triệt cùng, nên chưa thực là triết. Những định nghĩa đó còn bỏ sót lại phần lớn lao hơn hết của con người, lớn lao đến độ vượt tầng bao quát của nhĩ mục. Câu định nghĩa đúng hơn cả phải bao gồm chữ linh tức chiều kích vô biên. Ta quen nghe nói:" Nhân linh ư vạn vật" là câu nói hàm chứa chiều kích vô biên nọ. Vậy cần được phân tích con người xem có đúng như thế chăng. Trong triết Việt Nho chữ linh cũng giống như thần, cả hai đều "vô phương" tức không ở hẳn nơi nào, nên không đâu không ở, vì thế gọi là linh, linh nghiệm như thần. Nếu vậy nhân linh có thể ở khắp nơi, ở khắp trong vũ trụ chăng? Sách xưa cho là thế, vì vậy mới gọi người là Đại Ngã Tâm Linh, là tâm của vũ trụ, nghĩa là có tầm mức bao la như trời đất. Nghe qua thấy thực là vu khoát trái tai. Nhưng Việt Nho lại cho đó là có thực và phân ra tiểu ngã với Đại Ngã để đáp ứng sự trái ngược nọ.

Tiểu ngã là con vật biết suy lý, biết ăn uống
nói cười, với thân hình có thể cân đo nặng nhẹ. Chí như Đại Ngã thì to bằng vũ trụ nên gọi là "vũ trụ chi tâm", và được quảng diễn ra thành Tam Tài. Theo thuyết Tam Tài thì con người là một trong ba Tài là Trời, Đất, Người. Như vậy nói Người lớn lao cao cả, sánh được cùng Trời Đất.

4. Chính chữ Tài này mới định tính con người cách trung trực hơn hết, nó nói lên nét đặc điểm của con người khác với vạn vật, nên cao trọng hơn con vật. Đó là câu thoạt nghe tưởng như khôi hài: tự người gán cho người chứ không hợp sự thực. Trong thực tế ta thấy các con vật hơn ta về vô số điểm: Hãy chỉ nói về vẻ đẹp ta tất phải chào thua sự rực rỡ của biết bao chim muông, có những con mang bộ lông ngũ sắc bóng nháng huy hoàng. Vào xem những thủy động (aquarium) nhiều nơi ta thấy những giống cá quá đẹp nghĩ mà xấu hổ cho cái thân phận con người. Còn về lối biết mẫn tiệp gọi là linh tính ta cũng thấy chúng hơn xa: con tò vò đã biết tự đời tám tai nào cách tiêm cho con sâu tê mà không chết. Con người phải trải qua nhiều triệu năm bây giờ mới biết sơ sơ, học cả chục năm mà nhiều bác sĩ tiêm xong con bệnh cũng đi liền về với tổ. Xem vào xã hội con ong mới ngán nữa: các kiến trúc sư còn phải học lâu lắm mới tiến tới gần được lối xếp đặt nhà cửa, như ong biết xếp đặt tổ của chúng: chúng đặt những ong chỗ nào đập cánh ra sao để điều hòa không khí. Loài kiến biết trước bao giờ sẽ có lụt, chứ con người nghiên cứu mãi chưa biết lúc nào động đất. Chim chóc biết bay từ thuở nào, con người phải học hỏi nghiên cứu cả triệu năm mới biết bay tàm tạm. Cả đến cây cối cũng biết cách sâu xa, nhớ cả đến mặt những người làm hại nó...kể ra hết thì còn vô số cái các thú vật vượt con người cả về lượng, về phẩm, lẫn hiểu biết và mỹ thuật.

5. Hãy theo dõi con người từ lúc sinh ra mới ngán: ba tháng mới biết cười, sáu tháng mới biết lẫy, chín tháng mới biết bò, mười hai tháng tập đi, hai năm mới tập nói. Rồi phải học ôi là học, thi ôi là thi mãi tới trên hai mươi tuổi mới ra lò, năm năm dượt nghề mà còn non choẹt, vấp ngã cùng khắp. Đang khi bò, dê, ngựa mới đẻ ra là đứng dậy liền, vẫy tai rồi đi dạo quanh mẹ nó. So với chúng, con người quả là quá kém, chỉ hơn được có một điều là lên mặt ta đây linh hơn chúng mày. Nghe mà phát ngán.

6. Như vậy có nên gạt bỏ câu "Nhân linh ư vạn vật" đi chăng? Thưa không được, trái lại cần phải giữ lấy mà suy nghĩ, để tìm ra lý do tại sao tiền nhân lại nói như vậy. Thì ra chữ linh gắn liền với tự làm gọi là tài (tam tài) mà tài là tác, có nghĩa là tự làm. Quan sát theo uyên tâm thì thiên tính (gồm cả tiềm thức lẫn bản năng) nơi con người sút kém hẳn đi so với nơi các con vật, là Tạo Hóa có ý dành chỗ cho một loạt cơ năng mới nơi người là ý, tình, chí có chỗ tự làm việc. Đây là những cơ năng bé nhỏ, chậm lụt, và đó cũng là những đặc tính của tác hành nơi con người. Con người phải làm bằng cách lần mò, vấp ngã, bằng tích lũy kinh nghiệm đau thương được tom góp từ biết bao đời thăm dò mới làm được một tí cái gì , vậy mà vẫn còn đầy khiếm khuyết, như máy bay, hay thuốc tiêm chẳng hạn, con muỗi chẳng học cũng bay được, con tò vò chẳng nghiên cứu gì mà đã biết tiêm còn hay hơn người. Con người phải trải qua cả từng triệu năm tìm kiếm mới biết chút ít. Thế mà đã vội quan trọng hóa: mở trường đại học, mời những giáo sư danh tiếng (danh tiếng nhưng cũng còn kém ruồi muỗi chán) rồi cắm đầu học hết bảy, tám năm mới tốt nghiệp: ngày lãnh bằng được đội mão cao, áo lớn, quan khách rợp trời, truyền hình thu rồi chiếu cho khắp nước coi, thế mà kết cục thật sự ra sao? Còn thua lũ tò vò chán vạn, chả biết bao giờ mới sánh vai được với loài ong loài kiến. Vậy mà rồi vẫn cứ lên mặt, lên mặt với nhau, với cả loài vật nữa. Ta hỏi tại sao Tạo Hóa lại không ban cho con người số lượng thiên năng ngang bằng với những con vật có phải con người đã đạt hạnh phúc, xã hội loài người cũng bớt bê bối hơn bây giờ rất nhiều rồi chăng? Sao lại bày vẽ như vậy, đóng cửa thiên năng rồi thay vào bằng lý trí, tình cảm, ý chí là những cơ năng kém xa thiên năng về đàng hiệu nghiệm. Để làm chi vậy? Thưa là để con người có khả năng đóng góp, có khả năng trở thành một tác năng. Mặc dầu xét công hiệu tác năng thì chẳng ra cái quái gì, nhưng xét về có làm thì quả người nhất định hơn loài vật.

7. Con người có thể nói với các vật mà đại biểu là ruồi, muỗi, ong, kiến, tò vò rằng: Xét về đàng siêu kỹ thuật (hitech) thì chúng tao còn thua chúng mày xa lắm, cả đến cách tổ chức xã hội chúng tao cũng bê bối, thối nát, luộm thuộm hơn nhiều. Nhưng cái hơn của chúng mày là do thiên năng, do trời ban ra, chúng tao không được nhiều thiên năng bằng chúng mày, nhưng chúng tao lại có khả năng tự tạo tự tác, tuy đầy bất toàn nhưng lại có chỗ hơn xa. Bay lượn thì chúng tao thua, nhưng bay xa chung quanh trái đất, lên tận cung trăng thì chúng tao hơn chúng mày. Khả năng tạo tác đó hàm tàng vô số khả năng khác mà chúng tao đang cố khai thác để tiến, còn chúng mày thì đời đời giậm chân tại chỗ, đang lúc chúng tao tiến mãi mãi. Hơn thế nữa, chúng tao có cả dự tính tiến tới nguồn mạch mọi khả năng, mà chúng tao kêu là "đấng Tạo Hóa muôn loài".
Chúng tao tính đi tới chỗ đó, nói vắn tắt cho chúng bay dễ nhớ là chúng tao tính đạt tới bậc " Tề Thiên Đại Thánh". Đấy! Chớ chúng tao linh hơn chúng mày ở chỗ đó. Vậy đừng thấy chúng tao thua về kỹ thuật, bê bối, thối nát về xã hội mà khinh chúng tao. Cái cao cả của chúng tao nằm trong chữ tác: đã tự tác, tạo tác thì khởi đầu tất phải tầm thường, nếu không tầm thường, nếu không bê bối thì làm sao chúng tao có chỗ bắt đầu, vì khởi đầu chúng tao chỉ làm được việc ít lắm. Nhưng ít mấy đi nữa cũng là tự tác, cũng là tự chúng tao sáng tạo ra.

8. Đấy chính cái loại tác này mới nói lên được chỗ linh của con người, chỗ con người hơn con vật. Nghĩa là con người thua xa thú vật nhiều điểm thực, nhưng người hơn hẳn thú vật ở một chỗ mà không con vật nào có được, đó là tự mình làm lấy hết cho mình; tự làm ra thuốc tiêm, tự làm ra nhà, ra hát, tự học ăn, học mặc, học nói... Không có chi người không tự làm ra. Đấy là chỗ hơn của con người: nhờ đó con người bắt chước được trời, bắt chước trong sự tạo tác. Với con vật trái lại cái gì cũng ban ra cho cả: đã làm sẵn rồi "made in Heaven", cứ vậy mà theo, không cần phải tìm hiểu, phải tập luyện chi hết.
Ngược hẳn lại con người phải luận, phải bàn để xem phải làm thế nọ hay thế kia, không một cái gì không qua đầu óc suy tư, tay chân làm việc của mình, kể cả những cái con người không thể tránh được và có chung với con vật như sinh sống, ẩm thực làm sao tránh, nhưng con người cũng cố đóng con dấu của mình vào bằng cách không để y nguyên: sinh ra thì có lễ mừng "happy birthday", chết có lễ đủ thứ với tang chế trống kèn cờ quạt đi theo. Ăn cũng vậy: không bắt sống ăn tươi mà trái lại nào băm, nào thái, nào nướng, nào sào để làm ra đủ hình thức: giò, chả, nem trăm thứ. Ấy mới ở đợt ẩm thực mà đã khác đến vậy, phương chi lên cao hơn như giao tiếp, yêu thương, làm tình. Con vật chỉ việc làm liền. Còn đây thì bày đặt biết bao truyện từ lúc đọc vè" veẻ vè ve bắt vè con nhện", rồi xem khoang khoáy đối phương thấy ưng mắt mới đi đến lễ chạm ngõ, rồi lễ hỏi, sau cùng lễ cưới. Mà lễ cưới mới buồn cười, thông báo om sòm, mời mọc bà con quen thuộc đến ăn uống tưng bừng, ca xướng ỏm tỏi, nhưng đến cái việc chính hai cô cậu lại chui vào phòng riêng, đóng kín cửa: " cấm ngoại thủy không ai được biết " ! Kỳ quá không được biết sao thông báo, sao mời mọc rằng đến mà xem, thế nhưng lại không cho xem, khách khứa cũng hiểu thế nên không hạch hỏi chi cả mà chỉ lủi thủi ra về: vì ai nấy đều biết luật lệ rồi không thắc mắc chi cả! Thực là đầy mâu thuẫn. Vậy mà tất cả những mâu thuẫn đó, những rềnh rang "vô ích" đó lại làm nên cái gọi là đạo làm người. Không theo đời sẽ bị tiếng là không biết ăn ở, nói trừu tượng là kém văn hóa. Văn hóa chính là những cái rườm rà, vô ích mà con người dùng để trang điểm cho những cái không thể thoát, cũng như không thể làm ra, nhưng lại cố góp phần của mình vào: gọi là "văn sức" để làm ra của mình. Đó chính là điều nói lên đức tự tác là đức tính con người nên không đâu không xuất hiện: cái gì cũng tự làm ra cả.

9. Trên đây mới là mấy thí dụ thông thường, chứ đức tự tác tự lực của con người còn đi xa hơn nữa, đi đến cái phi thường lớn lao như vũ trụ, thế mà con người cũng phải "làm ra" cả, làm sao cho con người trở nên cao cả như trời, tề thiên đại thánh để xứng đáng đúng là một tài trong tam tài là thiên, địa, nhân. Đó là điều được Việt Lý quảng diễn bằng những huyền thoại nói về những ông khổng lồ của Việt tộc mà khả năng có thể chống trời. Đại biểu của các ông chỗng trời là ông Bàn Cổ. Truyện kể rằng ông phân ra trời đất, làm ra núi non, dựng nên con người... Đây không là một sáng thế ký (cosmology) mà là một sắp thế ký nghĩa là sự sắp xếp vũ trụ (cosmotopology) : vũ trụ tạo dựng chưa rồi, mới ban ra cho có những "vật liệu" ngổn ngang, con người cần phải xếp đặt lại theo một thứ lớp nào đó mà nó tự nghĩ ra. Đó gọi là đóng con dấu của mình vào bằng cách tô tạo, không để sót một việc nào dù nhỏ như ăn uống hay lớn lao như vũ trụ mà không nhúng tay vào đến độ có thể nói:
Ta cùng Trời Đất ba ngôi sánh
Trời Đất Ta đây đủ hóa công.
Hóa công theo nghĩa làm ra cái gì mới mẻ trước đó không có, con người cũng tạo dựng ra những cái mới mẻ như vậy, như thiết lập ra các giá trị luân lý, nghệ thuật, khoa học, kỹ thuật... là những cái riêng của con người, là hậu quả của việc con người tham dự vào những cái cần thiết, nếu không làm ra có thì cũng làm phải làm phần nào để đóng con dấu của mình lên trên.

10. Đã vậy lại còn khả năng vô biên là cảm thông tham dự cùng Trời Đất: gọi tắt là tham thông: mới nghe như phạm thượng, cùng lắm thì là lời vu khoát mà người ta vẫn châm chước cho nhà văn, chứ không có nội dung nào cả. Kỳ thực nếu biết đường tu luyện rồi sẽ nghiệm thấy điều đó và lúc ấy mới hiểu rằng câu nói "nhân linh ư vạn vật" là hậu quả của bao đời tiền nhân nào đó trước đã tu luyện, đã đạt đích mới nói lên để được truyền lại như chút kinh nghiệm của người đi trước giối lại cho người đi sau: vậy nếu muốn đạt thì không được bắt chước con vật chờ trời ban sẵn ra cho. Với con vật thì " trời sinh voi trời sinh cỏ", với con người thì câu đó không đúng vì con người không phải là voi, cũng không ăn cỏ, cùng lắm chỉ đúng phần nào ở thời hồng hoang săn hái, lúc con người chưa hẳn vượt trạng thái con vật; nhưng rồi dần dần con người tiến lên xa khỏi con vật thì phải "làm người" tức cũng là lúc phải tiến lên trong việc làm: từ đá đẽo, đá mài, tiến lên đồ đồng, đồ sắt, rồi kỹ nghệ, công nghệ, hậu kỹ nghệ v.v... từng bước tiến một đều do con người làm ra cả.
11. Trong việc tâm linh cũng phải tuân theo luật tự lực tự cường: phải trở nên một tác nhân: Nho kêu là Tài và phải tài đến độ cao như trời: Tam Tài là Trời Đất Người ngang nhau. Khi hiện thực xong thì ba tài sẽ thấy nhau (tam gia tương kiến) tức con người thấy cả trời cả đất nơi mình: cả ba làm nên một thân thể, theo cùng một luật tắc, một nhịp điệu. Chân lý này đã được biểu thị cách huy hoàng trên mặt trống đồng nơi cả vũ trụ tham dự vào cùng một bài ca vũ:
Trời đại biểu bằng mặt trời
Đất đại biểu bằng nước,
cùng muôn muôn vật tự chim trên trời, muông thú trên đất, cho đến rồng dưới biển, tất cả đều tham dự vào cuộc vũ với người. Trong người vũ thì cử động múa tay được đặt nổi y như trong múa chèo của ta hay Mường, múa tay đều được chú ý. Ta có thể cho là điều đó đã được công thức hóa trong chữ tài (tam tài) mà người xưa viết bằng "tài gẩy"
tức là chữ thủ là tay đang trong tư thế tác động, nên gọi là tài gẩy. Vì thế khi nói đến Tam Tài thì không nên hiểu về bản thể, mà nên theo đồng văn của triết lý an vi mà hiểu tam tài như nhau về mặt tự làm. Nói Trời Đất Người là tam tài tức là nói đến chỗ Trời Đất Người cùng tham dự trong tác động làm nên thiên địa vạn vật nhất thể là vậy. Đây là chân lý mênh mông sâu thẳm mà nếu tu luyện đúng cách tất đến một lúc nào đó sẽ nhận thức ra được, và gọi là ngộ đạo.
11. Tuy nhiên ngay khi chưa ngộ ta đã thấy có những cái gì báo hiệu chiều kích bao la đó. Cơ năng biểu lộ điều này hơn hết là óc tưởng tượng, nó có khả năng bao quát vô biên, nói đến cái gì xa xôi ở chân trời góc biển hay trên những chùm sao xa cả hàng tỉ năm ánh sáng mặc, óc tưởng tượng đưa ta đến đó liền. Đừng bảo đó là không tưởng, vì nó có gây ảnh hưởng vào tâm hồn ta, như vậy là nó có: "it pays", nó có thực theo sự thực của con người gồm cả thân lẫn tâm. Không được bảo là không có, thí dụ ta ở Mỹ đây nhưng những gì xảy ra bên Việt Nam cũng là ta đau đớn xót xa. Có những người tế vi hơn cảm thấy nhiều điều kỳ lạ như trong vụ thần giao cách cảm. Ông Tăng Sâm ở nước xa, mẹ muốn gọi về chỉ bấm vào tay cho đau là ông nghe xốn xang trong mình rồi trở về. Năm 1880 một người Mỹ tên là Sampson trong lúc say rượu xem thấy có động đất đang xảy ra bên Indonesia chết gần 40 ngàn người, sau đó kiểm kê lại thấy đúng. Có nhiều khi một sự vui hay buồn chưa đến mà hai ba ngày trước ta đã cảm thấy hoặc rạo rực hoặc bần thần có khi còn biểu hiện ra ngoài thân xác như thịt rung lên ở một phần nào, có khi là ngón tay máy động.

13. Nhất là nơi trẻ nhỏ lý trí chưa phát triển nhiều, tiềm thức còn hoạt động mạnh, chúng có thể "thấy" những điều tế vi mà người lớn không thấy. Người ta thường gọi sự nhạy cảm đó là cơ quan thứ sáu. Những cái đó báo hiệu chiều kích bao la của con người cũng như những khả thể vô biên còn tiềm ẩn nơi mình mà con người có sứ mạng phải phát triển. Đến một độ tiến hóa nào đó sẽ không phải là một người mà rất nhiều người có thể "xem thấy nghe thấy" những sự việc xảy ra ở vạn dặm. Hiện nay con người chưa đạt nhưng vẫn đang trên đường tiến tới tầm kích bao la nọ. Đấy là lý do tại sao trong những mẫu mực tối sơ về con người như Phục Hi, Nữ Oa, Lạc Long, Âu Cơ... ta thấy những dạng thức, những tác động lớn lao có tầm kích vũ trụ như đội đá vá trời, đẻ một trật trăm con... Đó là những nét chấm phá vẽ ra con người Đại Ngã Tâm Linh có chiều kích ngang cùng vũ trụ: không đâu không ở: như thần linh vậy. Do đấy trong Việt Nho có câu châm ngôn:
Thiên địa vạn vật nhất thể
Người cũng như vạn vật cũng như thiên địa chỉ là một thân thể. Câu trên nói lên một chân lý có tính cách định đề nên đã được diễn tả bằng nhiều cách cho dễ thấu nhập vào tận tâm can, trong đó phải kể đến thuyết Tam Tài.

14. Tam Tài đặt con người cùng hàng với trời đất, khiến con người làm quen dần với ý nghĩ lớn lao về mình. Phải có ý nghĩ ấy mới dẫn dắt con người vào đúng vị trí của nó, mới hiện thực được đặc tính của mình là tác, tự tác. Không thể tìm đâu được quan niệm ám hợp hơn với đặc tính tự tác, cũng như không có quan niệm nào giúp duy trì được phạm vi tác động của con người cả trong trách nhiệm cũng như phương tiện. Vì thế ta hiểu tại sao quan niệm dựa trên Tam Tài bị bác bỏ kịch liệt bởi những thuyết phò độc tài chuyên chế. Những thuyết này ưa những định nghĩa hèn kém về con người để con người quen đi với ý niệm tự ty mới dễ bề suy phục. Vì vậy ở những chế độ chuyên chế quan niệm Tam Tài không thể nảy sinh hoặc phát triển. Cho nên nơi nào duy trì được quan niệm ấy là dấu không có chế độ nô lệ và sự chuyên chế trở nên rất khó thiết định. Đấy là mới nói về hàng ngang xã hội. Còn về hàng dọc tâm linh quan niệm trên cũng tài bồi óc tự động, tự làm, tự trách nhiệm đến trình độ độc lập, không để cho con người rơi vào thuyết định mệnh, tất mệnh, mà vẫn giữ được nhân-chủ-tính của mình.

15. Đọc triết Hy Lạp ta sẽ thấy rõ điều đó. Theo vũ trụ quan cổ đại Hy Lạp thì tầng trên cùng là Thần Zeus, dưới giăng ra chín đẳng các Thần Minh, các Thiên Thần, rồi cuối cùng mới tới người, nằm giẹp lép trong một không gian bị bóp bẹp. Đã vậy liền kề ngay dưới còn một cái âm phủ tartarus lúc nào cũng như mở hoắc miệng ra để sẵn sàng nuốt trửng con người khi nó không chịu vâng phục mệnh lệnh của Zeus. Tính ra con người chưa chiếm được một phần mười không gian. Quả là con người bé mọn, con người vong thân nằm sấp dưới sức nặng của định mệnh. Thảo nào thuyết định mệnh đã đè nặng trên tâm lý người Âu châu lâu đời trước bằng chế độ nô lệ, rồi nông nô, sau cùng là vô sản chuyên chế, nơi đây thuyết đó được lôi lên mặt đất bằng những trại cải tạo, trại tập trung, những nhà tù rùng rợn. Những cái đó tuy có mới mẻ về tính cách thái thậm, nhưng ý tưởng chủ chốt đã có từ lâu, đó chỉ là sự tái bản những cái đã có từ xưa. Đó là những ác quả tột cùng của quan niệm bé nhỏ về con người, con người hèn hạ như sâu bọ, sinh ra để bò sát đất, không biết chi đến chiều kích đại ngã tâm linh nơi mình, nên phải sống như con vật nhưng khốn khổ hơn con vật, vì con người có phải là con vật đâu, còn một chiều kích bao la nữa, không kể đến sẽ khốn khổ ngay vào bản thân.

16. Xem thế mới rõ sự hiểu biết về con người quan trọng xiết bao, nó là bó đuốc dẫn đàng tiến, tùy quan niệm về người cách to lớn hay bé nhỏ mà con người đạt hạnh phúc cao hay thấp. Xét theo đó quan niệm con người to lớn như vũ trụ, sánh ngang cùng trời đất đã giúp nó thiết lập được cả dân chủ lẫn nhân chủ: dân chủ tránh được chế độ chuyên chế và nô lệ; nhân chủ tránh được biết bao dị đoan cũng như thuyết định mệnh. Cho nên trong việc quan niệm về con người thà đi quá còn hơn sút lụt. Quan niệm thấp kém về người kéo con người ở lì lại tầng thấp bé: kẻ có ý nghĩ quá nhu nhược tầm thường về mình sẽ cột chặt mình vào chỗ tầm thường. Vì vậy muốn con người được hạnh phúc bó buộc phải nhận quan niệm cao cả về con người: chính nó đã giúp con người rất nhiều nên phải dùng nó như bó đuốc dẫn đường trong việc thiết lập lối sống ở đời.

17. Nói khác ta có thể dùng nó như tiêu chuẩn hiệu nghiệm để quyết định thái độ. Chẳng hạn sự khác biệt giữa Nho và Lão: Lão Trang cho là trời đất không có ý chi hết, không phải làm ra cây hoa cho người thưởng thức, làm ra súc vật cho người ăn nhậu, làm gió thổi cho mát mặt ta, trời đất không có ý nào hết đến đo cùng cực là trời đất bất nhân theo nghĩa không phải trời có ý che đất có ý chở. Đừng đem hình người, lối nhìn của người mà gán cho trời đất, cho là "thiên hựu": cho trời đất là "tổ phụ" như kiểu nho, đem chữ nhân gán cả cho trời đất là sai: thiên địa bất nhân, người cũng nên xử như vũ trụ khách quan, đừng đem nhân nghĩa vào lối sống, cần phải khách quan, cần dẹp hết tình cảm, phải để cho tình cảm trở thành tro nguội, đừng cố làm gì để thêm thắt vào thiên nhiên, đừng bày đặt lễ nghi phép tắc hay nghệ thuật khoa học: "tuyệt học vô ưu", đừng bày ra máy móc, đừng chuyên theo nghệ thuật: ngũ sắc làm mù mắt, ngũ âm làm điếc tai... Hãy sống "vô vi", đừng xen vào thiên nhiên, hãy theo phác-tố. Hãy sống như trẻ con đừng đặt ra lễ nhạc nhân nghĩa mà làm hỏng đại đạo...Đó cũng là những chủ trương thường thấy trong lịch sử triết học tức đâu đâu cũng có đủ người theo Lão Trang. Nếu ta muốn phân xử bên nào phải bên nào trái, ai nắm được chân lý có lẽ chẳng bao giờ giải quyết xong.

18. May thay không cần tiêu chuẩn chân lý trừu tượng, nhưng có thể dùng ngay tiêu chuẩn hiệu nghiệm để hỏi rằng: quan niệm nào giúp cho con người tiến mạnh hơn, ta sẽ thấy thuyết tác hành hiệu nghiệm hơn nhiều. Bên Lão Trang với thuyết thiên địa bất nhân đã được dùng làm nền tảng cho pháp gia tức những nhà chuyên chế nhằm róc bỏ tình cha con, cha ăn trộm dê con phải tố cáo chứ không được bao che như Nho. Trong việc công không có chỗ cho yêu thương. Nhắc lại vài điểm này để ta thấy không gì mới dưới mặt trời. Các điều mà cộng sản nói là cách mạng thì đã có lâu lắm rồi, và loài người đã cố công trừ bỏ chưa xong. Nó xuất hiện nhiều khi rất tế vi giữa bao lời ca tụng tự do, tự động như trong Lão Trang, thế mà rồi lại mở đường cho chuyên chế. Ấy chỉ vì vấn đề cơ cấu không đạt.

19. Chỉ cần xét về hiệu nghiệm: chính Nho mới được hiện thực, tức không một đời nào không có người học, người làm nghệ thuật, người củng cố gia đình, người chuyên về nhân nghĩa, bởi chính sự làm những điều đó mới đi đúng định nghĩa con người như một tài một tác: không cái gì không tham dư để đóng dấu bản quyền vào. Lão Trang gọi là "nhân vi" "artificiel". Nhưng nhân vi mới là bản tính con người, chứ không phải tùy phụ để mà muốn chối là chối, trái lại xem vào lối sống con người mọi nơi mọi đời ta đều thấy không việc nào con người để y nguyên, để phác-tố nhưng đã "nhân vi" tất cả, y như đồ ăn đã tra, nấu, mắm, muối... chứ không bắt sống ăn tươi như con vật, vì bản tính vật không là tác mà là sống theo bản năng, theo phác-tố: con người không chỉ là con vật, nên không chỉ theo bản năng, theo phác-tố, y nguyên, mà phải làm ra của con người, ít ra phải "văn sức". Nhân vi, văn sức đó là bản tính con người. Tất cả văn hóa văn minh đều do nhân vi mà thành. Đó là đường con người phải theo, chỉ khi nào đi quá đáng đến độ làm át thiên nhiên như kiểu thanh giáo đè nén thiên năng thì lúc ấy mới có đủ lý để đả đảo nhân, nghĩa, lễ, nhạc. Thực ra đó là đả những cái quá trớn làm át mất sự tự nhiên đột phát. Còn nếu không đi quá đáng thì cứ phải "làm ra", phải "nhân vi", miễn không trái với bản năng. Đó mới thực là con đường lưỡng hành : có trời mà cũng có ta. Nếu bỏ phần ta đi thì hết là lưỡng hành: chỉ có thiên chứ con người bị vong thân mất rồi. Vì vậy tục lệ vốn là tốt, chỉ nên phá bỏ những cái ngãng trở như hủ tục. Nhưng bao lâu tục lệ không ngãng trở thiên nhiên lại còn giúp vào việc tham dự với thiên nhiên thì phải gọi là thuần phong mỹ tục.

20. Quan niệm nói được là của lương tri tức là của thiên nhiên, vì có tính cách phổ quát nên không đâu không gặp, không đâu không theo. Mặc dù thuyết thanh giáo cũng có khắp nơi nhưng những thuyết đó đã dần dần phải nhường bước như thấy rõ xuyên qua lịch sử. Vì thế mà quan niệm "An-Vi" càng ngày càng đi lên, càng được thừa nhận giữa sự lùi bước của các thứ thanh giáo. Vì càng ngày con người càng nhận thức ra sự cần thiết phải có ăn uống, có truyền sinh, có yêu thương, có bè bạn... cũng như càng ngày càng tiến bộ trên đà dân chủ: dân chủ hóa quyền cai trị, dân chủ hóa cả tôn giáo, tương đối hóa cả luân thường... Ngày nay lương tâm con người không thể chấp nhận những ý nghĩ về vua thần nữa, không có thiên mệnh (theo nghĩa ngoại), không có rồng theo vua. Đó chỉ là những bịa đặt, những giả tạo giúp kẻ chuyên chế tước quyền làm người của con người. Nhưng nay con người đã bắt đầu tởm gớm tất cả những cái ngáng đường tiến của mình. Ngày nay nạn chuyên chế xuất hiện lại được chẳng qua là nhờ bịp bợm, dùng những danh hiệu mới, những lề lối đàn áp kiểu mới. Nhưng rồi con người cũng sẽ nhận ra và sự nhận diện càng ngày càng trở nên sâu sắc, càng đẩy đà tiến của dân chủ. Dân chủ hóa trong chính trị chính là sự vươn lên của con người trên những đống đổ vỡ của vương quyền, thần quyền để con người lấy lại quyền tự làm, tự trách nhiệm lấy mình.
21. Đấy là lý do tại sao lịch sử các nước nằm trong bầu khí Việt Nho lại mở đầu bằng nhân thoại, tức là những truyện huyền thoại mà vai chính là người. Con người làm chủ, như những ông khổng lồ Việt, những cháu bà Nữ Oa đội đá vá trời. Rồi sau xuyên qua lịch sử luôn luôn đề cao công tác hơn hẳn dòng tộc, coi việc làm là điểm phân biệt tôn ti trên dưới chứ không căn cứ trên dòng máu tức là đã dùng cả huyền sử lẫn sử ký để quảng diễn quan niệm tác hành về con người cao cả. Cao cả là nhờ nó tự cường tự lực khộng những là ngang với vua chúa mà luôn cả hàng dọc với trời cùng đất. Do đấy ta rút ra mấy kết luận cụ thể sau:

22. Trước hết đây là một quan niệm hết sức thực tiễn giúp con người đóng góp liền được vào mọi mặt bằng tác động cùng cực. Thứ nhất là tác động phải hiểu theo nghĩa mạnh nhất tức tác động là bản tính con người chứ không là tùy phụ có cũng được mà không cũng chẳng sao. Vì quan niệm nọ mà có đầy rẫy việc phải làm. Nhìn xuyên qua trình sử con người trên đường tiến hóa ta sẽ thấy số ngu dốt quá ư nhiều, triệu người chưa biết có được một người thông minh, mà có thông minh đến đâu cũng còn vô số nhầm lẫn. Điều đó tạo cho con người có thêm đầy khó khăn. Sự việc nào cũng vậy tự nó khó một, con người làm cho ra khó mười. Nếu ta xem toàn diện sẽ nhận ra sự thể cần xảy ra như thế là để không ai phải thiếu việc: việc làm người do chính mình, việc nghề nghiệp, việc nghĩa, việc thiện không bao giờ thiếu hết. Đúng hơn chẳng bao giờ làm hết. Vậy trước những tai họa, trước những sự vụng về của chính phủ, của tha nhân, cố tránh phàn nàn, còn nên cám ơn trời đa tạo "job" cho mình, cho mọi người.

23. Thứ đến tác động phải đẩy đến cùng cực vì nó phải theo với bản tính con người vốn kéo theo chiều kích vô biên. Vì vậy muốn việc mang tính cách con người thì phải có tính cách cùng cực. Tác động mà muốn cùng cực thì phải đạt độ sáng tạo. Có sáng tạo mới bao gồm sự hiểu biết cùng cực, mới huy động hết mọi cơ năng và nghị lực toàn thể con người mà không chỉ có chân tay hay lý trí. Toàn thân tâm phải tham dự mới là sự hiểu biết cùng cực, mà có hiểu biết cùng cực mới dẫn đến được sự sáng tạo. Nói cho cùng thì không việc nào không cần sáng tạo, ít ra sáng tạo thế cách nào để nó hợp với mỗi hoàn cảnh chỉ có một thời điểm và không điểm riêng không bao giờ lắp lại y nguyên như trước mọi đàng, nên muốn việc hoàn bị cần phải có óc sáng tạo, việc quen mấy tốt mấy cũng còn phải có óc "sáng tạo" xem có đúng lúc đúng nơi chăng.

24. Thứ ba là sự hiểu biết cần phải đi đến cái biết cùng cực gọi là "cách vật" tức là cái biết tự mình tạo dựng lấy: cái biết khởi đầu là tin chỉ cần cho lúc đầu: nếu không tin cha mẹ, tin thầy dậy thì không có được những dữ kiện thiết yếu giúp vào việc sống trong xã hội, như ngôn ngữ, thể chế, sử ký... Nhưng đó mới là cái biết vòng ngoài của tiểu ngã. Cái biết vòng trong lớn lao và tận cùng thì phải do mình tự làm ra, làm mãi cho tới lúc đi đến cách vật không nhờ ai nữa. Phải huy động toàn triệt khả năng trong con người: mỗi bước ở đây sẽ đào thải rất nhiều những cái biết xưa kia. Chính cái biết tự làm ra này làm nên con người hơn hết. Nói cụ thể là phải để tâm đến triết. Vì triết là triệt tức là cái biết đẩy đến triệt cùng, có triệt cùng mới là cái biết xứng con người vô biên, cũng như đối tượng của sự biết triệt cùng là con người. Biết về con người là cái biết cao cả hơn hết. Biết về con người mới thấu cả vòng trong. Biết về sự vật chỉ xoay quanh vòng ngoài.

25. Thứ bốn biết về con người được dẩy đến cùng cực thì dấu hiệu bên ngoài sẽ là yêu kính.
Yêu là bước đầu trong sự thống nhất. Nếu đã biết người cùng với vạn vật làm nên nhất thể, thì phải yêu hết mọi người, vì người nào vật nào cũng cùng là một thân thể với mình. Nếu đã cùng một thân thể tự nhiên phải yêu thương, vì yêu người cũng chính là yêu mình. Chưa nhận thức được điều đó thì cái biết chưa tới cùng, cho nên chưa yêu thương được là tại cái biết chưa đạt cao độ: càng biết thì càng yêu, biết nhiều yêu nhiều, biết ít yêu ít. Các nhà chuyên chế không thực sự yêu người vì cái biết của họ thường dựa trên thuyết vật bản (vật hóa con người) tức coi con người ngang sự vật, như vậy là rất xa chỗ thấy con người bao la như vũ trụ.

26. Cũng chính vì tính cách bao la đó mà có sự kính nể, bởi cái bao la, cái vô biên rất đáng kính nể. Vì thế phải kính nể đến cùng cực. Kính nể muốn cho cùng cực phải biểu lộ bằng chữ lễ, vì lễ bao hàm cái gì linh thiêng. Người ta thường dâng lễ cho thần minh, vì thần minh cao cả, quyền phép vô biên. Khi triết nhận ra trong con người cũng có chiều kích cao siêu như vậy thì liền mở rộng chữ lễ ra bao lấy cả con người, áp dụng chữ lễ cho con người như lễ Gia Tiên, lễ Gia Quan... Sự dùng cùng một chữ lễ như cho thần linh là cốt để đáp ứng nhu yếu thâm sâu nhất của con người là khát mong được kính trọng. Sự khát mong này nảy sinh từ chiều kích vô biên trong con người . Vì con người có vô biên tính nên cũng đáng kính như thần, đáng tôn trọng vô cùng. Đó là đáp ứng một nhu yếu rất thâm sâu của con người, con người nào cũng cảm thấy khát khao được kính tôn, chính vì nó cảm thấy chất thần linh nơi mình. Vì thế bị khinh dể là điều khổ sở hơn hết cho con người, còn khổ hơn thiếu cơm thiếu gạo, nhiều khi thà bị chết đói còn hơn bị khinh khi. Tóm lại khi biết bản tính con người là tác hành và tác hành đến cùng cực thì tất nhiên phải yêu mến kính nể con người đến cùng cực. Dấu hiệu biểu lộ sự biết cùng cực là yêu thương kính nể, muốn sự lành cho người khác. Phạm vi của sự hiểu biết mở rộng bao nhiêu thì yêu thương kính nể bấy nhiêu: Yêu kính đến độ vượt được mọi ngăn cách màu da, tôn giáo, dân tộc... Có yêu kính thực sự mới là biết thực sự. Trong các nước dân chủ ngày nay con người đã hiện thực được nhiều yêu thương kính nể tha nhân hơn xưa ấy là dấu đã tiến bộ nhiều trên đường hiểu biết vậy.

 

KẾT:

27. Ta thấy cho tới nay, phần lớn triết thuyết đã phạm vào bản tánh con người khi đem ra định nghĩa con người hoặc :

* Không bao gồm được Đại Ngã nên coi tha nhân như tha vật: chosisme

* Không đạt được bản tính con người là tác năng (agent). Quan niệm bất động không đặt nền được cho triết lý lao tác. Mãi tới thời mới đây mới nổ lên các thuyết lý lao tác thì hầu hết nếu không bệnh hoạn cũng là luận lý kiểu leo giây lượn lẹo vì không thoát ra khỏi những định đề cũ trái với lao tác.

* Không quan trọng hóa việc "vi nhân mậu kỷ" không biết việc lớn lao nhất của con người là phải làm người, làm ra người. Vì chẳng có gì ban không ra hết kể cả con người, cho nên con người phải tự tay làm ra người như gương Bàn Cổ.

phúc vậy Tóm lại bản tính con người tác hành là làm, tự làm. Vậy điều quan trọng hơn cả là tạo dựng cho mình một quan niệm cao cả về mình. Con người có cao cả hay thấp hèn cũng tùy thuộc vào quan niệm về con người. Quan niệm thấp thì con người sẽ thấp, rồi sẽ bị khốn đốn xứng với phận hèn đã tự tạo cho mình. Cho nên quan niệm đúng đắn về người chính là bí thuật dẫn đến hạnh.

II. CỨU CÁNH CUỘC ĐỜI

ĐỊNH NGHĨA CỨU CÁNH:

1. Cứu cánh là cùng đích rốt cáo của cuộc đời. Bàn về cứu cánh là luận bàn xem đời sống có mục tiêu chăng, đó cũng là tìm xem đời sống có ý nghĩa chi chăng. Chính lời đáp cho câu hỏi trên, cách mặc nhiên hay minh nhiên đem cho cuộc sống định hướng và ý nghĩa. Thưa không cuộc sống sẽ thiếu ý nghĩa, thiếu hướng đi. Thưa sai cuộc sống sẽ hướng vào chỗ hư hỏng hoặc uổng phí một kiếp người. Còn thưa đúng nó sẽ qui tụ mọi hành vi cử chỉ vào một hướng, đem lại cho đời sống một ý nghĩa, một sự hăng say, một sứ mạng.
Định nghĩa như vậy cho thấy liền vấn đề cứu cánh quan trọng biết bậc nào. Trong khi quan sát các lối sống ta có thể kể ra ba loại lớn.

2. Loại trước hết là không đặt vấn đề: chỉ biết sống là sống vậy thôi. Sống cái sống sinh lý trước mắt, không cần tra hỏi xa hay rộng, chỉ bằng lòng với ánh sáng lương tri le lói chập chờn trước ngọn gió của các ý kiến trái ngược.

Loại hai thuộc tôn giáo thường đặt cứu cánh vào đời sau, trong thế giới bên kia, nên không thỏa mãn đầu óc những người muốn kiểm soát được giải pháp ngay ở đời này. Ấy là chưa kể tới sự vụ là cứu cánh đặt ở đời sau nhiều khi làm ngãng trở sự phát triển cuộc sống hiện tại như thấy rõ trong nhiều xã hội xưa như Ấn Độ, bao nhiêu tài sản công khố đổ giồn vào việc xây đắp những điện đài nguy nga đang khi cuộc sống dân nước nghèo khổ cùng cực. Vì thế mà nảy ra

Loại ba thuộc triết lý cố đi tìm cứu cánh con người tại thế, có thể kiểm soát theo tinh thần khoa học. Đây là lối tuy ứng hợp với triết nhưng hầu hết triết học lại quen lối xưa đặt cứu cánh con người bên ngoài lối sống hiện tại. Thí dụ như Plato cho cứu cánh cuộc đời là sự ngắm nhìn lý giới, nên lý giới được coi là mẫu mực, có sống theo được mẫu mực đó con người mới trở nên tốt, mới nắm được sự thật. Sự thật được quan niệm là sự trùng hợp giữa lý trí và sự vật, khi có sự trùng hợp thì là thật là tốt nên cứu cánh cuộc sống là nhằm làm cho con người nên tốt tức làm cho con người giống sự vật. Hầu hết triết cổ điển Tây Âu theo chân Plato trong vấn đề này, nên có thể nói là chưa trả lời cho cuộc sống thực tại ở đây và bây giờ; cuộc sống vẫn kể như không có ý nghĩa. Một triết gia nào đó đã nói sống là một cuộc buôn lỗ vốn, tính kỹ ra không đủ sở hụi. Cái sống chỉ có được một điều hay là may mà nó không lâu mấy... Như vậy là sự vụ đâu vẫn còn đó: chưa tìm ra câu trả lời có tính cách triết hiện thực hầu thỏa đáp mọi nhu yếu con người để gọi được là sống no tròn. Xin hỏi rằng đâu là cứu cánh cuộc sống con người tại thế đang sống trong xương trong thịt ở đây và bây giờ?

4. Ta hãy đi theo lối thường tình, khởi đầu bằng quan sát đường lối lương tri công cảm để tìm giải đáp. Khi ai cấy một cây trái tất nhiên là muốn cho cây đó trổ hoa kết quả đến mức tối đa của nó. Đôi khi có người bắt cây phải lùn, không cần hoa hay trái: trong trường hợp này cây bị hướng vào mục đích khác ngoài nó, thí dụ trang sức cho non bộ, cho vườn cảnh được vẻ đẹp riêng; nhưng đó là trường hợp ngoại lệ do ý muốn của người cấy gây ra theo mục đích nhất định riêng lẻ không thể dùng làm nền tảng suy tư có tính cách khoa học: khoa học phải căn cứ trên những cái gì rất thông thường. Vậy thông thường thì ai cũng muốn sự phát triển cùng cực. Nói về cây hay về con vật cũng thế: phải sao cho nó béo tốt, sinh sản đến cỡ tối đa, đạt độ tốt nhất optimal maximum. Về việc khác cũng vậy: ai đã bắt tay vào một việc nào đều mong muốn cho việc đó đạt trình độ hoàn chỉnh cao nhất có thể. Nói về cuộc sống cũng vậy phải làm cách nào theo đường hướng nào để cuộc sống phát triển đến cùng cực. Đó là câu trả lời hợp lương tri hơn hết, nghĩa là hợp với ý nghĩ, cảm muốn của mọi người cả Đông lẫn Tây, kim lẫn cổ. Bất kỳ ở đâu và bao giờ ai ai cũng hướng tới cuộc sống no tròn, kể cả những người thanh giáo khổ hạnh cũng thế, chỉ khác là họ đặt sự no tròn đó vào thế giới bên kia mà thôi.

5. Vậy nên nói được đây là quan niệm phổ biến gặp được trong cả hai quan niệm khác nhau về nguyên ủy con người: một bên quan niệm con người tự xuất hiện ra do cuộc tiến hóa trong vũ trụ, một bên tin là con người được tạo dựng do Thượng Đế. Tuy hai quan niệm khác nhau nhưng về cứu cánh có thể là một, nghĩa là có thể quan niệm Thượng Đế như người làm vườn, nuôi con vật hay khởi đầu công việc nào tất cũng muốn cho con người đạt được cuộc sống no tròn viên mãn: phát triển được hết mọi khả năng đến độ cùng tột, y như khi ta trồng cây nuôi súc vật vậy. Chữ tròn đầy ở đây xin hiểu là về mọi khả năng con người, tự thân xác phải béo tốt cho tới tâm tình phải được nảy nở cả mọi mặt: cả ý, cả tình lẫn chí. Còn viên mãn là sự phát triển phải đưa tới đợt tối đa có thể nghĩa là đạt độ tốt nhất theo hoàn cảnh. Mà hoàn cảnh phần lớn cũng do con người tạo lập, nên phải tạo lập thế nào cho ám hợp với sự phát triển kia, không những cho từng người mà cho tất cả mọi người, có vậy mới đáng tên là tròn đầy viên mãn. Việt nho gọi là chí thành, cũng có khi nói gọn vào một chữ là thánh. Thánh là chí thành, ở tức là hiện thực được hết mọi khả thể của con người đến chỗ cùng cực có thể.

6. Đại để đó là câu trả lời dựa trên lương tri, trên công cảm, tức ở đâu và bao giờ con người cũng nghĩ như vậy cách minh nhiên hoặc mặc nhiên, đến độ ta có thể dùng câu thưa đó làm tiêu chuẩn để đo lường và quyết định các nền triết lý như sẽ nói sau. Vì triết lý chính là lương tri công cảm nhưng được minh nhiên hóa nghĩa là được lọc sạch những cái lơ mơ chập chờn để đặt trên nền tảng vững chắc. Như vậy việc triết là thải bỏ những điều chưa vững chắc trong câu thưa trên. Sau là cụ thể hóa cho dễ nhận diện để hiện thực. Điều này có thể làm bằng cách tìm cho mục đích chí thành một dấu hiệu cụ thể. Vậy dấu hiệu đó phải là sự hạnh phúc vì hạnh phúc là hậu quả của sự sống no tròn, sống càng no tròn hạnh phúc càng cao, sống no tròn viên mãn hạnh phúc cũng sẽ viên mãn. Như vậy hạnh phúc chính là dấu hiệu của sự sống no tròn. Hễ hạnh phúc nhiều là sống no tròn cao độ. Ta không biết thế nào là sống no tròn, vậy hãy lấy hạnh phúc làm thước đo. Nói cứu cánh cuộc đời là phải cố sống cho viên mãn, sống cho chí thành thì nghe có vẻ to tát nhưng trừu tượng. Vậy hãy nói cách cụ thể và gọn ghẽ cho dễ hiểu: cứu cánh con người trong cuộc sống hiện tại phải là làm thế nào xây dựng được hạnh phúc cùng cực có thể, cho mình cũng như cho mọi người. Cần thêm vế sau "cho mọi người" vì đã nói trên về Đại Ngã: mọi người cùng một thân thể, nếu không lo cho mọi người là chưa nhận thức ra điều trên. Đó là dấu vòng chân trời tâm thức chưa mở rộng. Khi mở rộng rồi sẽ nhận ra hạnh phúc mà muốn cùng tột phải bao gồm hết mọi người.

 

II.

7. Đó là kết quả cuộc suy tầm triết lý đi theo lối cụ thể thiết thực, tức theo con đường mà mọi người đã đi theo một cách liên tục, mặc dù nghĩ đến hay không nhưng vẫn sống theo đó, có khi đi ngược lại cả huấn điều tôn giáo hay thuyết lý họ theo. Thí dụ có nhiều thứ thanh giáo cho rằng sự theo đuổi hạnh phúc đời này làm ngãng trở cuộc hạnh phúc mai sau. Trong thực tế họ đã ngầm giàn hòa rằng việc sống no tròn chính là điều kiện để đạt được đời sau nếu có, (phải nói nếu vì nhiều người không chấp nhận đời sau, mà ở đây ta chưa đả động tới vấn đề đó). Trong viễn tượng giàn hòa nọ ta có thể kết luận như trước rằng cứu cánh đời người là tìm đạt hạnh phúc, nói rộng ra là phải sống sao cho no tròn, sao cho phát triển đến cùng cực mọi cơ năng, mọi khả thể của con người.

8. Có thể ngờ rằng nhiều người đọc xong câu trên sẽ cho là lạ khi thấy triết chỉ đưa ra được có một câu kết luận tầm thường như vậy sao. Vì có ai mà không sống như vậy và nghĩ như vậy đâu? Xin thưa rằng: ai ai cũng sống như vậy là cái chắc, nhưng còn nghĩ như vậy lại không hẳn. Vì nếu ai chịu để tâm nghiền ngẫm cuộc sống con người xuyên qua các xã hội cổ kim cũng như nghiên cứu các nền triết thuyết và đạo lý đã xuất hiện từ xưa tới nay mới nhận ra rằng câu kết luận trên trở nên quá họa hiếm và đấy là chỗ kỳ lạ, vì câu trên rất đúng với cảm nghĩ của mọi người dù học thức hay không, dù thông minh hay ngu đần đều cảm nghĩ lơ mơ như vậy, thế mà tại sao lại không nói ra được hoặc không dám nói ra, hoặc không biết nói ra. Khi truy tầm căn do sự vụ mới nhận ra rằng sở dĩ con người không nói ra được vì không có ý nghĩ, mà không có ý nghĩ vì tâm thức chưa phát triển đầy đủ còn đang bị đè bẹp bởi những thế lực khác với bản tính con người, bên ngoài bản tính con người, nên thay vì sống theo "thiên mệnh" tức sống theo những nhu yếu, những mệnh lệnh của bản tính mình thì nó lại cố gắng đi theo mệnh lệnh xen ngang. Hãy lấy ngành triết là môn học đã hoạt động mạnh hơn hết của Tây Âu làm thí dụ, sẽ thấy nó bị đè bẹp gí dưới sức nặng của bái vật và ý hệ suốt hai ngàn năm, mãi tới ông Francis Bacon (1561-1626) một triết gia khoa học người Anh mới nhận thức ra được những cái ngãng trở tâm trí kia mà ông cố tìm cách phá vỡ để mở đường cho khoa học tiến bước. Ông gọi những cái ngãng trở đó là ngẫu tượng (idols) và ông phân ra làm bốn loại.

9. A. Ngẫu tượng thuộc thị nhãn (thị tộc idols of tribe) gọi thế vì thói thường con người cho rằng con mắt thấy được sự thực như nó là mà không ngờ con mắt bị uốn nắn theo trí óc. Trí óc ví được như thứ gương cong lượn nên cũng uốn nắn hình chiếu vào nó theo đường cong lượn. Thế rồi lại bị tình cảm nhuộm màu thêm khiến cho con người tin những điều mình thích tin, hoặc vì được thâu nhận vào đầu óc trước tiên nên theo luật "tiên chiếm giả đắc". Cái gì được nghe nói hoài tự còn nhỏ nó ngấm vào tâm trí và dễ trở thành ngẫu tượng.

10. B. Ngẫu tượng hang (idols of den or cave). Đây là tên đặt theo ẩn dụ hang của Plato theo đó con người có khuynh hướng giải nghĩa những điều mình học hay nghe theo ý hướng riêng, hoặc theo chủ trương của thuyết mình nhận, tức là lấy ánh sáng của một phần mà soi vào cái toàn thể, đổ khuôn tất cả theo một hình thái bé nhỏ, như người ngồi trong hang chỉ thấy có bóng hình sự vật.

11. C. Ngẫu tượng chợ (idols of the market) chỉ về ngôn ngữ. Ngôn ngữ rất tốt nhưng cũng chứa hai điều nguy hiểm: Một là nó có tính đàn hồi dễ uốn nắn theo ý muốn. Hai là nó làm cho người ta tưởng nó là sự thực thí dụ cùng cực là những lời ếm chú thuộc ma thuật: thời mà người ta tin là có thể dùng lời để sai khiến thần thánh, quỉ ma, sự vật.

12. D. Ngẫu tượng tuồng (idols of the theater) chỉ những hệ tư tưởng, các thuyết lý nằm ngổn ngang trong tâm thức không cho thấy được sự thực như nó là. Chính những thuyết lý đó giam tù kinh nghiệm, nhiều khi còn tệ hơn là khinh rẻ kinh nghiệm kiểu "hồng hơn chuyên" coi thuyết lý (hồng) quí hơn kinh nghiệm (chuyên môn)

13. Đó là đại để bốn loại ngãng trở mà ông F. Bacon đã nhận diện và tìm cách vượt lên trên, chính vì thế ông đả kích rất nặng nề các triết gia cổ điển như Plato, Aristote mà ông cho là hãy còn bì bõm trong các ngẫu tượng. Nhờ vậy ông phá vỡ rất nhiều trở ngại nằm chắn ngang trên đường tiến, giúp cho khoa học có cơ thành tựu rất nhiều. Vì thế tên ông được kể như một vọng môn mở vào đời mới. Tuy nhiên đứng riêng trong triết học mà bàn thì ông cũng mới đi được bước đầu mà chưa thấu vào vòng trong tâm linh, nên cũng chưa nhận ra sự hiện hữu của hai đợt tiểu ngã và Đại Ngã, cũng như chưa nhận ra bản tính con người là tác năng như đã nói chương trên. Vì thế ông không gây ảnh hưởng nhiều vào vấn đề cứu cánh cuộc sống. Cuộc sống vẫn cứ theo hướng dẫn của lương tri như trước. Nhưng lương tri là cái biết lơ mơ tạm thời chưa đi đến cùng cực và dễ bị dẫn dụ sai đường: nó chỉ tạm đủ để dẫn cái xe cà tàng cuộc sống, chứ chưa đủ nói lên cách mạch lạc có hệ thống thấu triệt về cứu cánh cuộc đời. Đó phải là việc của con người được định nghĩa như tác hành, có nhiệm vụ phải lần mò để làm ra, để xây dựng nền triết lý nhân sinh cách đầy đủ.

III. HAI TẦNG NGƯỜI:

Đến đây chúng ta chạm tới một vấn đề cực kỳ trọng đại là sự phân chia ra hai loại triết lý một bên là Tâm Linh, bên kia là duy lý.
Theo duy lý con người chỉ có một chiều kích gọi là tiểu ngã, tuy có đặt thêm linh hồn nhưng cũng chưa vượt tiểu ngã vì linh hồn cũng còn bé nhỏ như thân xác, cũng còn bị buộc chặt trong hiện tượng nên còn bị những hiện tượng làm phiền: như lửa có thể đốt, quỉ có thể luộc rồi cắt thái... không mấy khác xác thể. Đó là quan niệm duy vật không bao quát hết con người toàn thể, làm sao mà sống no tròn. Đã là quan niệm duy vật không bao quát hết con người toàn thể, làm sao mà sống no tròn. Đã là quan niệm duy vật thì lề lối biết cũng duy vật gọi là duy lý tức dùng ý niệm làm nền: sự biết làm thành bởi các ý niệm, mà ý niệm là hình dạng sự vật được tai, mũi, mắt thâu vào tâm trí, được lý trí xếp đặt cho thành hệ thống rồi gọi tôn lên là ý thức hệ, mà thực sự chỉ là hệ thống ý niệm mà khi theo riết con người sẽ mờ tối như kẻ ngủ không thấy gì ngoài ý hệ nữa, ví được như người mộng du, sức mấy mà ý thức. Muốn thức phải đi theo lối Tâm linh.

15. Tâm linh quan niệm con người có hai đợt là tiểu ngã và Đại Ngã. Tiểu ngã chuyên hiểu biết bằng ý niệm tức là sản phẩm của tai mắt, là những cái bé nhỏ nên khi chồng chất nhiều vào tâm trí nó sẽ chắn đường tâm linh, không cho tâm linh phát ngôn khiến con người chỉ nghe được có tiếng của tiểu ngã: khi xem sự vật tất phải xem qua lăng kính ý hệ (hoặc bái vật). Vì vậy triết lý Tâm linh lấy việc xả làm bước nhập môn tức muốn vào đường triết bó buộc phải xả bỏ mọi ý nghĩ thuộc ý hệ và bái vật mới trông tiến bộ. Đó là cửa ngõ đạo lý nên triết lý Đông Phương đều xây trên chữ Không. Riêng Việt thì xây trên chữ Trống và để con cháu dễ nhớ thì dùng tên đó mà đặt cho di vật quí báu nhất của nước là Trống Đồng tức là nhấn mạnh đến sự trống rỗng tâm hồn làm nền móng. Theo đó nếu ta muốn đưa ra hình ảnh một triết gia Tây phương ta sẽ vẽ một người có gân thịt bự đang ôm một quyển sách to tổ bố. Còn muốn vẽ triết gia Đông phương thì có thể đưa ra hình ảnh một người đang đánh trống, hoặc hình ảnh một người an nhàn cầm cái quạt phe phẩy, triết gia có thể gọi là quạt sĩ như ông Cơ Tử, có nhiệm quạt cho sạch mọi ý niệm tư riêng, mọi tin tưởng tiền chế khỏi tâm hồn để có thể cách vật là vật có sao thấy vậy, không bị xuyên qua lăng kính nào hết.

16. Còn tai thì nghe được lời nguyên ngôn gọi bóng là "triêu văn đạo" tức tiếng phát xuất tự Đại Ngã Tâm Linh còn trong suốt chưa bị bụi bặm che lấp, y như ánh dương quang ban mai lúc trần cấu chưa tung bụi. Những bụi bặm đó là những lý luận của các thuyết lý, cũng như những lời tầm phào của dư luận, của thói tục được đổ khuôn phần nào theo các thuyết kia. Tất cả luôn luôn được rót vào tâm trí con người qua những tổ chức xã hội như gia đình, trường học, sách báo, dư luận làm chết ngạt cái minh đức nằm trong tâm hồn sâu thẳm. Do đấy việc đầu tiên của đạo làm người là phải gạt bỏ các cái đó ra để dọn đường cho ánh sáng tâm linh chiếu giãi. Ánh tâm linh đó thường xuất hiện như mệnh lệnh của trời nên Việt Nho gọi là "thiên mệnh" như ba nhu yếu nền tảng thực, sắc, diện mà cho tới nay chưa mấy nền triết triết lý biết chăm lo để thỏa mãn.

17. Mãi tới thời mới này mới thấy chăm lo đến thực và sắc, nổi nhất về thực: ngày nay đâu đâu cũng lo kinh tế. Sắc thì đã được phân tâm lo. Còn diện (tức sự cao quí con người được biểu lộ trong thể diện) thì chưa hẳn có, nên thực và sắc cũng thất bại, vì con người cần tròn đầy viên mãn, không thể tháo ra từng phần mà lo riêng được. Vậy mà triết học lý niệm đã đi lối đó khi theo đuổi sự thật khách quan, nhưng dùng có lý trí thì chỉ biết được có hiện tượng làm sao biết được sự thật toàn diện. Lo như vậy không thể nào đạt cuộc sống no tròn. Duy lý hay duy trí đã rõ, nó gảy bỏ ra ngoài tình cảm, ý chí, thân xác, tất sẽ rơi vào một chứng bệnh duy nào đó: duy vật, duy tâm, duy linh. Vì chứng bệnh này rất hại cho hạnh phúc con người nhưng lại rất thường tình nên cần bàn thêm.

 

IV. NHỮNG BỆNH PHÁ HẠI CÂY HẠNH PHÚC

18. Những bệnh duy nọ xảy ra là tại đã không nghe theo tiếng thiên mệnh sâu thẳm mà lại đi nghe theo những mệnh lệnh nông cạn thuộc cấp ý niệm tư tưởng. Những mệnh lệnh này có thể chia ra làm hai loại: Một thuộc tâm tình hãy gọi bằng tên tóm tắt là bái vật như các thứ dị đoan, những tin tưởng không thể kiểm soát thường có hại cho cuộc sống. Loại hai là ý hệ gồm các thuyết lý xây trên những ý niệm tự ngoài và được kết cấu cách rất khít khao đồ sộ nên được người ta quí hơn thực tại.

Đứng đầu ý hệ là Plato người đã coi trọng lý giới ý niệm hơn trần thế (thực tại) nên gọi ông là duy tâm. Duy tâm của Plato đã được tiếp nối do triết học Tây Âu và mãi cho tới tận nay được canh tân cách rầm rộ bởi cộng sản với chủ trương "hồng hơn chuyên". Đó gọi là ý hệ. Ý hệ gia giống như người nước Trịnh kia đo chân lấy no để đi đóng giày. Khi đến hiệu anh mới nhận ra là mình để quên cái no ở nhà, anh đành bó tay. Có người bảo sao không đưa chân ra mà so, anh trả lời chân làm sao bì được với no. Thế là anh đành trở về tay không, ai ai cũng cho anh là mát. Thế nhưng các người thờ lý tưởng như các ý hệ gia đều giống hệt anh ta, có thể còn tệ hơn ở chỗ không chịu về tay không, nên đã dùng những no không hợp cỡ chân để đóng giầy tức tạo nên lý tưởng trái với bản tính con người, rồi bắt mọi người phải xỏ chân vào những đôi giầy tiên thiên đó. Kết quả là cuộc sống trở nên địa ngục, rất xa hạnh phúc. Vì con người đã bị bắt buộc phải tuân theo những mẫu mực trái khoáy do bái vật và ý hệ cung ứng mà không biết theo nguyên ngôn. Như vậy là tai họa.

19. Lẽ ra hết mọi người phải sống theo mệnh lệnh của sự sống gọi là nguyên ngôn. Đằng này ngay những người lẽ ra phải sống đúng đường cũng đã đi lầm nẻo, đó là các triết học gia, họ chỉ đáng tên là ý-gia, cùng lắm là triết học gia chứ không là triết-gia. Rất nhiều triết học gia đã nhận thức được chỗ tai hại của những của những cái chắn đường kia và đứng lên đập phá, nhưng phần lớn lại mắc vào những cái ụ đó theo luật "mạnh chống mạnh chấp", hoặc cố nói lên nhưng không sát ý cũng như không ổn, chẳng hạn như người ta gán cho Epicure câu nói:" cứu cánh cuộc đời là sự khoái lạc" thì đó là câu nói rất nguy hiểm có thể gây tai hại cho hạnh phúc của người hiện thực. Thành thử câu nói bị bác bỏ dễ dàng do những thuyết trái ngược là khắc kỷ khổ hạnh. Vì thế khắp năm châu bốn bể chỉ còn ồn ào với những thuyết khổ hạnh thanh giáo đó, nên tôi nói các thuyết lý hầu hết xúi chó vào bụi rậm, vì 90% là nói tầm bậy và nếu con người theo trọn vẹn thì giống người còn có tồn tại đến nay nữa chăng hay nếu có còn thì chắc xã hội cũng chỉ là một hỏa ngục.
20. Cũng may là con người không theo nên có vụ trống đánh xuôi kèn thổi ngược. Trống đây là tiếng của lương tri , của công cảm. Đó là tiếng của sự sống thiết thực nên nó rất mạnh, dám đi ngược lại các tiếng kèn lạc điệu của những mệnh lệnh tôn giáo hay các triết học trái thiên nhiên. Thí dụ có những triết thuyết dậy rằng: nhạc là tiếng Satan (Mao mét). Nhạc là thứ phá nước (Mặc Địch) v.v. và v.v...nhưng bà con cứ hát om sòm ngay bên cạnh nhà các ông đó. Đấy là họ theo tiếng trống mà không theo điệu kèn.

Đó là những tiếng trống lương tri chống lại cái điệu kèn rồ dại kia. Sự chống đối này có tính cách phổ quát nền tảng, nên là tổ gây nên tâm trạng bất an, những bệnh tâm trí có rất nhiều trong những xã hội có kèn thổi ngược là vì con người bị kéo dãn ra hai chiều trái ngược: lý thuyết bảo là vô mà lương tri thực tại lại bảo là hữu.

21. Triết lý an-vi chủ trương minh bạch rằng: cứu cánh cuộc sống là hạnh phúc cho từng người và mọi người. Nội dung hạnh phúc không đặt ở xa mà phải ở ngay đây và bây giờ, có thể tóm vào năm chữ phú, quí, thọ, khang, ninh. Tất cả ngũ phúc nọ đều hướng vào việc phát triển cùng cực mọi khả năng con người, làm sao cho đạt độ cùng cực có thể. Khi đạt độ đó thì gọi là chí thành tức là con người đã "làm người" trọn hết cỡ, và coi chí thành là thánh, là thần, và do vậy gắn liền thánh với phú quí thọ khang ninh nghĩa là thần hay thánh không ở đâu xa nhưng là ở ngay trong sự phát triển cùng cực mọi cơ năng, mọi khả thể của con người biết được theo "thiên mệnh" hay là thiên tính.

22. Trong thực tế có thể căn cứ vào bản năng sinh tồn để nhận diện. Những người theo thanh giáo cho bản năng là điều xấu cần trấn áp, nên coi Việt Nho là trần tục quá ư tục; nhưng nay cũng có nhiều học giả đã nhận ra rằng Việt Nho là nền triết lý duy nhất không từ chối bản năng công cảm, duy nhất trung thực với cuộc sống (the greatness of Confucius is his being true for life) nền triết lý duy nhất dám xây trên công cảm. Nếu hỏi con người sống theo bản năng thì có khác chi con vật ? Thưa rằng tại sao lại đòi khác khi con người cũng là một con vật. Câu định nghĩa nào về con người cũng mở đầu bằng chữ con vật: người là con vật biết suy lý, người là con vật biết nói v.v... Vậy không nên từ chối phần con vật nơi người, chỉ cần biết con người khác các vật chỗ nào và giống chỗ nào. Nó phải giống phần thiên tính, chỉ khác phần đóng góp con người gọi là "nhân vi" "văn sức". Như đã nói ở bài trước con người tiểu ngã cũng phải ăn uống, làm tình như con vật, chỉ khác vì không những là con vật, nhưng còn là con vật biết suy lý, con vật có tôn giáo v.v... nên có sự khác biệt. Sự khác biệt này là dấu đặc trưng con người nhưng không bao giờ được chống lại nền tảng. Như ba nhu yếu thực, sắc, diện.

Những cái đó phải theo nếu không thì ngay con vật là phần sinh lý cũng chết luôn chưa nói đến vụ làm người. Vậy con vật là nền chung rồi trên nền tảng đó con người cần tô điểm trang sức làm cho ra văn vẻ, gọi tắt là văn hóa. Văn hóa chính là sự tô điểm các bản năng, hễ tô điểm ra ngoài bản năng là sai lạc, là ý hệ. Tô điểm đúng bản năng là hợp lương tri, là xuất tính, là theo thiên mệnh, là theo đúng đạo làm người.

V. NỀN TẢNG VIỆT NHO

Hỏi rằng nếu vậy Việt Nho có hơn gì lương tri và bản năng đâu ? Thưa rằng tại sao dại dột đòi hơn lương tri và bản năng. Bởi vì chính đó là mệnh lệnh bất khả ngộ nên không hề bao giờ được chống nhưng phải tiếp tục làm theo, phát triển thêm phần nhân vi vào, như ăn là tính mệnh không thể bỏ, con người cần phải ăn, nhưng ăn cách con người là chiên sào, nấu, rồi đặt lên bàn, có nghi thức đi theo. Đừng vì phần nhân vi mà bỏ phần thiên tính như nhiều thuyết lý đã làm, không phải trong vấn đề ẩm thực mà thôi mà cả trong vấn đề sắc và diện. Việt Nho đã đi theo lối tiếp nối thiên tính, nhờ vậy đã nói lên một cách mạch lạc rõ ràng những điều mà lương tri công cảm không nói lên được hoặc không dám nói ra vì sợ mang tiếng vào hùa với bản năng. Nhưng Việt Nho đã dám nói lên vì đã đưa đến cho lương tri một bộ định đề làm như gốc rễ của công cảm để qui tụ lương tri thành một nền triết lý.

24. Đó là điều họa hiếm bởi tiếng lương tri thì ta gặp được tràn đầy trong thi ca tiểu thuyết, văn học, nhưng có một điều không gặp thấy những nơi đó hoặc trong các triết học lý niệm tức là cái gốc lương tri nó ở tại đưa ra những nguyên lý ngược chiều lương tri công cảm; đây không là ngược chiều kiểu kèn thổi ngược nói trên, vì nó sâu xa nằm trong tiềm thức sâu thẳm nên là ngược theo lối gốc đối với thân cây: gốc mọc xuống, thân mọc lên. Đó là điều cần thiết, y như máy sinh điện cũng phải có hai chiều một chạy mau, một ghì sức lại mới nảy sinh điện. Triết cũng thế phải có mấy nguyên lý ngược chiều với công cảm, mới làm nảy sinh nhân điện được. Đó là luật tất nhiên mà các triết học lý niệm cảm thấy lơ mơ nên đặt sự ngược chiều ở đợt tượng ý thành ra tiếng kèn thổi ngược rất sai lầm như vừa nói trên. Sai lầm không hẳn vì đặt ngược mà vì đặt ngược ở cấp thấp quá: ở tầng ý niệm, nên vô hiệu. Trái lại Việt Nho đặt sư ngược đó ở tầng cơ cấu tức tầng tiềm thức sâu hơn tầng ý thức của ý niệm vô kể. Ta hãy xem những nguyên lý ngược chiều đó là gì.

25. Chúng tóm vào được ba con số sau là 2, 3, 5. Số hai có thể gọi theo cách nói của Francis Bacon là phản thị nghĩa là chống lại con mắt, không cho cái biết do mắt là nền tảng, mà phải đi sâu hơn nữa. Vì thế con mắt thấy sự vật là một khối monolithe, thì cơ cấu phải thấy hai. Con mắt thấy tĩnh thì cơ cấu phải thấy động hay đúng hơn động mà tĩnh, tĩnh mà động, một mà hai, hai mà một, gọi vắn tắt là lưỡng hợp: dual unit. Và đó là nền tảng của vũ trụ quan động ngược với vũ trụ quan tĩnh của triết cổ điển một chiều, đã động thì thôi tĩnh và ngược lại. Đến nay khoa vi thể giúp cho thấy động rồi nhưng chưa đủ ngấm vào triết lý nhân sinh. Đó là căn do tại sao triết duy lý chỉ thấy nơi con người có tiểu ngã mà không nhìn ra được Đại Ngã Tâm linh vì thiếu đức tính lưỡng hợp nọ: hai mà một: tiểu ngã với Đại Ngã là một kiểu lưỡng hành: một mà hai.

26. Số ba áp dụng vào người: khi gán cho nó bậc tác động ngang với Trời Đất: "Trời Đất in Ta một chữ đồng". Thực là ngược chiều vì dám đem con người bé nhỏ như con giun đặt ngang cùng trời đất vô cùng tận! Nhưng chính sự ngược chiều nọ đã cứu vớt được triết khỏi phá sản do nói lên được sự khác biệt then chốt của con người là tác hành, là tác năng, là làm ra lối sống của mình. Đó mới là xương sống của triết, cũng như nền tảng của nhân chủ.

27. Số năm còn kỳ lạ hơn nữa là bảo phải tìm cái Không làm cốt: ai chả muốn có thế mà ở đây lại bảo đi tìm cái không. Chữ ngũ phúc trên kia không nên hiểu theo nghĩa đo đếm vì đó là huyền số được xếp theo cơ cấu. Theo cơ cấu thì nền tảng của số ngũ là không vì nó thuộc hành thổ tức hành vô địa, hành vô hành, nghĩa là trống trơn: không phương, không tiết, không mùa. Nhưng chính sự không, chính sự trống trơn đó đáp ứng được nhu yếu thâm sâu nhất của con người là vô biên tính. Phải, cái làm nên bản tính riêng biệt của con người chính là những cái vô hình vô dạng đó. Chính cái không đó làm cho sự chấp nhận phú, quí, thọ, khang, ninh không trở nên duy vật. Chính sự trống trơn đó đã cho phép Việt Nho dám không những chấp nhận ngũ phúc mà còn trọng thể hóa bằng đặt vào ruột cuộc sống mà vẫn đạt được một nền siêu hình trung trực như: sẽ bàn nhau.

28. Đại để đó là ba cái gốc của lương tri đi ngược chiều lương tri.
Số hai là nét song trùng nói lên vũ trụ động, cuộc đời luôn luôn biến động, con người phải tuân theo luật dịch hóa đó.
Số ba nói lên bản tính con người là động, là tác, là hành, mà phải tác hành đến cùng cực như trời cùng đất.

Số năm nói đến tận cùng của việc làm, phải đi đến chỗ vô biên, đến chỗ vô bến vô bờ. Chính nơi đó mới xứng với vị trí của nó là một tài, một maximus pontifex theo nghĩa gốc, là "người làm cầu vĩ đại": vĩ đại cùng cực là cây cầu nối trời với đất, cho nên không những vĩ đại mà còn phải vô biên. Như vậy chỉ có thể tìm ngay nơi tâm mình, chứ tìm ở ngoài chỉ gặp được những cái hạn cục có cùng.

 VI. QUAN SÁT ĐƯỜNG TRƯỜNG:

29. Xin đừng nghĩ rằng đó là những ý nghĩ suông, nhưng là những ý nghĩ hữu hiệu hơn hết, giúp cho con người đạt hạnh phúc ngay tự đời này, nó ở tại làm thỏa mãn ùng cực mọi nhu yếu thâm sâu của con người. Chính ba định đề trên (2,3,5) làm nên cái cội gốc, cái ngọn nguồn cho lương tri, cho hạnh phúc. Chính nó làm nên phần trường tồn. Chính nó là cái phi thường nằm ngay trong lòng những cái thường thường. Chính ba cái gốc kia làm cho sự theo đuổi ngũ phúc trở thành phúc thật. Vì hạnh phúc muốn cho trung thực tột cùng tất phải có chiều kích vô biên để thỏa mãn vô biên tính trong con người. Vì các triết duy lý không biết đến chiều kích nọ nên đưa ra các cứu cánh thiếu sót rất trầm trọng. Xét ngay về đàng đi tìm sự thật đã tỏ ra kém rồi. Duy lý đi tìm sự thật thẳng nơi sự vật bằng lấy sự thật đối tượng làm tiêu chuẩn (vérité - objet) nghĩa là có thật khi lý trí hợp với đối tượng. Nhưng lý trí nông cạn làm sao thấu vào được nội tâm sự vật, sự vật nội tại, thành ra lấy đại ý niệm về sự vật làm sự vật. Mà ý niệm chỉ là vòng ngoài, mỗi người mỗi khác nhau, nên có nhiều "sự vật".

30. Trái lại khi lấy hạnh phúc làm tiêu chuẩn thì không căn cứ trên bản tính sự vật, nhưng căn cứ trên mối tương quan với sự vật. Tương quan này lấy hạnh phúc người làm tiêu chuẩn nên chỉ chọn tương quan nào hợp cho hạnh phúc con người. Rồi từ đó suy luận đến bản thể sự vật và con người: tương quan nào giúp con người triển nở mạnh nhất (tức hạnh phúc nhất) là tương quan đúng, nên kết luận sự vật đúng thực. Như vậy cũng là quan niệm về sự vật như triết học lý niệm, nhưng khác ở chỗ có đợt thể nghiệm, không chỉ trừu tượng, nên có nền tảng để kết luận là có nắm được sự thực.

Đấy là lý do sâu xa giải nghĩa tại sao các triết duy lý cứ dần dần lụn bại, đang khi Việt Nho cứ vững như trồng. Tuy có lúc bị lu mờ, nhưng rồi lại dần dà nhô lên. Các triết thuyết khác mới nghe thì cao lắm nhưng cuối cùng phải từ bỏ thuyết mình để đi theo tiếng lương tri. Nhân loại tiến bộ càng nhiều thì số theo lương tri càng đông. Lúc đầu Trung Cộng mới lên gọi Việt Nho là cái học ăn cứt, nhưng rồi đến nay lại nhào vô, chưa dám ăn đàng hoàng nhưng đã liếm láp chung quanh rồi. Thế giới nói chung cũng hướng cả về đó, phải xem lịch sử dài rộng mới nhận ra.

31. Do đó ta hãy gác sang bên các tiếng kèn thổi ngược với lương tri, ngược với tâm trạng trung thực của con người, để nghe theo tiếng kèn thổi xuôi rằng: cứu cánh con người là hạnh phúc, mà hạnh phúc đó đừng tưởng là cái chi to lớn xuất hiện lù lù bên ngoài cuộc sống, nhưng nó là những mụn mảnh bé nhỏ, nó nằm ở bữa ăn ngon, ở câu chuyện dí dỏm, ở chỗ gặp người thân, ở chỗ gửi quà nhận quà, ở những cái bé nhỏ thường nhật: mỗi cái tô điểm cho đời một ít. Nếu muốn hệ thống hóa tức giồn nó vào mấy mục lớn thì có thể tạm kể ra 5 khoản là "phú, quí, thọ, khang, ninh". Tất cả 5 đặt trên hành ngũ là trống rỗng, tức tâm hồn có trống rỗng mới nghe được nguyên ngôn là cái hướng đạo vững chắc nhất để đạt hạnh phúc. "Chân không diệu hữu" là thế. Nên phải lấy ngay hạnh phúc làm cứu cánh cuộc đời, lấy hạnh phúc làm tiêu chuẩn đo lường mọi giá trị.
32. Bài này chưa thể đi vào chi tiết vì mục đích chỉ là nêu lên nguyên lý nền tảng đặng dùng làm tiêu chuẩn cho các cuộc truy tầm triết lý. Tiêu chuẩn là một vấn đề rất nhiêu khê trong lãnh vực triết, tại sao lại gọi cái này là xấu cái kia là tốt, tại sao bảo câu nọ thật câu kia sai. Đó là những vấn đề đã được bàn cãi nát bấy đến độ cuối cùng không còn ai biết lấy gì làm tiêu chuẩn nữa. Nhưng nếu ta lấy hạnh phúc của mọi người làm tiêu chuẩn thì ta đi gần thực tại nhất, và triết cũng trở nên giản dị nhiều lắm. Theo đó hễ thuyết lý nào dạy những điều trái ngược với hạnh phúc con người thì ta cho là giả dối. Tiêu chuẩn này rất hiếm được triết học theo hoặc có theo mà không phân tích ra rành rẽ, là vì xưa rầy người ta đều đặt tiêu chuẩn trên chân mà không trên thiện hay mỹ. Người ta hỏi thế nào là thực, là thật...sau hai mươi lăm thế kỷ cãi nhau tưng bừng cuối cùng chẳng ai biết sự thực là cái cóc khô gì.Càng xem rộng càng thấy đúng câu: "sư bảo sư phải, sãi bảo sãi hay", nhưng ai là người làm chứng.

33. Khi ta nghiên cứu lại lịch sử triết thì thấy vấn đề đặt ra ngoài con người, lấy sự làm cho con người nên tốt (Plato) làm tiêu chuẩn. Muốn con người nên tốt cần phải có chân lý, mà chân lý phải hướng tới sự vật (điều hợp lý trí với sự vật) thành thử hướng ra sự vật. Đó là con đường tế vi dẫn đến chỗ tha hóa, vật hóa con người. Trái lại nếu lấy hạnh phúc con người làm cứu cánh thì trước hết nó hướng đến con người; hai là hướng đến con người toàn thể: không những lý trí như trong sự thật, mà cả tình, chí, tâm, can, tì, phế đều cảm thấy liền, hưởng liền. Vì vậy không thể tha hóa được mà còn là con đường trung thực để tìm ra chân lý. Vì chân lý là sự hợp với bản tính con người. Ta không thể biết trực tiếp bản tính đó là gì, nhưng nếu nó làm cho ta hạnh phúc thì ta biết chân lý đó đúng với bản tính của ta. Y như sự thật nào làm ta mất hạnh phúc thì là không thật. Thế giới hiện nay đang như con tàu không lái vì bao "sự thật" trước đây đều bị khám phá ra là vô nền, là tầm bậy. Vậy thì nên chuyển tự chân sang thiện: hỏi cái gì ơn ích cho tôi, cho nhân loại. Tuy không thể có căn cứ tuyệt đối nhưng còn có thiên tính, lương tri làm chứng và phần nào kiểm soát được. Hễ triết thuyết nào xét về lâu về dài đã mang lại ơn ích cho con người thì là đúng là thiện nên cũng là chân là mỹ. Triết thuyết nào trình bày hay mấy mặc kệ, ta chỉ cần xem vào thực tại: cá nhân có hạnh phúc chăng, dân nước có đủ ăn đủ mặc chăng, xã hội có công bằng chăng, phân chia tài sản có không quá chênh lệch chăng... Nếu quá đáng, nếu dân thiếu thốn cùng khổ thì là triết bất thiện, không chân, không mỹ. Triết nào giúp vào việc thiện mới là triết lý tốt mà không là viển vông xa thực tại.
34. Đại để đó là tiêu chuẩn mà chúng ta sẽ áp dụng dần trong các chương sau, ở đây chỉ cần thêm rằng định luận như vậy thì cứu cánh cuộc đời trở nên dung dị, chỉ cần một lương tri lành mạnh sẽ thấy liền. Thế nhưng triết học đã làm cho vấn đề trở nên quá khó khăn, vượt khỏi tầm tay của mọi người, đang khi nó ở ngay trước mắt, ngay trong tâm trí mình, hễ muốn là được. Không may các triết thuyết hiện đang đứng giăng hàng ra điều động cuộc sống lại đi trái ngược lương tri, lấy việc chống bản năng làm vinh dự. Thật là ngu tai ! ngu tai ! Vì thế mà trong việc tìm lại ý nghĩa cuộc đời chúng ta bó buộc phải duyệt qua một số triết lý đã làm hư hỏng mới trông vững tâm bước vào con đường lành mạnh. Đó là điều chúng ta sẽ làm trong những chương sau


III. AN -VI SIÊU TƯỢNG

I. CẦN ĐẠT SIÊU HÌNH MỚI RA NGƯỜI ĐẠI NGÃ

1. Chương trên đã định luận rằng cứu cánh cuộc đời này là truy tầm hạnh phúc: hạnh phúc cho mình và cho hết thảy mọi người. Nhưng con người không thể đạt hạnh phúc nếu nó không hiện thực đươc bản tính của nó, mà bản tính con người thì bao la vô biên như vũ trụ. Cho nên cứu cánh con người phải là phối hợp với vô biên. Sự phối hợp này tất nhiên là việc của con người theo định nghĩa người là tác năng, tức phải làm ra tất cả. Trong sự làm đó việc nhận thức dẫn đầu, cùng cực của nhận thức là khoa siêu hình, siêu hình là khoa nền tảng cho triết, mà triết là bậc cao hơn cả trong sự hiểu biết. Vậy cần nền tảng siêu hình phải hợp với bản tính con người là tác năng và vô biên. Nói khác siêu hình chỉ là trung thực khi giúp cho con người tự hiện thực lấy cái chiều kích vô biên nọ. Đó là điều kiện tiên quyết và bất khả vô. Vì con người bao giờ cũng hoạt động theo hướng dẫn của tâm thức.

2. Vì thế siêu hình học không những cần mà còn thiết yếu hơn cả mọi khoa đầu là nhân văn hay khoa học. Những khoa học này thuộc ngành ngọn, có thì tốt, còn không cũng chỉ là sự đáng tiếc nhỏ. Chứng cớ là chúng chỉ xuất hiện muộn về sau, chí như siêu hình thì xuất hiện một trật với con người, tuy trong trạng thái tiềm mặc, nhưng đã có ngay tự đầu và bao giờ cũng tỏ ra rất nền tảng: hễ sai một li thì đi một dặm nghĩa là sẽ kéo theo vô số tai họa. Vì thế phải làm thế nào tìm cho ra một nền siêu hình đã không gây trở ngại mà còn hỗ trợ con người hiện thực bản tính nó. Bản tính con người gồm hai đặc tính là hành tác tính và vô biên tính; vậy nền tảng của siêu hình cũng phải là cái gì thực sự vô hình, phải vượt qua không những hình mà luôn cả tượng cả thanh cả xú, có vượt qua được bốn đợt hình danh sắc tướng đó mới thực là vô biên. Có vô biên mới đạt Đại Ngã, có đạt Đại Ngã mới đạt Hạnh phúc. Hạnh phúc viết hoa. Hạnh phúc cùng tột cũng là cứu cánh con người.

 

II. NHƯ VẬY TA THẤY SIÊU HÌNH THẬT VỪA PHẢI LÀ VÔ HÌNH MÀ ĐỒNG THỜI VẪN TÁC ĐỘNG

Xem trong lịch sử loài người thấy đó là điều diệu vợi. Vì các triết đã đưa ra những nền siêu hình giả dối, tức hãy còn hình nào đó mà ta có thể gọi là siêu hình nhưng hữu tượng tức có hình nhưng là hình vắng mặt, được đại diện bằng tượng tức còn hình trong lý trí và quen gọi là tượng ý (idea). Không kể chi duy vật là phái đã tuyên ngôn long trọng điều đó. Hãy nói ngay đến những người muốn tiến lên siêu hình chân thực, nhưng rốt cuộc cũng chỉ đưa ra được một thứ vô hình hữu tượng nên dính đét lại đợt tiểu ngã mà không sao vươn lên được bậc Đại Ngã vô biên. Căn do của sự thất bại đó có rất nhiều nhưng để dễ dàng suy luận ta nên qui tụ chúng vào hai mối chính: đó là bái vật và ý hệ, cả hai đều là những siêu hình giả tạo tức siêu hình mà còn hữu hình đặc sệt, không vượt khỏi vòng tay của tai mắt.

III. BÁI VẬT THÌ SIÊU HÌNH CÒN ĐỂ HÌNH NGUYÊN CON.

4. Đó là các thứ dị đoan tin tưởng đặt vào những quỉ thần, mồ mả, ngày tháng... Nói theo triết, bái vật đã hữu hình hóa cõi vô hình: bao nhiêu ý niệm về thiên địa Đại Ngã đều được gán cho hình ảnh như người hoặc vật , nên triết quen gọi việc đó là nhân-hình-hóa thần linh. Điều đó cần cho bước đầu để con người vươn ra khỏi thế giới của tiểu ngã gọi là trần giới hoặc thế giới của giác quan. Tất cả đều bé nhỏ cục hạn nên con người cần phải vượt thoát. Nhưng không thể vượt thoát cái một nên phải chia ra nhiều đợt. Việt Nho chia ra bốn bậc là hình, tượng, thanh, xú: càng lên càng tế vi, trước hết muốn siêu lên khỏi hình ta chỉ cần trừu tượng là được: thay vì cái ghế, cái bàn, ta chỉ cần tưởng tượng ra cái ghế, cái bàn thế là đã siêu hình; nhưng đó mới là siêu hình đợt một, chưa đạt đợt hai là siêu tượng. Vì ý niệm cái bàn là tượng ý (phantasma) chưa vượt qua được con mắt lý trí. Thế mà có vượt qua tượng ý nữa mới lên được đợt ba là vô thanh là vào tai rồi sau cùng đến vô xú là súc cảm. Vô xú còn tế vi hơn vô thanh.

5. Vậy cần đi tự dưới lên, tự hình qua tượng đến thanh rồi xú. Các bước dưới đó cần thiết để cho con tuộc trục lợi được yếu dần đi, trở nên thanh nhẹ thêm, thí dụ bảo hy sinh tiền của để xây đền điện thì không còn thể cầu cái lợi hữu hình nhưng vẫn còn thể cầu cái danh, hoặc công nghiệp vô hình nào đó, như được thoát âm ti, chuộc lại lỗi lầm... Tuy chưa cao lắm nhưng có lợi ở chỗ giúp nhổ con người ra khỏi cái lợi vật chất đặc sệt, nhưng chưa là tận cùng. Vì còn có thể tiến lên đợt an vi không còn cầu lợi hoặc tiếng tăm, hay để thoát hình phạt. Tuy tế vi hơn nhưng còn là lợi nên bám víu vào bái vật là ngừng đọng ở đợt hiện tượng đã được tế vi hóa. Chính vì tế vi nên nó có sức trì níu mạnh hơn: ở chỗ người hành đạo không thấy, không chú ý đến nó, nên ví nó được với loại siêu vi trùng rất khó gỡ, vì thế duy vật là bệnh phổ quát hơn người ta tưởng.

 

IV. VÔ VI ĐÁNH MẤT TÁC ĐỘNG TÍNH.

6. Để thoát khỏi nguy cơ duy vật thì nhiều đạo pháp đã đề nghị giải pháp chối bỏ cõi hữu hình: cho tất cả là "tuồng ảo hóa bày ra" chứ thực sự thế giới chỉ là huyễn tướng, là bào ảnh, là maya đừng để tâm bận đến thì sẽ giải thoát được .

Chưa biết có thực là tuồng ảo hóa chăng, chỉ biết chủ trương đó đã dẫn tới chỗ vô vi theo nghĩa đối chọi với hữu vi tức là không làm, trái ngược hẳn với bản tính con người là làm, là tác, là vi. Vậy là lối thoát này hỏng: nó chỉ có quyến dũ vì chống với cái hữu vi đặc sệt, chống lại sự bám trọn vẹn vào cõi hữu hình, cõi duy vật của triết học duy niệm mà tôi quen gọi là ý hệ, cùng lắm thì nó chỉ tạm dùng được cho những người xuất thế không phải lo ăn lo mặc, lo đến những mối nhân luân mà thôi, nhưng đó là ngoại lệ không thể đưa ra làm thông lệ, cho nên ta phải tìm về phía có vi, trong đó có hữu vi thuộc ý hệ.

 

Ý HỆ CHƯA VƯỢT TƯỢNG Ý.

7. Ý hệ là bước siêu vượt đầu tiên thoát ra khỏi vật thể hữu hình, thường bị ràng buộc trong bái vật: lo sợ âm phủ, cầu mong cõi tiên... Ở đây không còn lo sợ âm phủ, hay cầu mong được thưởng cái chi nữa, mà chỉ căn cứ trên ý niệm sự vật một cách khách quan. Đây là một bước tiến cần thiết đầu tiên trên con đường giải thoát, trước hết là vượt khỏi nanh vuốt các thần tượng, thường giam con người trong cõi cưỡng hành.

Nhưng trì diên lại ở đợt ý hệ hay tượng ý thì lại vẫn còn là duy vật chỉ khác nhẹ hơn. Vì tượng ý là hình ảnh sự vật nên bám vào nó là bám vào sự vật. Dấu hiệu bám vào là ý hệ, đó chính là hệ thống các ý niệm, nó có hại vì rất hẹp hòi độc hữu đến độ chối bỏ cõi linh thiêng, chối bỏ những gì giác quan không thấy, hay tệ hơn là dùng ý niệm đóng khung cõi vô biên.

Như vậy là đánh mất trọn vẹn bao quát tính của con người tức là nằm lì lại cõi tiểu ngã bé nhỏ Đã vậy không còn thể tiến, vì tự trong nền tảng nó thiếu tính chất năng động: bản tính của ý niệm là nằm nguyên như thế: nó ví như những hình chụp, chụp sao còn vậy; chụp lúc trẻ đến nay mình già mà hình vẫn cứ trẻ hoài.

8. Sự bất động cùng với sự bé nhỏ là hai tai họa gắn liền với ý hệ, cho nên nói đến ý hệ là nói đến cái gì hạn hẹp, mà đặc tính là một chiều, trong triết quen gọi là duy (isme) chỉ thấy có một khía cạnh. Khía cạnh đó như con tuộc rút tỉa hết năng lực và khiến trở nên như mù không còn thể xem thấy cái gì ngoài nữa, vì thế cuối cùng không khác với bái vật mà nó chống đối cực lực; nhưng mạnh chống mạnh chấp: nên cả hai đều bị lừa dối do một thứ siêu hình giả tạo giăng ra trước mặt như tấm vải đỏ trước con bò đấu, cứ nhằm đấy mà xông vào để tiêu hao sinh lực rồi sẽ ngã quỵ vì những mũi đâm của người đấu. Siêu hình của ý niệm, thu gọn vào sự suy niệm nên người ta quen gọi là người lý thuyết, thiếu làm ngược lại với bản tính người là tác hành luôn luôn phải có làm.
Vậy nên ý hệ cũng giống như bái vật đều là những trở ngại hết sức nghiêm trọng rất khó thoát vượt, vì có đã lâu đời ăn ruỗng bao thế kỷ triết học duy niệm. Sở dĩ người ta còn bám lấy nó: vì thực ra nó cũng là một bước cần thiết trên thang tiến hóa của loài người. Cái lầm không là tin tưởng vào ý niệm mà ở chỗ nằm lì lại đó rồi tuyệt đối hóa coi đó như tận cùng không nghĩ tới tiến thêm.


VI. CHỈ CÓ THỜI GIAN MỚI LA NỀN MÓNG CHÂN THỰC CỦA SIÊU HÌNH

9. Làm thế nào để thoát tai họa trên ?

Thưa trước hết phải thấy được sự hạn hẹp của ý hệ nên cần vượt qua. Sau là làm thế nào tìm ra cho siêu hình một nền tảng thực sự siêu hình siêu giác: mắt không thấy, tai không nghe, mũi không ngửi mà đồng thời lại có tính cách tác động mạnh mẽ và phổ biến, tác động khắp nơi không bao giờ ngừng nghỉ. Hỏi cái gì đáp ứng được hai điều kiện đó: vừa vô hình nhưng lại tác động.

Thưa đó là Chữ Thời. Chỉ có thời gian mới cung ứng đủ điều kiện cho một nền siêu hình xứng hợp con người nhân linh: Một là không ai thấy nó nên thực sự siêu hình nên cũng vô biên. Hai là nó tác động không ngừng nghỉ: cả hai đức tính đó đều hợp với bản tính con người được định nghĩa bằng tác động tính, vô biên tính. Vậy ngoài thời gian thì không cái chi chu toàn được hai đặc tính trên. Không ai thấy mặt mũi thời gian đâu cả, vì nó có mặt đâu để cho mà thấy. Thế nhưng nó tác động không ngừng nghỉ: hết đêm thì ngày, hết trưa rồi tối, không hề có week end. Thế là nó đáp ứng được cả hai điều kiện trên là vừa vô hình vừa tác động.

Ngược lại với thời gian là không gian nó vừa hữu hình vừa bất động, thế mà các triết cổ điển đều xây trên không gian nên đi ngược hẳn với các đức tính của con người là tác động và vô biên. Đó là lý do sâu thẳm giải nghĩa sự thất bại của các nền triết lý cổ điển. Có hơn chăng là hơn bái vật nhưng đối với cứu cánh con người thì những nền triết đó còn xa lắc xa lơ.

10. Thực ra xem trong lịch sử sẽ không thấy triết nào nói minh nhiên là đặt nền trên không gian, triết nào cũng nói đến chữ thời, nhưng nhìn toàn bộ xuyên qua những mục căn bản về vũ trụ quan, nhân sinh quan sẽ nhận ra liền nền tảng của chúng là không gian, vì nó thiếu hai đức tính căn bản của thời gian là vô hình (cũng là vô biên) và biến động. Nói bây giờ là vô biên theo nghĩa bao trùm mọi cái bây giờ, nhưng bây giờ lại luôn luôn đi tới như giòng nước chảy, như làn gió được cấu tạo nên do sư biến động. Đem hai đức tính đó áp dụng vào quan niệm về người về vũ trụ mà thấy thiếu thì biết là triết lý không xây trên chữ thời, tất không bao quát được trọn vẹn sự vật mà chỉ là duy nào đó, thì đấy là hai dấu đích thực nó không đặt trên chữ thời mà đặt trên không gian, có nói đến thời gian cũng chỉ là thời gian đã bị không-gian-hóa rồi tức là bất động hóa. Như vậy là không đáp ứng được điều hai là tác hành thì cũng là chứng tỏ đã đặt trên nền tảng bất động nhỏ hẹp, nên triết học tất nhiên là một chiều và hạn cục không thể đi vào đời sống con người vốn có vô biên tính cũng như tác hành tính.

 

VII. LỊCH SỬ LÀ MỘT DẤU CHỈ SỰ CĂN CỨ TRÊN CHỮ THỜI.

11. Vì hai đức tính nọ là của con người nên thường thường muốn kiểm tra triết có đặt trên chữ thời cùng không thì chỉ cần xem nó có đặt trên con người chăng, vì con người cũng có hai đặc tính như chữ thời là vô biên và tác động.

Cụ thể hơn nữa là phải xem con người sống trong lịch sử trải dài ra nhiều ngàn năm đã có những tác động nào, thì biết đấy là tính con người tự nội xuất phát chứ không do thuyết lý ngoại khởi, vì những việc đó có ở kia mà không ở đây, ở xưa mà không nay, rõ ràng là mệnh lệnh của triết học lý niệm sẽ không sống lâu được. Thí dụ Karl Marx đưa ra con người kinh tế, mới xem hữu lý quá, ai mà chả phải ăn. Nhưng con người không chỉ có ăn, nó còn bao gồm những khả thể vô biên mà không kể tới thì miếng ăn cũng bị hỏng luôn. Vì ăn chỉ là phần nhỏ, cái vô biên mới là phần lớn là đại thể. Cái đại thể kéo cái tiểu thể. Không kể đến đại thể thì con người đó chỉ là tiểu ngã ròng, con người lý thuyết, xa lìa thực tại. Đó là bởi nó không xây triết trên chữ thời, cụ thể là không quan sát người xuyên qua lịch sử mà chỉ dùng thời gian đã được không gian hóa tức chia ra bé nhỏ chặt ra dĩ vãng, hiện tại, tương lai. Đó chẳng qua chỉ là tự lừa đảo mình để hợp thức hóa tình trạng vong thân của con người, mà hễ vong thân là không đạt hạnh phúc, là đau khổ, vì không được sống cho con người ở đây và bây giờ trong xương trong thịt, nhưng phải cắm đầu chạy theo một cái tương lai chẳng bao giờ đến.

12. Đó là hậu quả của không gian vừa bé nhỏ vừa bất động. Đó cũng là hậu quả của những quan niệm bé nhỏ về con người, thí dụ người là con vật biết suy lý, là con vật chính trị, là con vật tôn giáo, là con vật lao động... Ngược lại siêu hình đặt trên thời gian thì tất chở theo những quan niệm mênh mông về con người: người là cái đức của trời của đất chung đúc lại mà làm ra. Theo đó thì trời là thời gian ta quen nói thời trời. Còn đất là không gian bé nhỏ có bờ cõi quen chỉ thị bằng những gì có góc cạnh như hình vuông. Như vậy quan niệm đó bao gồm cả những gì mênh mông như vũ trụ, đồng thời những gì bé nhỏ nhưng được gói ghém trong bầu khí biến động. Diễn ra cụ thể là con người đi trong lịch sử gắn liền với một thời điểm và không điểm nhất định, mà không là con người to vo cô độc trong quan niệm trừu tượng. Cho nên muốn biết thực sự về con người cần theo dõi con người trong những động ứng hợp hoàn cảnh và thường để dấu vết lại trong từ, tượng, số, chế. Xét về phương diện này thì khoa tử vi có thể đúng trên nguyên tắc tối cao, vì nó muốn căn cứ trên thời điểm xuất hiện của con người. Tuy nhiên trong thực tế thì quá diệu vợi vì trong một giờ có 60 phút, một phút có 60 giây với bao nhiêu không điểm dị biệt, nên việc xác định trở thành diệu vợi.

 

VIII. BẢO CHỨNG NỮA LÀ TRỌNG KINH NGHIỆM.

13. Một dấu hiệu khác tỏ ra siêu hình đặt trên chữ thời là quen đề cao kinh nghiệm coi trọng tuổi già (nơi tích lũy kinh nghiệm) thay vì học "siêu hình" thì bắt học lịch sử, Việt Nho bắt học cả Thi, Thư, Lễ, Nhạc coi đó là sự tích lũy của Minh triết. Đó cũng là đi theo chữ thời cách cụ thể vậy. Lý tưởng của siêu hình đặt trên chữ thời là lối sống trọn vẹn có thể gọi là hiện tại miên trường: hiện diện ở đây và bây giờ, tức vừa cụ thể (ở đây) nhưng lại bao trùm trường cửu (bây giờ). Đấy là một cử chỉ gọi được là an vi vì nó không bó kết vào mục tiêu nhỏ hẹp, nhưng tuân theo cái mẫu mực lớn lao mà Việt Nho gọi là Hồng Phạm. Một cử động mang tính chất An Vi là khi cố hiện thực cái Hồng Phạm cái mẫu mực cao cả bao gồm cả vô biên lẫn hữu hạn, nói bóng là cả tròn lẫn vuông. Hữu hạn hay vuông là những tác động cụ thể những công ăn việc làm. Còn vô biên chỉ bằng vòng tròn là lòng lâng lâng không bị bó chặt vào mục tiêu bé nhỏ. Đấy gọi là vuông được bao bọc bởi tròn. Việc bé nhỏ được bao trùm bằng ánh hào quang vô biên của mục tiêu lớn rộng là thành Nhân. Đó gọi là An Vi và đó là việc người hơn hết, việc biểu hiện tính chất con người thành bởi đức trời đức đất. Đức đất là những công việc ăn làm, những hành vi ngôn ngữ cụ thể nhỏ bé, nhưng được bao bọc bởi đức trời bao la là tâm hồn phóng khoáng không bị tù túng trong giới mốc của cưỡng hành với lợi hành.

14. Tuy lợi hành, cả cưỡng hành nữa, không thể bỏ hết, nhưng nếu nó nằm dưới quyền của an hành thì đời sống sẽ bước vào lối phong lưu của hiện tại miên trường tức con người vươn ra khỏi những ràng buộc bé nhỏ để tung bay trong khoảng bao la, để hòa đồng với trời, nói bóng là phong lưu (phong là gió thổi không ngừng, còn lưu là như dòng nước chảy miết) . Theo tỉ lệ lý tưởng thì phần phong lưu này (hiểu theo nguyên nghĩa vừa nói xong) phải chiếm ba phần theo câu "ba trời hai đất". Trong hiện tình con người gồm chín đất chưa chắc đã được một trời: nghĩa là bao nhiêu sinh lực, âu lo, lận đận phải để dồn hết vào việc tìm miếng ăn. Theo triết lý An-Vi thì đất chỉ được chiếm hai phần còn phải dành ba cho trời: bánh giầy (giời) phải ở trên bánh chưng; nhưng thực tế chỉ còn có bánh chưng nghĩa là duy vật... Muốn phản lại có người định vất cái bánh chưng đi như kiểu vô vi Ấn Độ: nhưng không xong, phải có bánh chưng là nền: có thực mới vực được đạo (miễn khi có thực rồi không được quên đạo) cho nên phải chấp nhận hiện tại (tức hoàn cảnh ở đây và bây giờ)


IX. HIỆN TẠI MIÊN TRƯỜNG.

15. Chấp nhận hiện tại là chấp nhận những phân biệt cụ thể: khởi sự tự gần, bắt đầu tự cái nhỏ, cái dễ. Đó là con đường lương tri tuy nhiên bị rất nhiều triết học từ chối. Thí dụ Lão Trang không chấp nhận những phân biệt giữa tốt xấu, dưới trên, xa gần, sống chết... Thiếu những cái đó làm chi có hiện tại, làm chi có quan điểm của con người mà chỉ có quan điểm vũ trụ theo đó thì mọi cái bé nhỏ ở đây và bây giờ bị xóa sạch.

Miên trường cũng bị chối bỏ, vì miên trường đòi phải có mẫu mực lâu dài bền bỉ mới làm nên cái miên trường. Và đó là văn hóa. Lão Trang không chấp nhận những mẫu mực để đề cao những sự tự nhiên đột khởi theo ngẫu hứng, chối bỏ học thuật, "tuyệt học vô ưu". Chối bỏ văn hóa tức là chối bỏ cái miên trường. Vì nói đến văn hóa là nói đến những dạng thức đã được nhiều người noi theo một quãng thời gian dài. Thời gian đó càng dài, số người theo càng đông thì văn hóa càng lớn theo đà. Con người cũng thế, thiếu mẫu mực đã được theo lâu dài thì không là vĩ nhân. Cái làm nên vĩ nhân không là những việc lớn nhất thời, những ý nghĩ thoáng qua, những cảm tình bồng bột, mà phải là sự trường cửu của những cái đó, chính sự trường cửu của hành động theo một mẫu mực kèm theo những cảm tình cao cả mới làm nên vĩ nhân chân thực. Đó cũng chính là đường đi lên cõi đại ngã.

16. Tuy nhiên có mối nguy hiểm trong sự "miên trường" đó là sự bóp chết cái luồng hứng khởi, những đợt sáng tạo ngẫu hứng tự nhiên, đó là những luồng sóng vọt ra tự cõi vô biên, tự trùng dương của muôn khả thể. Thế mà chính những cái hé nhìn, những cái đột khởi nọ là những đạo quân tiên phong trên con đường tiến hóa của con người, nếu ta tự ví mình với người đi bắt cá trên sông thì những ngẫu hứng, những trực thị là những đàn cá: từ bỏ những đột sáng, hứng cảm là từ bỏ không bắt cá. Đó là tội những người câu nệ, cố chấp bám chặt vào luật tắc. Nhưng nếu không có những dạng thức làm như giỏ để đựng cá thì lại như lo bắt cá mà không lo giữ cá. Cho nên chỉ đáng tên là hiện tại miên trường khi thể hiện được cả hai: Làm sao vừa giữ được phương thức mẫu mực (khoa học nghệ thuật ở đó) vừa đón nhận được những luồng sáng tạo mới. Đó là bài toán rất ít người giải đáp được. Triết lý An Vi đã đưa ra giải quyết tiên thiên lý thuyết với ba nguyên lý chỉ thị bằng các số 2-3-5 và phó sản là số 9 tạm được quảng diễn như sau:

X. PHÂN TÍCH HIỆN TẠI MIÊN TRƯỜNG THÀNH 3 CON SỐ: 2, 3, 5.

17. Số 2: là đặt mọi sự việc trong tương quan giữa hai hạn từ mà độ sâu hơn cả là giữa có với không, rồi thứ đến là giữa động với tĩnh. Vì đó là đợt cao nhất bao gồm tương quan của mọi cặp đôi khác như sáng tối, đất trời, tiểu đại, cứng mềm, đực cái... tóm lại là khắp vũ trụ bởi vì không vật nào nằm ngoài sự giằng co đối đáp đó nên bao la vô cùng, không đâu không có, đến nỗi nói được rằng không nền văn hóa nào không có những thần thoại bao gồm cặp đôi, y như không có nhóm người nào mà không có nam có nữ, không đâu không có đất thấp trời cao, sáng tối, ngày đêm, trong ngoài, lành dữ... Chỉ khác là chúng có đó ở đợt lương tri thường nghiệm mà không được một ý thức sâu sắc nào nâng lên bậc nguyên lý, nâng lên bậc cơ cấu như với triết lý An Vi, nên các triết thuyết đó không có tương quan động tĩnh, tương duyên, mà chỉ có hoặc duy động hoặc duy tĩnh vì vậy chỉ có tiểu ngã chứ không có Đại Ngã. Vậy số 2 là căn bản mở đầu cho mọi đức tính cao cả khác. Đó gọi là nét song trùng căn cơ đưa lại cho con người một tác động xứng với bản tính tác hành và vô biên của con người : nó đặt con người vào một tình trạng vô cùng khó khăn nhưng bó buộc phải làm xong, phải tham dự rất mạnh mẽ, nếu không sẽ nghiêng sang một bên rồi mất nhân tính mà dấu bề ngoài là muôn vàn phiền lụy tự bệnh hoạn khổ đau cho đến các thứ tai ương xã hội mà then chốt là chuyên chế với thuyết lý duy vật. Quan trọng ở chữ duy: duy tâm hay duy vật cũng đều gặp nhau ở duy, mà bản chất duy là nguyên lý đồng nhất, xóa bỏ biến động, xóa bỏ mọi dị biệt là căn nguyên của sự phong phú, nên các chính thể chuyên chế đều ưa những thứ duy này: duy nào cũng được: tâm hay vật không mấy quan trọng, hễ đã duy là sẽ đưa đến chuyên chế, đưa đến ngưng đọng, đưa đến đồng đều. Đến đây ta nhận ra vai trò của số 3.

18. Số 3 đem sự biến động đặt vào con người nơi thâm sâu đến độ sự biến động trở nên tính chất nền móng của con người. Nói theo Việt Nho thì người là một Tài trong ba Tài là Trời, Đất, Người. Trời đất như hai hạn từ (terms) hay là hai đối cực mà tương quan là con người, con người xuất hiện như tương quan giữa trời cùng đất. Đây là một tuyên ngôn quá vĩ đại nên biết bao học giả không dám xét tới, hoặc coi khinh. Học giả James Legge cho là dại dột. Bình luận thế vì ông đứng ở quan niệm triết lý bản thể, nên hiểu theo nghĩa người cũng có bản tính cao cả to lớn như trời cùng đất, nếu thế thì Tam Tài quả là điều tầm bậy. Nhưng đứng vào quan điểm năng động, định nghĩa con người là một tác năng thì không có gì là "phạm thượng" vì cái chi con người cũng phải làm ra, cũng phải tạo dựng lấy: từ nghệ thuật, thi, ca, nhạc, khoa học, tinh thần đều phải tự tay tạo dựng: tất cả đều phải là sản phẩm của nhà làm ra...

19. Xét về phương diện ấy thì con người quả là một tác nhân như đất trời, nên cũng gọi là tham thông tức con người thông với trời cùng đất. Chữ tham có nghĩa là cả ba (tam) tham dự với nhau: đây là người tham dự với trời cùng đất. Trời cho con thịt, người tham dự vào bằng cách xào, rán, bó giò, làm gỏi. Cũng là tình người mà làm ra biết bao liên hệ nào vợ chồng, cha con, vua tôi, nào lễ, nghĩa, liêm, sỉ... Nhân chủ ở tại chỗ tham dự nọ. Vậy phải xét theo quan niệm hành động của con người mới đúng thuyết Tam Tài, thấy không có việc nào của con người không liên hệ với trời đất. Nói cụ thể là tùy nơi tùy thời. Một việc tốt là một việc do người làm ra ở một lúc xứng hợp, trong một nơi thích đáng: "the right man in the right place at the right time" nói kiểu triết thì một việc phải có cả "thiên thời, địa lợi, nhân hòa" mới là tốt: công việc nào cũng phải nương theo thời và nơi thì tất phải dành cho con người một chỗ để quyết định thời và nơi ấy. Đó gọi là thuyết Tam Tài. Hậu quả trên đợt triết là thuyết Tam Tài giúp tránh được tai họa định mệnh: cái chi cũng phó mặc cho trời. Còn đây thì "có Trời mà cũng có Ta". Vì vậy không là cưỡng mệnh cũng không định mệnh mà là thiên mệnh được hiểu là Tính con người, nên thường nói: "tận nhân lực nhi qui thiên số": Thiên số đã vậy mà cũng không quên địa hay duy địa: không kinh tế chỉ huy tất cả con người vì còn có những cái cao hơn nhiều như tình và lý. Minh triết ở tại xếp đặt các yếu tố đó cho hòa hợp: cho cao trên thấp dưới để không có duy nào hết: nhân chủ là vậy.

20. Ngoài ra quan niệm Tam Tài còn là con đường tốt nhất để dẫn đến chỗ trọn hảo: người tốt là gì, là người nghĩ đến việc theo đuổi cái tốt cho mình, mà cũng luôn cho người khác, ít nhất không gây hại cho tha nhân. Lý tưởng là cảm thức được nhân loại tính ở cùng khắp nơi để nói được là "vũ trụ nội mạc chi phận sự" không gì tôi không tham dự: nếu vừa tầm sức thì tôi làm hết mình, nếu vượt quá tầm sức tôi thì tôi cũng vẫn tham dự bằng cả ý, tình, chí tức chấp nhận cách thành khẩn: vì đó cũng là tham dự vào kiểu cách con người tức bằng tán thành tận tâm. Như vậy cũng là sáng tạo ra cái gì riêng của mình làm như ấn tích mình ghi trên những cái vượt sức, tức mình không những chấp nhận mà còn thành thực mến yêu, đó gọi là amor fati, không mất chút thì giờ nào vào việc trách trời trách đất, trách người: "bất oán thiên, bất vưu nhân". Nhờ thế vẫn nói được rằng việc đó là của tôi, vũ trụ của tôi, trong đó tôi có phần đóng góp.

21. Số 5. Đây là bộ phạm trù lớn lao của thời gian, không gian quen gọi vắn tắt là ngũ hành. Chính ngũ hành làm cho ra cụ thể hai chữ thời không quá trừu tượng. Nó cụ thể hóa bằng cung ứng cho một cơ cấu nền tảng trên hết mọi cơ cấu. Nhờ vậy nó giúp giải quyết không biết bao là vấn đề rắc rối trong triết để đưa đến chỗ hiện thực bản tính trung thực của con người. Vấn đề rắc rối sâu xa hơn hết trong triết là vấn đề hữu hay vô, hoặc nhất hay đa. Vũ trụ là nhất hay đa, vạn vật nhất thể hay đa thể. Chủ trương nhất như Ấn Độ hay Lão Trang thì chối đa tạp biểu lộ bằng không nhận phân biệt cao thấp, tốt xấu, sống chết... Nếu chủ trương đa thì chỉ biết có những vật trong hiện tượng, gọi là duy-vật-thể (chosisme) hoặc hình thức quen thuộc hơn là duy vật (materialisme). Đó là đẩy vô thể ra khỏi cặp đôi hữu vô tương sinh. Nói thấp xuống một bậc là đẩy trời ra khỏi đất, đẩy thời gian ra khỏi không gian. Áp đặt vào người là đẩy vô biên tính ra khỏi con người, tức vất bỏ linh thiêng tính của nó. Nói ngũ hành cũng là nói âm dương, không có, đất trời, thời không... Tuy nhiên nói thế rất có thể mới ở đợt lý trí mà không đi vào cơ cấu, thì rồi tuy miệng nói ra thế nhưng lại mâu thuẫn với mình liền, như Lão Trang chỉ nhận có chung mà thiếu riêng, nhận có trời mà thiếu người. Vì thế cần gắn liền ngũ hành vào cõi nhân sinh bằng ngũ luân (vợ chồng, cha con, vua tôi, anh em, bè bạn) và ngũ thường (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín). Đó là cụ thể hóa ngũ hành để nó dễ ăn nhập vào mọi việc.

22. Do đấy mà đem hình Việt Tỉnh tức hình ngũ hành nguyên thủy là kép lên thành Hồng Phạm cửu tru : Hồng Phạm là cái _g_ư_ơ_n_g_ _m_a__u_ _c_a_o_ _c_a__ _r_o__n_g_ _l_ơ__n_ _v_o__ _b_i_e__n_ _đ_ư_ơ__c_ _t_ư_ơ__n_g_ _t_r_ư_n_g_ _b_a__n_g_ _t_r_u__ _ơ__ _g_i_ư__a_._ _M_o__i_ _o__ _v_u_o__n_g_ _l_a__ _m_o__t_ _t_r_u__,_ _c_h_í_n_h_ _c_h_ư__ _t_r_u__ _l_a__ _b_ơ__ _c_o__i_._ _T_r_u__ _t_r_u_n_g_ _ư_ơ_n_g_ _g_o__i_ _l_a__ _v_o__ _b_i_e__n_ _v_ì_ _q_u_a__ _t_h_ư__c_ _n_o__ _k_h_o__n_g_ _c_o__ _b_ơ__ _c_o__i_._ _N_e__u_ _t_a_ _l_a__y_ _8_ _t_r_u__ _(_qð)_ _r_ơ__i_ _r_a_ _k_h_o__i_ _H_o__ng Phạm thì trù (ô) giữa biến mất. Vì thế cái "trù" giữa gọi là vô hình, vô biên, vô cùng tận. Chính sự vô biên đó mới làm trọn vẹn con người, mới đem lại cho con người hạnh phúc chân thực gọi là Việt Tỉnh tức ví như cái giếng thiêng luôn chảy nước ra linh nhuận mọi việc. Việc nào làm theo hướng đó thì sẽ trường tồn, sẽ tạo niềm an lạc, gây hạnh phúc, nên gọi là nước cam tuyền (tuyền là giếng gợi ý do chữ giếng ẩn trong khung hồng phạm). Do đấy trong huyền sử nước Việt mới có truyện Việt Tỉnh Cương tức nói đến đạo lý, cái mẫu mực đem lại an vui, hạnh phúc. Việt Tỉnh Cương cũng gọi là Cửu Lạc vì nó đem lại cho thân tâm một sự an lạc do sự quân bình nội khởi làm cho tâm hồn trở nên an nhiên tự tại. Theo quan niệm cổ xưa thì bệnh hoạn phát xuất do sự chênh lệch của khí huyết. Lập lại được sự quân bình là khỏi bệnh.

Trên cấp siêu hình cũng có một sự bình quân siêu tuyệt gọi là "quân thiên" = heavenly equilibrium, khi nó chỉ huy toàn bộ thân tâm thì sẽ đem lại sức mạnh làm cho sống hết tuổi đời cách đầy đủ an vui như được uống nước cam tuyền tự trong lòng mình luôn luôn trào vọt. Chính bản gốc con người là vô biên tính, những cái làm nên khác biệt của con người không là những cái hữu hình, hữu hạn, trặt trờ ra trước mắt, mà là những cái vô hình, vô tượng, vô thanh, vô xú, những tình cảm bao la, những ý nghĩ quảng đại, những động cơ cao viễn, có đáp ứng được những cái vô hình đó mới là chí thành: tức thành con người trung trực trọn hảo.


XI. TÓM LƯỢC

23. Tóm lại ba nguyên lý nền tảng trên là:

* Âm dương đặt con người vào nhất thế với vũ trụ: cả ba cùng một tác động như nhau: không gì không là âm dương. Một vũ trụ quan toàn diện gồm cả thời gian lẫn không gian.

* Tam tài một nhân sinh cao cả đặt con người ngang hàng với trời đất trong phương diện tác hành và tạo dựng, khác hẳn con vật, con vật chỉ dùng sự vật phác tố y nguyên. Con người thì khác, nó lập lại, làm ra của mình, trong ba nhu yếu thâm sâu: thực, sắc, diện đều có tham dự vào hết nếu không trong cơ cấu thì cũng trong văn sức ngoại diện.

* Ngũ hành là tâm linh sử quan có giá trị vô biên ở chỗ cơ cấu hóa được cái vô thể. Biến vô thể trừu tượng của Ấn Độ, vô thanh của Nho thành ra cái Trống được tiêu biểu trong trống đồng, còn thực tế là đạo đi vào đời tránh được nạn chỉ biết có đời, có hiện tượng như các triết xây trên hữu thể hoặc chỉ biết có vô xây trên vô thể thái hư. Ngũ hành đã thành công đưa ra được nền triết lý dung nhiếp cả có lẫn không. Xếp những cái có bé nhỏ quanh cái không vô biên để cái Không trở nên đạo trống. Trống là trống không của lòng trống rỗng được tạo dựng nên do cái tang trống. Vậy trống đồng là kết tinh của tứ quí, tứ quí mượn của bốn mùa mà có, y như trù trung ương (trong Hồng Phạm) phải mượn bờ cõi tám trù chung quanh mà thành, thì trống thể của trống đồng cũng mượn cái tang của trống mà Trống nghĩa là không ai thấy, nhưng lại tác động ở đợt căn cơ mở đầu cho mọi công cuộc. Các lễ hội Việt bao giờ cũng mở đầu bằng 3 hồi 9 tiếng trống là thế.

I. CẦN ĐẠT SIÊU HÌNH MỚI RA NGƯỜI ĐẠI NGÃ.

1. Chương trên đã định luận rằng cứu cánh cuộc đời này là truy tầm hạnh phúc: hạnh phúc cho mình và cho hết thảy mọi người. Nhưng con người không thể đạt hạnh phúc nếu nó không hiện thực đươc bản tính của nó, mà bản tính con người thì bao la vô biên như vũ trụ. Cho nên cứu cánh con người phải là phối hợp với vô biên. Sự phối hợp này tất nhiên là việc của con người theo định nghĩa người là tác năng, tức phải làm ra tất cả. Trong sự làm đó việc nhận thức dẫn đầu, cùng cực của nhận thức là khoa siêu hình, siêu hình là khoa nền tảng cho triết, mà triết là bậc cao hơn cả trong sự hiểu biết. Vậy cần nền tảng siêu hình phải hợp với bản tính con người là tác năng và vô biên. Nói khác siêu hình chỉ là trung thực khi giúp cho con người tự hiện thực lấy cái chiều kích vô biên nọ. Đó là điều kiện tiên quyết và bất khả vô. Vì con người bao giờ cũng hoạt động theo hướng dẫn của tâm thức.

2. Vì thế siêu hình học không những cần mà còn thiết yếu hơn cả mọi khoa đầu là nhân văn hay khoa học. Những khoa học này thuộc ngành ngọn, có thì tốt, còn không cũng chỉ là sự đáng tiếc nhỏ. Chứng cớ là chúng chỉ xuất hiện muộn về sau, chí như siêu hình thì xuất hiện một trật với con người, tuy trong trạng thái tiềm mặc, nhưng đã có ngay tự đầu và bao giờ cũng tỏ ra rất nền tảng: hễ sai một li thì đi một dặm nghĩa là sẽ kéo theo vô số tai họa. Vì thế phải làm thế nào tìm cho ra một nền siêu hình đã không gây trở ngại mà còn hỗ trợ con người hiện thực bản tính nó. Bản tính con người gồm hai đặc tính là hành tác tính và vô biên tính; vậy nền tảng của siêu hình cũng phải là cái gì thực sự vô hình, phải vượt qua không những hình mà luôn cả tượng cả thanh cả xú, có vượt qua được bốn đợt hình danh sắc tướng đó mới thực là vô biên. Có vô biên mới đạt Đại Ngã, có đạt Đại Ngã mới đạt Hạnh phúc. Hạnh phúc viết hoa. Hạnh phúc cùng tột cũng là cứu cánh con người.

 

II. NHƯ VẬY TA THẤY SIÊU HÌNH THẬT VỪA PHẢI LÀ VÔ HÌNH MÀ ĐỒNG THỜI VẪN TÁC ĐỘNG

Xem trong lịch sử loài người thấy đó là điều diệu vợi. Vì các triết đã đưa ra những nền siêu hình giả dối, tức hãy còn hình nào đó mà ta có thể gọi là siêu hình nhưng hữu tượng tức có hình nhưng là hình vắng mặt, được đại diện bằng tượng tức còn hình trong lý trí và quen gọi là tượng ý (idea). Không kể chi duy vật là phái đã tuyên ngôn long trọng điều đó. Hãy nói ngay đến những người muốn tiến lên siêu hình chân thực, nhưng rốt cuộc cũng chỉ đưa ra được một thứ vô hình hữu tượng nên dính đét lại đợt tiểu ngã mà không sao vươn lên được bậc Đại Ngã vô biên. Căn do của sự thất bại đó có rất nhiều nhưng để dễ dàng suy luận ta nên qui tụ chúng vào hai mối chính: đó là bái vật và ý hệ, cả hai đều là những siêu hình giả tạo tức siêu hình mà còn hữu hình đặc sệt, không vượt khỏi vòng tay của tai mắt.

III. BÁI VẬT THÌ SIÊU HÌNH CÒN ĐỂ HÌNH NGUYÊN CON.

4. Đó là các thứ dị đoan tin tưởng đặt vào những quỉ thần, mồ mả, ngày tháng... Nói theo triết, bái vật đã hữu hình hóa cõi vô hình: bao nhiêu ý niệm về thiên địa Đại Ngã đều được gán cho hình ảnh như người hoặc vật , nên triết quen gọi việc đó là nhân-hình-hóa thần linh. Điều đó cần cho bước đầu để con người vươn ra khỏi thế giới của tiểu ngã gọi là trần giới hoặc thế giới của giác quan. Tất cả đều bé nhỏ cục hạn nên con người cần phải vượt thoát. Nhưng không thể vượt thoát cái một nên phải chia ra nhiều đợt. Việt Nho chia ra bốn bậc là hình, tượng, thanh, xú: càng lên càng tế vi, trước hết muốn siêu lên khỏi hình ta chỉ cần trừu tượng là được: thay vì cái ghế, cái bàn, ta chỉ cần tưởng tượng ra cái ghế, cái bàn thế là đã siêu hình; nhưng đó mới là siêu hình đợt một, chưa đạt đợt hai là siêu tượng. Vì ý niệm cái bàn là tượng ý (phantasma) chưa vượt qua được con mắt lý trí. Thế mà có vượt qua tượng ý nữa mới lên được đợt ba là vô thanh là vào tai rồi sau cùng đến vô xú là súc cảm. Vô xú còn tế vi hơn vô thanh.

5. Vậy cần đi tự dưới lên, tự hình qua tượng đến thanh rồi xú. Các bước dưới đó cần thiết để cho con tuộc trục lợi được yếu dần đi, trở nên thanh nhẹ thêm, thí dụ bảo hy sinh tiền của để xây đền điện thì không còn thể cầu cái lợi hữu hình nhưng vẫn còn thể cầu cái danh, hoặc công nghiệp vô hình nào đó, như được thoát âm ti, chuộc lại lỗi lầm... Tuy chưa cao lắm nhưng có lợi ở chỗ giúp nhổ con người ra khỏi cái lợi vật chất đặc sệt, nhưng chưa là tận cùng. Vì còn có thể tiến lên đợt an vi không còn cầu lợi hoặc tiếng tăm, hay để thoát hình phạt. Tuy tế vi hơn nhưng còn là lợi nên bám víu vào bái vật là ngừng đọng ở đợt hiện tượng đã được tế vi hóa. Chính vì tế vi nên nó có sức trì níu mạnh hơn: ở chỗ người hành đạo không thấy, không chú ý đến nó, nên ví nó được với loại siêu vi trùng rất khó gỡ, vì thế duy vật là bệnh phổ quát hơn người ta tưởng.

 

IV. VÔ VI ĐÁNH MẤT TÁC ĐỘNG TÍNH.

6. Để thoát khỏi nguy cơ duy vật thì nhiều đạo pháp đã đề nghị giải pháp chối bỏ cõi hữu hình: cho tất cả là "tuồng ảo hóa bày ra" chứ thực sự thế giới chỉ là huyễn tướng, là bào ảnh, là maya đừng để tâm bận đến thì sẽ giải thoát được .

Chưa biết có thực là tuồng ảo hóa chăng, chỉ biết chủ trương đó đã dẫn tới chỗ vô vi theo nghĩa đối chọi với hữu vi tức là không làm, trái ngược hẳn với bản tính con người là làm, là tác, là vi. Vậy là lối thoát này hỏng: nó chỉ có quyến dũ vì chống với cái hữu vi đặc sệt, chống lại sự bám trọn vẹn vào cõi hữu hình, cõi duy vật của triết học duy niệm mà tôi quen gọi là ý hệ, cùng lắm thì nó chỉ tạm dùng được cho những người xuất thế không phải lo ăn lo mặc, lo đến những mối nhân luân mà thôi, nhưng đó là ngoại lệ không thể đưa ra làm thông lệ, cho nên ta phải tìm về phía có vi, trong đó có hữu vi thuộc ý hệ.

 

Ý HỆ CHƯA VƯỢT TƯỢNG Ý.

7. Ý hệ là bước siêu vượt đầu tiên thoát ra khỏi vật thể hữu hình, thường bị ràng buộc trong bái vật: lo sợ âm phủ, cầu mong cõi tiên... Ở đây không còn lo sợ âm phủ, hay cầu mong được thưởng cái chi nữa, mà chỉ căn cứ trên ý niệm sự vật một cách khách quan. Đây là một bước tiến cần thiết đầu tiên trên con đường giải thoát, trước hết là vượt khỏi nanh vuốt các thần tượng, thường giam con người trong cõi cưỡng hành.

Nhưng trì diên lại ở đợt ý hệ hay tượng ý thì lại vẫn còn là duy vật chỉ khác nhẹ hơn. Vì tượng ý là hình ảnh sự vật nên bám vào nó là bám vào sự vật. Dấu hiệu bám vào là ý hệ, đó chính là hệ thống các ý niệm, nó có hại vì rất hẹp hòi độc hữu đến độ chối bỏ cõi linh thiêng, chối bỏ những gì giác quan không thấy, hay tệ hơn là dùng ý niệm đóng khung cõi vô biên.

Như vậy là đánh mất trọn vẹn bao quát tính của con người tức là nằm lì lại cõi tiểu ngã bé nhỏ Đã vậy không còn thể tiến, vì tự trong nền tảng nó thiếu tính chất năng động: bản tính của ý niệm là nằm nguyên như thế: nó ví như những hình chụp, chụp sao còn vậy; chụp lúc trẻ đến nay mình già mà hình vẫn cứ trẻ hoài.

8. Sự bất động cùng với sự bé nhỏ là hai tai họa gắn liền với ý hệ, cho nên nói đến ý hệ là nói đến cái gì hạn hẹp, mà đặc tính là một chiều, trong triết quen gọi là duy (isme) chỉ thấy có một khía cạnh. Khía cạnh đó như con tuộc rút tỉa hết năng lực và khiến trở nên như mù không còn thể xem thấy cái gì ngoài nữa, vì thế cuối cùng không khác với bái vật mà nó chống đối cực lực; nhưng mạnh chống mạnh chấp: nên cả hai đều bị lừa dối do một thứ siêu hình giả tạo giăng ra trước mặt như tấm vải đỏ trước con bò đấu, cứ nhằm đấy mà xông vào để tiêu hao sinh lực rồi sẽ ngã quỵ vì những mũi đâm của người đấu. Siêu hình của ý niệm, thu gọn vào sự suy niệm nên người ta quen gọi là người lý thuyết, thiếu làm ngược lại với bản tính người là tác hành luôn luôn phải có làm.
Vậy nên ý hệ cũng giống như bái vật đều là những trở ngại hết sức nghiêm trọng rất khó thoát vượt, vì có đã lâu đời ăn ruỗng bao thế kỷ triết học duy niệm. Sở dĩ người ta còn bám lấy nó: vì thực ra nó cũng là một bước cần thiết trên thang tiến hóa của loài người. Cái lầm không là tin tưởng vào ý niệm mà ở chỗ nằm lì lại đó rồi tuyệt đối hóa coi đó như tận cùng không nghĩ tới tiến thêm.

VI. CHỈ CÓ THỜI GIAN MỚI LA NỀN MÓNG CHÂN THỰC CỦA SIÊU HÌNH

9. Làm thế nào để thoát tai họa trên ?

Thưa trước hết phải thấy được sự hạn hẹp của ý hệ nên cần vượt qua. Sau là làm thế nào tìm ra cho siêu hình một nền tảng thực sự siêu hình siêu giác: mắt không thấy, tai không nghe, mũi không ngửi mà đồng thời lại có tính cách tác động mạnh mẽ và phổ biến, tác động khắp nơi không bao giờ ngừng nghỉ. Hỏi cái gì đáp ứng được hai điều kiện đó: vừa vô hình nhưng lại tác động.

Thưa đó là Chữ Thời. Chỉ có thời gian mới cung ứng đủ điều kiện cho một nền siêu hình xứng hợp con người nhân linh: Một là không ai thấy nó nên thực sự siêu hình nên cũng vô biên. Hai là nó tác động không ngừng nghỉ: cả hai đức tính đó đều hợp với bản tính con người được định nghĩa bằng tác động tính, vô biên tính. Vậy ngoài thời gian thì không cái chi chu toàn được hai đặc tính trên. Không ai thấy mặt mũi thời gian đâu cả, vì nó có mặt đâu để cho mà thấy. Thế nhưng nó tác động không ngừng nghỉ: hết đêm thì ngày, hết trưa rồi tối, không hề có week end. Thế là nó đáp ứng được cả hai điều kiện trên là vừa vô hình vừa tác động.

Ngược lại với thời gian là không gian nó vừa hữu hình vừa bất động, thế mà các triết cổ điển đều xây trên không gian nên đi ngược hẳn với các đức tính của con người là tác động và vô biên. Đó là lý do sâu thẳm giải nghĩa sự thất bại của các nền triết lý cổ điển. Có hơn chăng là hơn bái vật nhưng đối với cứu cánh con người thì những nền triết đó còn xa lắc xa lơ.

10. Thực ra xem trong lịch sử sẽ không thấy triết nào nói minh nhiên là đặt nền trên không gian, triết nào cũng nói đến chữ thời, nhưng nhìn toàn bộ xuyên qua những mục căn bản về vũ trụ quan, nhân sinh quan sẽ nhận ra liền nền tảng của chúng là không gian, vì nó thiếu hai đức tính căn bản của thời gian là vô hình (cũng là vô biên) và biến động. Nói bây giờ là vô biên theo nghĩa bao trùm mọi cái bây giờ, nhưng bây giờ lại luôn luôn đi tới như giòng nước chảy, như làn gió được cấu tạo nên do sư biến động. Đem hai đức tính đó áp dụng vào quan niệm về người về vũ trụ mà thấy thiếu thì biết là triết lý không xây trên chữ thời, tất không bao quát được trọn vẹn sự vật mà chỉ là duy nào đó, thì đấy là hai dấu đích thực nó không đặt trên chữ thời mà đặt trên không gian, có nói đến thời gian cũng chỉ là thời gian đã bị không-gian-hóa rồi tức là bất động hóa. Như vậy là không đáp ứng được điều hai là tác hành thì cũng là chứng tỏ đã đặt trên nền tảng bất động nhỏ hẹp, nên triết học tất nhiên là một chiều và hạn cục không thể đi vào đời sống con người vốn có vô biên tính cũng như tác hành tính.

 

VII. LỊCH SỬ LÀ MỘT DẤU CHỈ SỰ CĂN CỨ TRÊN CHỮ THỜI.

11. Vì hai đức tính nọ là của con người nên thường thường muốn kiểm tra triết có đặt trên chữ thời cùng không thì chỉ cần xem nó có đặt trên con người chăng, vì con người cũng có hai đặc tính như chữ thời là vô biên và tác động.

Cụ thể hơn nữa là phải xem con người sống trong lịch sử trải dài ra nhiều ngàn năm đã có những tác động nào, thì biết đấy là tính con người tự nội xuất phát chứ không do thuyết lý ngoại khởi, vì những việc đó có ở kia mà không ở đây, ở xưa mà không nay, rõ ràng là mệnh lệnh của triết học lý niệm sẽ không sống lâu được. Thí dụ Karl Marx đưa ra con người kinh tế, mới xem hữu lý quá, ai mà chả phải ăn. Nhưng con người không chỉ có ăn, nó còn bao gồm những khả thể vô biên mà không kể tới thì miếng ăn cũng bị hỏng luôn. Vì ăn chỉ là phần nhỏ, cái vô biên mới là phần lớn là đại thể. Cái đại thể kéo cái tiểu thể. Không kể đến đại thể thì con người đó chỉ là tiểu ngã ròng, con người lý thuyết, xa lìa thực tại. Đó là bởi nó không xây triết trên chữ thời, cụ thể là không quan sát người xuyên qua lịch sử mà chỉ dùng thời gian đã được không gian hóa tức chia ra bé nhỏ chặt ra dĩ vãng, hiện tại, tương lai. Đó chẳng qua chỉ là tự lừa đảo mình để hợp thức hóa tình trạng vong thân của con người, mà hễ vong thân là không đạt hạnh phúc, là đau khổ, vì không được sống cho con người ở đây và bây giờ trong xương trong thịt, nhưng phải cắm đầu chạy theo một cái tương lai chẳng bao giờ đến.

12. Đó là hậu quả của không gian vừa bé nhỏ vừa bất động. Đó cũng là hậu quả của những quan niệm bé nhỏ về con người, thí dụ người là con vật biết suy lý, là con vật chính trị, là con vật tôn giáo, là con vật lao động... Ngược lại siêu hình đặt trên thời gian thì tất chở theo những quan niệm mênh mông về con người: người là cái đức của trời của đất chung đúc lại mà làm ra. Theo đó thì trời là thời gian ta quen nói thời trời. Còn đất là không gian bé nhỏ có bờ cõi quen chỉ thị bằng những gì có góc cạnh như hình vuông. Như vậy quan niệm đó bao gồm cả những gì mênh mông như vũ trụ, đồng thời những gì bé nhỏ nhưng được gói ghém trong bầu khí biến động. Diễn ra cụ thể là con người đi trong lịch sử gắn liền với một thời điểm và không điểm nhất định, mà không là con người to vo cô độc trong quan niệm trừu tượng. Cho nên muốn biết thực sự về con người cần theo dõi con người trong những động ứng hợp hoàn cảnh và thường để dấu vết lại trong từ, tượng, số, chế. Xét về phương diện này thì khoa tử vi có thể đúng trên nguyên tắc tối cao, vì nó muốn căn cứ trên thời điểm xuất hiện của con người. Tuy nhiên trong thực tế thì quá diệu vợi vì trong một giờ có 60 phút, một phút có 60 giây với bao nhiêu không điểm dị biệt, nên việc xác định trở thành diệu vợi.

 

VIII. BẢO CHỨNG NỮA LÀ TRỌNG KINH NGHIỆM.

13. Một dấu hiệu khác tỏ ra siêu hình đặt trên chữ thời là quen đề cao kinh nghiệm coi trọng tuổi già (nơi tích lũy kinh nghiệm) thay vì học "siêu hình" thì bắt học lịch sử, Việt Nho bắt học cả Thi, Thư, Lễ, Nhạc coi đó là sự tích lũy của Minh triết. Đó cũng là đi theo chữ thời cách cụ thể vậy. Lý tưởng của siêu hình đặt trên chữ thời là lối sống trọn vẹn có thể gọi là hiện tại miên trường: hiện diện ở đây và bây giờ, tức vừa cụ thể (ở đây) nhưng lại bao trùm trường cửu (bây giờ). Đấy là một cử chỉ gọi được là an vi vì nó không bó kết vào mục tiêu nhỏ hẹp, nhưng tuân theo cái mẫu mực lớn lao mà Việt Nho gọi là Hồng Phạm. Một cử động mang tính chất An Vi là khi cố hiện thực cái Hồng Phạm cái mẫu mực cao cả bao gồm cả vô biên lẫn hữu hạn, nói bóng là cả tròn lẫn vuông. Hữu hạn hay vuông là những tác động cụ thể những công ăn việc làm. Còn vô biên chỉ bằng vòng tròn là lòng lâng lâng không bị bó chặt vào mục tiêu bé nhỏ. Đấy gọi là vuông được bao bọc bởi tròn. Việc bé nhỏ được bao trùm bằng ánh hào quang vô biên của mục tiêu lớn rộng là thành Nhân. Đó gọi là An Vi và đó là việc người hơn hết, việc biểu hiện tính chất con người thành bởi đức trời đức đất. Đức đất là những công việc ăn làm, những hành vi ngôn ngữ cụ thể nhỏ bé, nhưng được bao bọc bởi đức trời bao la là tâm hồn phóng khoáng không bị tù túng trong giới mốc của cưỡng hành với lợi hành.

14. Tuy lợi hành, cả cưỡng hành nữa, không thể bỏ hết, nhưng nếu nó nằm dưới quyền của an hành thì đời sống sẽ bước vào lối phong lưu của hiện tại miên trường tức con người vươn ra khỏi những ràng buộc bé nhỏ để tung bay trong khoảng bao la, để hòa đồng với trời, nói bóng là phong lưu (phong là gió thổi không ngừng, còn lưu là như dòng nước chảy miết) . Theo tỉ lệ lý tưởng thì phần phong lưu này (hiểu theo nguyên nghĩa vừa nói xong) phải chiếm ba phần theo câu "ba trời hai đất". Trong hiện tình con người gồm chín đất chưa chắc đã được một trời: nghĩa là bao nhiêu sinh lực, âu lo, lận đận phải để dồn hết vào việc tìm miếng ăn. Theo triết lý An-Vi thì đất chỉ được chiếm hai phần còn phải dành ba cho trời: bánh giầy (giời) phải ở trên bánh chưng; nhưng thực tế chỉ còn có bánh chưng nghĩa là duy vật... Muốn phản lại có người định vất cái bánh chưng đi như kiểu vô vi Ấn Độ: nhưng không xong, phải có bánh chưng là nền: có thực mới vực được đạo (miễn khi có thực rồi không được quên đạo) cho nên phải chấp nhận hiện tại (tức hoàn cảnh ở đây và bây giờ)

IX. HIỆN TẠI MIÊN TRƯỜNG.

15. Chấp nhận hiện tại là chấp nhận những phân biệt cụ thể: khởi sự tự gần, bắt đầu tự cái nhỏ, cái dễ. Đó là con đường lương tri tuy nhiên bị rất nhiều triết học từ chối. Thí dụ Lão Trang không chấp nhận những phân biệt giữa tốt xấu, dưới trên, xa gần, sống chết... Thiếu những cái đó làm chi có hiện tại, làm chi có quan điểm của con người mà chỉ có quan điểm vũ trụ theo đó thì mọi cái bé nhỏ ở đây và bây giờ bị xóa sạch.

Miên trường cũng bị chối bỏ, vì miên trường đòi phải có mẫu mực lâu dài bền bỉ mới làm nên cái miên trường. Và đó là văn hóa. Lão Trang không chấp nhận những mẫu mực để đề cao những sự tự nhiên đột khởi theo ngẫu hứng, chối bỏ học thuật, "tuyệt học vô ưu". Chối bỏ văn hóa tức là chối bỏ cái miên trường. Vì nói đến văn hóa là nói đến những dạng thức đã được nhiều người noi theo một quãng thời gian dài. Thời gian đó càng dài, số người theo càng đông thì văn hóa càng lớn theo đà. Con người cũng thế, thiếu mẫu mực đã được theo lâu dài thì không là vĩ nhân. Cái làm nên vĩ nhân không là những việc lớn nhất thời, những ý nghĩ thoáng qua, những cảm tình bồng bột, mà phải là sự trường cửu của những cái đó, chính sự trường cửu của hành động theo một mẫu mực kèm theo những cảm tình cao cả mới làm nên vĩ nhân chân thực. Đó cũng chính là đường đi lên cõi đại ngã.

16. Tuy nhiên có mối nguy hiểm trong sự "miên trường" đó là sự bóp chết cái luồng hứng khởi, những đợt sáng tạo ngẫu hứng tự nhiên, đó là những luồng sóng vọt ra tự cõi vô biên, tự trùng dương của muôn khả thể. Thế mà chính những cái hé nhìn, những cái đột khởi nọ là những đạo quân tiên phong trên con đường tiến hóa của con người, nếu ta tự ví mình với người đi bắt cá trên sông thì những ngẫu hứng, những trực thị là những đàn cá: từ bỏ những đột sáng, hứng cảm là từ bỏ không bắt cá. Đó là tội những người câu nệ, cố chấp bám chặt vào luật tắc. Nhưng nếu không có những dạng thức làm như giỏ để đựng cá thì lại như lo bắt cá mà không lo giữ cá. Cho nên chỉ đáng tên là hiện tại miên trường khi thể hiện được cả hai: Làm sao vừa giữ được phương thức mẫu mực (khoa học nghệ thuật ở đó) vừa đón nhận được những luồng sáng tạo mới. Đó là bài toán rất ít người giải đáp được. Triết lý An Vi đã đưa ra giải quyết tiên thiên lý thuyết với ba nguyên lý chỉ thị bằng các số 2-3-5 và phó sản là số 9 tạm được quảng diễn như sau:

X. PHÂN TÍCH HIỆN TẠI MIÊN TRƯỜNG THÀNH 3 CON SỐ: 2, 3, 5.

17. Số 2: là đặt mọi sự việc trong tương quan giữa hai hạn từ mà độ sâu hơn cả là giữa có với không, rồi thứ đến là giữa động với tĩnh. Vì đó là đợt cao nhất bao gồm tương quan của mọi cặp đôi khác như sáng tối, đất trời, tiểu đại, cứng mềm, đực cái... tóm lại là khắp vũ trụ bởi vì không vật nào nằm ngoài sự giằng co đối đáp đó nên bao la vô cùng, không đâu không có, đến nỗi nói được rằng không nền văn hóa nào không có những thần thoại bao gồm cặp đôi, y như không có nhóm người nào mà không có nam có nữ, không đâu không có đất thấp trời cao, sáng tối, ngày đêm, trong ngoài, lành dữ... Chỉ khác là chúng có đó ở đợt lương tri thường nghiệm mà không được một ý thức sâu sắc nào nâng lên bậc nguyên lý, nâng lên bậc cơ cấu như với triết lý An Vi, nên các triết thuyết đó không có tương quan động tĩnh, tương duyên, mà chỉ có hoặc duy động hoặc duy tĩnh vì vậy chỉ có tiểu ngã chứ không có Đại Ngã. Vậy số 2 là căn bản mở đầu cho mọi đức tính cao cả khác. Đó gọi là nét song trùng căn cơ đưa lại cho con người một tác động xứng với bản tính tác hành và vô biên của con người : nó đặt con người vào một tình trạng vô cùng khó khăn nhưng bó buộc phải làm xong, phải tham dự rất mạnh mẽ, nếu không sẽ nghiêng sang một bên rồi mất nhân tính mà dấu bề ngoài là muôn vàn phiền lụy tự bệnh hoạn khổ đau cho đến các thứ tai ương xã hội mà then chốt là chuyên chế với thuyết lý duy vật. Quan trọng ở chữ duy: duy tâm hay duy vật cũng đều gặp nhau ở duy, mà bản chất duy là nguyên lý đồng nhất, xóa bỏ biến động, xóa bỏ mọi dị biệt là căn nguyên của sự phong phú, nên các chính thể chuyên chế đều ưa những thứ duy này: duy nào cũng được: tâm hay vật không mấy quan trọng, hễ đã duy là sẽ đưa đến chuyên chế, đưa đến ngưng đọng, đưa đến đồng đều. Đến đây ta nhận ra vai trò của số 3.

18. Số 3 đem sự biến động đặt vào con người nơi thâm sâu đến độ sự biến động trở nên tính chất nền móng của con người. Nói theo Việt Nho thì người là một Tài trong ba Tài là Trời, Đất, Người. Trời đất như hai hạn từ (terms) hay là hai đối cực mà tương quan là con người, con người xuất hiện như tương quan giữa trời cùng đất. Đây là một tuyên ngôn quá vĩ đại nên biết bao học giả không dám xét tới, hoặc coi khinh. Học giả James Legge cho là dại dột. Bình luận thế vì ông đứng ở quan niệm triết lý bản thể, nên hiểu theo nghĩa người cũng có bản tính cao cả to lớn như trời cùng đất, nếu thế thì Tam Tài quả là điều tầm bậy. Nhưng đứng vào quan điểm năng động, định nghĩa con người là một tác năng thì không có gì là "phạm thượng" vì cái chi con người cũng phải làm ra, cũng phải tạo dựng lấy: từ nghệ thuật, thi, ca, nhạc, khoa học, tinh thần đều phải tự tay tạo dựng: tất cả đều phải là sản phẩm của nhà làm ra...

19. Xét về phương diện ấy thì con người quả là một tác nhân như đất trời, nên cũng gọi là tham thông tức con người thông với trời cùng đất. Chữ tham có nghĩa là cả ba (tam) tham dự với nhau: đây là người tham dự với trời cùng đất. Trời cho con thịt, người tham dự vào bằng cách xào, rán, bó giò, làm gỏi. Cũng là tình người mà làm ra biết bao liên hệ nào vợ chồng, cha con, vua tôi, nào lễ, nghĩa, liêm, sỉ... Nhân chủ ở tại chỗ tham dự nọ. Vậy phải xét theo quan niệm hành động của con người mới đúng thuyết Tam Tài, thấy không có việc nào của con người không liên hệ với trời đất. Nói cụ thể là tùy nơi tùy thời. Một việc tốt là một việc do người làm ra ở một lúc xứng hợp, trong một nơi thích đáng: "the right man in the right place at the right time" nói kiểu triết thì một việc phải có cả "thiên thời, địa lợi, nhân hòa" mới là tốt: công việc nào cũng phải nương theo thời và nơi thì tất phải dành cho con người một chỗ để quyết định thời và nơi ấy. Đó gọi là thuyết Tam Tài. Hậu quả trên đợt triết là thuyết Tam Tài giúp tránh được tai họa định mệnh: cái chi cũng phó mặc cho trời. Còn đây thì "có Trời mà cũng có Ta". Vì vậy không là cưỡng mệnh cũng không định mệnh mà là thiên mệnh được hiểu là Tính con người, nên thường nói: "tận nhân lực nhi qui thiên số": Thiên số đã vậy mà cũng không quên địa hay duy địa: không kinh tế chỉ huy tất cả con người vì còn có những cái cao hơn nhiều như tình và lý. Minh triết ở tại xếp đặt các yếu tố đó cho hòa hợp: cho cao trên thấp dưới để không có duy nào hết: nhân chủ là vậy.

20. Ngoài ra quan niệm Tam Tài còn là con đường tốt nhất để dẫn đến chỗ trọn hảo: người tốt là gì, là người nghĩ đến việc theo đuổi cái tốt cho mình, mà cũng luôn cho người khác, ít nhất không gây hại cho tha nhân. Lý tưởng là cảm thức được nhân loại tính ở cùng khắp nơi để nói được là "vũ trụ nội mạc chi phận sự" không gì tôi không tham dự: nếu vừa tầm sức thì tôi làm hết mình, nếu vượt quá tầm sức tôi thì tôi cũng vẫn tham dự bằng cả ý, tình, chí tức chấp nhận cách thành khẩn: vì đó cũng là tham dự vào kiểu cách con người tức bằng tán thành tận tâm. Như vậy cũng là sáng tạo ra cái gì riêng của mình làm như ấn tích mình ghi trên những cái vượt sức, tức mình không những chấp nhận mà còn thành thực mến yêu, đó gọi là amor fati, không mất chút thì giờ nào vào việc trách trời trách đất, trách người: "bất oán thiên, bất vưu nhân". Nhờ thế vẫn nói được rằng việc đó là của tôi, vũ trụ của tôi, trong đó tôi có phần đóng góp.

21. Số 5. Đây là bộ phạm trù lớn lao của thời gian, không gian quen gọi vắn tắt là ngũ hành. Chính ngũ hành làm cho ra cụ thể hai chữ thời không quá trừu tượng. Nó cụ thể hóa bằng cung ứng cho một cơ cấu nền tảng trên hết mọi cơ cấu. Nhờ vậy nó giúp giải quyết không biết bao là vấn đề rắc rối trong triết để đưa đến chỗ hiện thực bản tính trung thực của con người. Vấn đề rắc rối sâu xa hơn hết trong triết là vấn đề hữu hay vô, hoặc nhất hay đa. Vũ trụ là nhất hay đa, vạn vật nhất thể hay đa thể. Chủ trương nhất như Ấn Độ hay Lão Trang thì chối đa tạp biểu lộ bằng không nhận phân biệt cao thấp, tốt xấu, sống chết... Nếu chủ trương đa thì chỉ biết có những vật trong hiện tượng, gọi là duy-vật-thể (chosisme) hoặc hình thức quen thuộc hơn là duy vật (materialisme). Đó là đẩy vô thể ra khỏi cặp đôi hữu vô tương sinh. Nói thấp xuống một bậc là đẩy trời ra khỏi đất, đẩy thời gian ra khỏi không gian. Áp đặt vào người là đẩy vô biên tính ra khỏi con người, tức vất bỏ linh thiêng tính của nó. Nói ngũ hành cũng là nói âm dương, không có, đất trời, thời không... Tuy nhiên nói thế rất có thể mới ở đợt lý trí mà không đi vào cơ cấu, thì rồi tuy miệng nói ra thế nhưng lại mâu thuẫn với mình liền, như Lão Trang chỉ nhận có chung mà thiếu riêng, nhận có trời mà thiếu người. Vì thế cần gắn liền ngũ hành vào cõi nhân sinh bằng ngũ luân (vợ chồng, cha con, vua tôi, anh em, bè bạn) và ngũ thường (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín). Đó là cụ thể hóa ngũ hành để nó dễ ăn nhập vào mọi việc.

22. Do đấy mà đem hình Việt Tỉnh tức hình ngũ hành nguyên thủy là kép lên thành Hồng Phạm cửu tru : Hồng Phạm là cái _g_ư_ơ_n_g_ _m_a__u_ _c_a_o_ _c_a__ _r_o__n_g_ _l_ơ__n_ _v_o__ _b_i_e__n_ _đ_ư_ơ__c_ _t_ư_ơ__n_g_ _t_r_ư_n_g_ _b_a__n_g_ _t_r_u__ _ơ__ _g_i_ư__a_._ _M_o__i_ _o__ _v_u_o__n_g_ _l_a__ _m_o__t_ _t_r_u__,_ _c_h_í_n_h_ _c_h_ư__ _t_r_u__ _l_a__ _b_ơ__ _c_o__i_._ _T_r_u__ _t_r_u_n_g_ _ư_ơ_n_g_ _g_o__i_ _l_a__ _v_o__ _b_i_e__n_ _v_ì_ _q_u_a__ _t_h_ư__c_ _n_o__ _k_h_o__n_g_ _c_o__ _b_ơ__ _c_o__i_._ _N_e__u_ _t_a_ _l_a__y_ _8_ _t_r_u__ _(_qð)_ _r_ơ__i_ _r_a_ _k_h_o__i_ _H_o__ng Phạm thì trù (ô) giữa biến mất. Vì thế cái "trù" giữa gọi là vô hình, vô biên, vô cùng tận. Chính sự vô biên đó mới làm trọn vẹn con người, mới đem lại cho con người hạnh phúc chân thực gọi là Việt Tỉnh tức ví như cái giếng thiêng luôn chảy nước ra linh nhuận mọi việc. Việc nào làm theo hướng đó thì sẽ trường tồn, sẽ tạo niềm an lạc, gây hạnh phúc, nên gọi là nước cam tuyền (tuyền là giếng gợi ý do chữ giếng ẩn trong khung hồng phạm). Do đấy trong huyền sử nước Việt mới có truyện Việt Tỉnh Cương tức nói đến đạo lý, cái mẫu mực đem lại an vui, hạnh phúc. Việt Tỉnh Cương cũng gọi là Cửu Lạc vì nó đem lại cho thân tâm một sự an lạc do sự quân bình nội khởi làm cho tâm hồn trở nên an nhiên tự tại. Theo quan niệm cổ xưa thì bệnh hoạn phát xuất do sự chênh lệch của khí huyết. Lập lại được sự quân bình là khỏi bệnh.

Trên cấp siêu hình cũng có một sự bình quân siêu tuyệt gọi là "quân thiên" = heavenly equilibrium, khi nó chỉ huy toàn bộ thân tâm thì sẽ đem lại sức mạnh làm cho sống hết tuổi đời cách đầy đủ an vui như được uống nước cam tuyền tự trong lòng mình luôn luôn trào vọt. Chính bản gốc con người là vô biên tính, những cái làm nên khác biệt của con người không là những cái hữu hình, hữu hạn, trặt trờ ra trước mắt, mà là những cái vô hình, vô tượng, vô thanh, vô xú, những tình cảm bao la, những ý nghĩ quảng đại, những động cơ cao viễn, có đáp ứng được những cái vô hình đó mới là chí thành: tức thành con người trung trực trọn hảo.

XI. TÓM LƯỢC

23. Tóm lại ba nguyên lý nền tảng trên là:

* Âm dương đặt con người vào nhất thế với vũ trụ: cả ba cùng một tác động như nhau: không gì không là âm dương. Một vũ trụ quan toàn diện gồm cả thời gian lẫn không gian.

* Tam tài một nhân sinh cao cả đặt con người ngang hàng với trời đất trong phương diện tác hành và tạo dựng, khác hẳn con vật, con vật chỉ dùng sự vật phác tố y nguyên. Con người thì khác, nó lập lại, làm ra của mình, trong ba nhu yếu thâm sâu: thực, sắc, diện đều có tham dự vào hết nếu không trong cơ cấu thì cũng trong văn sức ngoại diện.

* Ngũ hành là tâm linh sử quan có giá trị vô biên ở chỗ cơ cấu hóa được cái vô thể. Biến vô thể trừu tượng của Ấn Độ, vô thanh của Nho thành ra cái Trống được tiêu biểu trong trống đồng, còn thực tế là đạo đi vào đời tránh được nạn chỉ biết có đời, có hiện tượng như các triết xây trên hữu thể hoặc chỉ biết có vô xây trên vô thể thái hư. Ngũ hành đã thành công đưa ra được nền triết lý dung nhiếp cả có lẫn không. Xếp những cái có bé nhỏ quanh cái không vô biên để cái Không trở nên đạo trống. Trống là trống không của lòng trống rỗng được tạo dựng nên do cái tang trống. Vậy trống đồng là kết tinh của tứ quí, tứ quí mượn của bốn mùa mà có, y như trù trung ương (trong Hồng Phạm) phải mượn bờ cõi tám trù chung quanh mà thành, thì trống thể của trống đồng cũng mượn cái tang của trống mà Trống nghĩa là không ai thấy, nhưng lại tác động ở đợt căn cơ mở đầu cho mọi công cuộc. Các lễ hội Việt bao giờ cũng mở đầu bằng 3 hồi 9 tiếng trống là thế.

 
  Xem tiếp...




Trang mạng Việt Nam Văn Hiến
Trang Kim Định
www.vietnamvanhien.net
email: thuky@vietnamvanhien.net

Trang mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi lưu trữ và phổ biến di sản văn hóa của Việt tộc

Trở lại đầu trang