Việt
Nam
Văn
Hiến
Năm
Thứ 4888
www.vietnamvanhien.net
NGÀY GIỖ TỔ
ĐÔNG
BIÊN
Dù ai đi
ngược về xuôi,
Nhớ
ngày
Giỗ
Tổ mùng 10 tháng 3.
Giỗ Quốc Tổ, gọi tắt là Giỗ Tổ, là một
đặc thù của nền Văn Hiến Việt Nam. Trên thế giới có
lẽ ít có dân tộc nào nhớ đến ngày giỗ
tổ hay nói đúng ra là nhớ đến tổ tiên, người
đã sáng lập ra đất nước, giống nòi như người Việt
Nam.
Truyền thuyết kể rằng Tổ Phụ Lạc Long Quân lấy Tổ Mẫu Âu Cơ
sinh ra 100 con, 50 con theo Cha xuống biển, 50 con theo Mẹ lên
núi và con cả được truyền ngôi lấy hiêu
là Hùng Vương. Thường thường nói đến giỗ Tổ
là nói đến giỗ Tổ Hùng Vương. Nhưng niên
hiệu lập quốc là năm 2879 tr.CN, thời Kinh Dương Vương, người
sáng lập ra họ Hồng Bàng.
Kinh Dương Vương lấy Long Nữ sinh ra Lạc Long
Quân. Lạc Long Quân lấy Âu Cơ sinh ra Hùng
Vương. Hùng Vương là cháu đích tôn
của Kinh Dương Vương. Giỗ Tổ vì vậy phải là giỗ Tổ Kinh
Dương Vương. Trong thời khai quốc, Kinh Dương Vương, Lạc Long
Quân, Hùng Vương đều là những Tổ Phụ quan trọng của
nòi giống Lạc Hồng. Giỗ Tổ vì thế nên cũng nhớ đến
các Tổ Phụ Tổ Mẫu thời khai quốc, không nên chỉ nhớ
đến Hùng Vương không mà thôi.
Lễ Giỗ
Quốc Tổ có từ bao giờ
? Không thấy sử sách truyền
lại,
nhưng có lẽ đã có từ rất lâu đời, từ thời
còn nước Văn Lang. Trong thời Bắc thuộc lễ Giỗ Tổ hẳn là
bị cấm, hơn nữa đất nước bị mất chủ quyền, không còn cấp
lãnh đạo quốc gia để cử hành lễ Giỗ Tổ. Từ khi
dành lại được chủ quyền, triều đình các triều đại
nối tiếp nhau đã cử hành lễ Giỗ Tổ tại lăng miếu
Hùng Vương, tỉnh Phú Thọ. Hằng năm đến ngày Giỗ
Tổ, triều đình đều cử quan thay mặt vua tới đền Hùng
cúng tế long trọng.
Tại
sao
lại
chọn
ngày mùng10
tháng 3 âm lịch để làm ngày Giỗ Quốc Tổ ?
Mỗi năm đến ngày
mùng 10 tháng 3 âm lịch, dân ta lại tưng bừng
cử hành lễ Giỗ Quốc Tổ. Tiền nhân đã chọn
ngày mùng 10 tháng 3 để Giỗ Tổ là có
tính toán có chủ đích, vì
ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch có
liên quan đến quan niệm Vũ Trụ Quan đồ sộ
mà Tiền Nhân từ thời khai quốc đã để lại.
Ngày Giỗ Quốc Tổ nhằm vào mùng 10
tháng 3 thường được giải thích cho đó là
ngày Tiên tháng Rồng, nhắc nhở đến nguồn gốc
Tiên Rồng của Âu Cơ và Lạc Long Quân. Lời giải
thích đó, xét ra không mấy thuyết phục.
Tháng 3 là tháng Thìn cho là
tháng Rồng là đúng, vì Thìn
là rồng. Còn ngày mùng 10 gọi là
ngày Tiên vì cho ngày đó là
ngày Dậu, Dậu là Gà, gà thuộc loài
chim, biểu tượng cho Tiên. Nhưng mùng 10 tháng 3
không phải năm nào cũng trùng vào
ngày Dậu, như năm Ất Dậu 2005, ngày mùng 10
tháng 3 nhằm vào ngày Nhâm Thân, năm
Bính Tuất 2006, ngày mùng 10 tháng 3 nhằm
ngày Bính Dần. Như thế giải thích ngày
mùng 10 tháng 3 là ngày Tiên
tháng Rồng không mấy thích hợp.
Phải tìm lối giải thích khác cho
hợp với chủ đích của Tiền Nhân đã chọn ngày
mùng 10 tháng 3 làm lễ Giỗ Tổ. Thử tìm về
cơ chế Lý Số để tìm hiểu ý nghiã
ngày Giỗ Tổ.
Ngày Giỗ Tổ mùng 10 tháng 3
liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ Hành, Lịch
pháp, Lạc Thư Hà Đồ, Hồng Phạm Cửu Trù và
Dịch số:
Lịch
Pháp :
Tháng
3
là
tháng thứ 5 của Lịch pháp, thuộc
tháng Thìn.
Âm Dương : Số 10 thuộc độ
số Âm, 10
chấm đen trong trung cung Hà Đồ.
Âm tượng cho Tiên.
Số 5 thuộc độ số Dương, 5 chấm trắng trong trung cung Hà Đồ.
Dương tượng cho Rồng.
Ngũ
Hành: Trung
cung
Hà
Đồ
thuộc
hành Thổ. Thổ màu vàng, màu của
quân vương.
Lạc Thư
Hà Đồ :
Độ
số
5
và 10 thuộc trung cung Hà Đồ.
Hồng Phạm
Cửu Trù :
Trù thứ
5 của Hồng Phạm Cửu Trù là Hoàng Cực, chỉ
ngôi vua
ở nơi cao nhất và các đức tính phải noi theo trong
việc trị nước.
Như vậy :
Tháng 3 là tháng Thìn,
tượng cho Rồng, Rồng chỉ sức mạnh của thiên nhiên, vũ trụ.
Rồng là biểu tượng cho vương quyền. Rồng, nhớ đến Lạc Long
Quân.
Tháng 3 gọi là tháng Thìn
vì tính từ tháng Tý bắt đầu từ tháng
Một (11) năm trước, đến tháng 3 là đúng 5
tháng, ứng với độ sộ 5 của Trung cung Hoàng cực Hà
Đồ.
Ngày mùng 10 ứng với độ số 10 Âm
của Trung cung Hoàng cực Hà Đồ.
Tháng 3 ứng với độ số 5 Dương của Trung cung
Hoàng cực Hà Đồ.
Tháng có trước nên ứng với số Dương
5.
Ngày có sau nên ứng với số Âm 10.
Đó là nguyên lý mà Tiền
Nhân đã chọn ngày mùng 10 tháng 3
làm ngày Giỗ Tổ.
Xin xem bản minh họa dưới đây để nắm vững ý nghĩa :
Lịch
Pháp
Tháng một-11
|
Tháng chạp-12
|
Tháng giêng
|
Tháng hai
|
Tháng ba
|
Tý
|
Sửu
|
Dần
|
Mẹo
|
Thìn
|
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
Một năm tính theo thập
nhị địa chi (12) thì tháng Tý bắt đầu từ
tháng Một (11) năm trước. Tháng Chạp (12) là Sửu.
Tháng Giêng là Dần. Tháng Hai là Mẹo.
Tháng Ba là Thìn. Tháng Tư là Tỵ.
Tháng Năm là Ngọ. Tháng Sáu là
Mùi. Tháng Bảy là Thân. Tháng
Tám là Dậu. Tháng Chín là Tuất.
Tháng Mười là Hợi và tháng Một là
Tý….
Tháng Ba là Thìn, nhằm tháng thứ 5
tính theo Thập nhị địa chi.
Trung
Cung Hà Đồ
2-7
Hỏa
2
|
7
|
4 Kim
|
3
|
5 – 10
Thổ
|
9
|
Mộc 8
|
1
|
6
|
1-6
Thủy
Số 10 của Trung cung Hà
Đồ thuộc Âm vì có 10 chấm đen, lấy làm
ngày.
Số 5 cùa Trung cung Hà Đồ thuộc Dương vì có
5 chấm trắng, lấy làm tháng.
Số chẳn là Âm. Số lẻ là Dương.
Dịch
số : Số 10 ở
trung cung Hà Đồ thuộc Âm. Âm ở Dịch là Quẻ
Khôn. Quẻ Dịch chỉ có 6 hào nên lấy
hào 5 ( vì 2 x 5 = 10 ) để đoán quẻ.
Hào 5, Lục Ngũ của Quẻ Khôn (6/5), hào từ
nói : Hoàng thường, nguyên cát.(Mặc
xiêm
vàng
sẽ
được đại lợi). Màu vàng thuộc
Thổ, màu của quân vương. Mặc xiêm vàng
ý nói bậc quân vương mặc màu
vàng.
Số 5 ở trung cung
Hà Đồ thuộc Dương. Dương ở Dich là Quẻ Càn (Kiền).
Hào 5 của Quẻ Càn là hào Cửu Ngũ (9/5).
Hào từ nói : Phi long tại thiên, lợi kiến đại
nhân. (Rồng bay trên trời, nên gặp đại
nhân). Đây là hào rất tốt xưng tụng
quân vương như rồng bay trên trời. Cửu Ngũ chỉ ngôi
vua.
Mùng 10 tháng 3
(tháng thứ 5) theo Dịch là Quẻ đại cát : Địa
Thiên Thái.
Mùng 10 thuộc Âm, Quẻ
Khôn |
___ ___
___ ___
___ ___
|
Tháng thứ 5 (tháng 3) thuộc Dương, Quẻ
Càn |
______
______
______
|
Khôn trên Càn dưới là Quẻ Địa
Thiên Thái. Thiên địa giao thái(Trời
đất
giao
hòa).
Thoán từ nói : Thái,
tiểu vãng, đại lai, cát hanh. (Âm
tiêu Dương trưởng, tốt đẹp, thuận lợi). Thái là
thông xuốt. Đất ở trên chìm xuống, trời ở dưới vươn
lên. Hai khí giao hòa làm cho vạn vật sinh
trưởng, đất nước hanh thông. Nội Dương ngoại Âm, nội kiện
ngoại thuận, nội quân tử ngoại tiểu nhân.
Ngày Giỗ Quốc Tổ mùng
10 tháng 3 đã làm chuyển động cả hệ thống Vũ Trụ
Quan, Nhân Sinh Quan từ Âm Dương, Ngũ Hành, Lạc Thư.
Hà Đồ, Lịch số, Dịch số và Hồng Phạm Cửu Trù. Tiền
nhân đã chọn ngày 10 tháng 3 mừng lễ Giỗ
Quốc Tổ là để xưng tụng công đức của Tổ Phụ, ca tụng
ngôi Cửu Ngũ Hoàng cực của Quốc Tổ. Chọn ngày
mùng 10 tháng 3 làm ngày Giỗ Tỗ là
để đem lại cho quốc thái dân an, cho nòi giống Lac
Hồng mãi mãi trường tồn cùng sông núi.
Chọn
ngày
mùng
10
tháng 3 làm ngày Giỗ Tổ, tiền nhân chứng tỏ
hệ thống Lý Số Vũ Trụ Quan, Nhân Sinh Quan từ Thái
Cực, Âm Dương, Ngũ Hành, Lạc Thư, Hà Đồ, Lịch
pháp, Dịch Số, đến Hồng Phạm Cửu Trù là của Việt
tộc do các bậc Thánh nhân dòng Việt
sáng tạo ngay từ thời thượng cổ, thời lập quốc.
Mỗi năm đến ngày Giỗ Tổ, con
cháu Lạc Hồng thành kính dâng lễ vật, ca
tụng công đức Tổ Tiên để nhớ công ơn các
Ngài, ra sức giữ gìn toàn vẹn lãnh thổ, đưa
đất nước đến phú cường thịnh vượng, làm vẻ vang
nòi giống. Quốc Tổ đã để lại một giải non sông gấm
vóc này cho toàn dân, mọi người đều
bình quyền, không một ai hay một tổ chức nào
có quyền tự nhận là chủ nhân độc quyền bắt người
khác phải phục tùng như tôi tớ nô lệ.*
Đông
Biên
Nguồn: http://www.taphopdongtam.org
Tìm ẩn số
Tiên Rồng
. . ?
qua
ngày
giỗ
Tổ
Hùng Vương
Biên khảo : Trần Hạ
Tháp
|
Từ lâu, lễ hội đền
Hùng đã trở thành truyền thống dân tộc :
"Dù ai đi ngược,
về xuôi..."
"Nhớ ngày giỗ Tổ
mồng mười tháng ba"
Đã là con
dân nước Việt, hiển nhiên không thể nào
lãng quên ngày hết sức đặc biệt ấy. Như cuộc hẹn
thường niên, ngày để tất cả chúng ta nghiêm
cẩn, đem hết tấm lòng thành cùng hướng về cội
nguồn, vùng phát tích uy linh...
Là một ngày
kỳ diệu, bất chấp mọi biên giới - đang hoặc đã - tồn tại
trong các dòng nguồn tâm thức Việt...Từ ý
thức hệ, cho tới tôn giáo, địa phương, sắc tộc, giới
tính, và ngay cả các giai cấp xã hội,
thân phận sinh tồn...Hết thảy - dẫu chỉ có hướng tâm
về, hoặc bằng chính bước chân thật sự - đều tạm quên
đi mỗi "cái tôi" riêng lẻ, mỗi thân thế thăng
trầm để gặp nhau trong cuộc hành hương về cội nguồn dân
tộc.
Trong
không-thời-gian-vĩnh-cửu ấy, dù chỉ một ngày, ngay
dưới chân anh linh chư Tổ : Kinh Dương Vương, Lạc Long
Quân, Âu Cơ và Thập bát thế Hùng
Vương...Thêm lần nữa, bạn hãy nghe về huyền sử Rồng
Tiên ? Vâng, mồng mười tháng ba. Những con số ngỡ
như hết sức ngẫu nhiên ấy - thực ra - với tôi, chưa hẳn
đã không ngầm nói lên điều cao sâu,
huyền nhiệm...
Núi Nghĩa Lĩnh,
nơi dường như để hậu duệ muôn đời sau biết choáng ngợp
trước tầm cao của liệt tổ liệt tông. Là cơ hội để ai nấy
đều cảm nhận sự thấp kém, cần hướng thượng của chính
mình khi phải đến lúc quay lưng. Hạ sơn, bước thấp dần
xuống núi...
Nếu chưa lần cảm nhận
điều hiển nhiên ấy cũng có nghĩa, ta mất đi cơ hội để
có thể soi lại và cải thiện những ý nghĩ sai lầm,
rất có thể đã bắt nguồn từ tâm thức kiêu mạn.
Vâng, Nghĩa Lĩnh thật sự là
đền-đài-của-mọi-đền-đài trên tổ quốc. Là
biểu tượng về đạo-đức-trước-hết-mọi-đạo-đức-Việt-Nam. Đạo lý cội
nguồn Việt - trên hết - để kẻ đời sau thể hiện khi hành
hương, đặt chân lên Nghĩa Lĩnh, phải chăng ? Là thật
sự cúi đầu kính ngưỡng trước khí thiêng
sông núi, trước anh linh chư Tổ từng hiển hiện mấy
ngàn năm oanh liệt. Là nơi, cụ thể nhất để chúng
ta hiểu thế nào là cảm xúc thực về hai tiếng
"Ngàn thu".
Trước ý nghĩa vĩ
đại của đền Hùng, không thái độ tôn vọng
nào bằng chính sự im lặng thành khẩn trong mỗi tự
thân hậu duệ. Là lúc tự nhìn rõ hơn,
cái bóng chính ta - với gang tấc hữu hạn thế kia -
cũng chỉ hân hạnh được nhập nhoà phút chốc
bên sườn non vĩnh cửu. Lịch sử với những bước đi thăng trầm từng
chuyển biến đến khôn lường, song khi ngược thời gian để
tìm về nơi xuất phát, tất cả đều đồng quy nhất thể...Nhất
thể trong ẩn số của Rồng Tiên.
Vâng, không
mãi đắm chìm vào khói sương huyền sử để
có thể - bạn cùng tôi - nhìn rõ hơn
hai con số giản đơn..."Mồng mười tháng ba". Ngày giỗ Tổ
Hùng Vương.
Lịch pháp
và khâm thiên giám, hoặc các cơ quan
có phần vụ tương đương - chuyên quan trắc thiên văn
càn tượng, địa lý phong thuỷ - của nhiều triều đại lớn ở
viễn đông (từ ngang nhà Châu trở xuống) đã cố
định vào tháng đầu mỗi năm là tháng kiến
dần. Và lần lượt, vì thế nguyệt kiến cho 12 tháng
mỗi năm được lưu hành tuần tự :
Tháng giêng
: kiến dần
Tháng
hai : kiến mão
Tháng
ba : kiến thìn
Tháng
tư : kiến tỵ
Tháng
năm : kiến ngọ
Tháng
sáu : kiến mùi
Tháng
bảy : kiến thân
Tháng
tám : kiến dậu
Tháng
chín : kiến tuất
Tháng
mười : kiến hợi
Tháng
(mười) một : kiến tí
Tháng
chạp : kiến sửu
Giỗ Tổ tháng ba -
tháng kiến Thìn. Tháng đã lấy hình
tượng Rồng làm tiêu biểu. Linh vật tôn quý
tối cao, một trong Thập nhị địa chi(mười hai con
giáp...Cách nôm na, người bình dân
thuờng gọi).
Địa chi hội ý
trên mặt đất, nơi con người sinh ra để kết nên xã
hội, nhân quần. Biểu tượng Rồng trong loài người
còn có nghĩa vua hay hoàng đế. Vị quốc chủ đứng
đầu một cõi để gìn giữ sơn hà, mở mang đất nước.
Người bảo vệ tận tuỵ để xứng đáng được cai quản muôn
dân.
Biểu tượng Rồng, tất yếu
còn đi đôi "long đức". Để gánh vác
thành công tất cả những trọng trách, bậc quốc chủ
phải đích thật đem âu ca hoan lạc và rưới nhuần ơn
mưa móc khắp nơi. Câu "Kiến long tại điền" hào từ
trong quẻ thuần càn, tiêu chí phổ thông để
đời sau khẳng định về "long đức"cơ bản nhất của một bậc quốc chủ...
Điền, là ruộng rẫy
đất đai, cương thổ. Thứ vốn liếng tạo dựng nên bằng máu
xương thế hệ, là sinh lực chủ chốt của đại bộ phận con dân
dưới bóng của vì quốc chủ ấy. Hơn thế, đấy còn
là danh dự chung dân tộc. Là
lý-lẽ-của-mọi-lý-lẽ để cuối cùng thần phục được
nhân tâm.
Lạc Long Quân,
người mở đất vĩ đại. Kẻ miệt mài đi tìm về phía
biển. Nơi cuối cùng của trăm sông giao hội, đổ về. Nền
nông nghiệp lúa nước hoặc ngay cả việc chài lưới
đều tựu trung vào chữ "thuỷ". Chữ mà loài Rồng gắn
bó.
Rồng, xứng danh và
oanh liệt khi vẫy vùng trên mặt thuỷ...
Rồng, vì vậy
không thể không hướng mình về biển cả mênh
mông.
Nhiệm vụ hay "long đức"
tiên quyết của bậc quốc chủ vĩ đại nhất dân tộc căn bản
đã hoàn thành. Lạc Long Quân vị vua Rồng về
phía biển, lên đường...Đấy chính là mẫu mực
đi trước, làm tin cho nòi giống Lạc Việt biết noi theo
tiên tổ.
Ngày giỗ Tổ - mồng
mười - còn mang ý nghĩa nào đặc biệt ?
Học thuật thiên văn
cổ phương đông chia vòng hoàng đạo trên bầu
trời tương ứng 28 chòm sao...Nhị thập bát tú : 1.
Giốc, 2. Cang, 3. Đê, 4. Phòng, 5. Tâm, 6. Vĩ, 7.
Cơ, 8. Đẩu, 9. Ngưu, 10. Nữ, 11. Hư, 12. Nguy, 13. Thất, 14.
Bích, 15. Khuê, 16. Lâu, 17. Vị, 18. Mão, 19.
Tất, 20. Chuỷ, 21. Sâm, 22. Tỉnh, 23. Quỷ 24. Liễu, 25. Tinh, 26.
Trương, 27. Dực, 28. Chẩn.
Chòm sao Nữ theo
thứ tự, ứng vị trí thứ 10 ngay trên vòng
Hoàng đạo. Đấy là chòm sao trong Nhị thập
bát tú mang thêm biểu tượng thứ hai hết sức đặc
biệt - người nữ. Thông thường, sao Nữ cũng như 27 chòm sao
khác, chỉ để biểu tượng các con vật như dơi, gà,
khỉ, vượn...Đa số được đặt tên dựa theo phần hình dạng
tương đối của chòm sao.
Thiên văn cổ,
chuyên quan sát các hiện tượng của bầu trời.
Các phân dã tương ứng dưới mặt đất, qua các
chòm sao liên hệ là một trong bốn học thuật
chính được kết hợp để các bậc đại trí dự
báo lẽ thiên cơ (Dịch độn, Đẩu số, Thiên văn
và Phong thuỷ ). Sao Nữ hay "người nữ trên trời"
hàm ý bậc Tiên nương, Tiên nữ.
Ngày mồng mười ở
đây như một thông điệp ngầm mang các đức tính
tuyệt vời một bà Tiên trong tâm tưởng trẻ thơ : hiền
dịu, an lành và che chở, thương yêu. Là kẻ
luôn hiện ra bên những nỗi lòng hẫm hiu đầy ngang
trái cuộc đời.
Bà tiên, tất
nhiên không thể và không bao giờ hiện
thân nơi đầy hạnh phúc, danh uy. Tiên luôn
đứng về phía khổ đau và nước mắt. Đấy là sứ giả
đặc biệt dành cho những nơi còn cách xa công
bằng và chân lý.
Âu Cơ, sự bổ sung
tuyệt hảo cho mặt luôn thiếu hụt của con người. Lòng
nhân đạo hay là nghĩa đồng bào. Sự thiếu hụt ấy như
một lẽ tất nhiên khi con người còn mãi mê
"cái tôi", lo níu giữ đặc quyền đặc lợi của
riêng mình. Một khi thụ hưởng nhắm chừng đã vượt
quá công lao - thụ hưởng trên nhọc nhằn, tang thương
kẻ khác - ấy là lúc lòng ích kỷ sẽ
làm nên bất hạnh với đồng bào.
Bên cạnh Rồng,
quyền và uy tối thượng. Dẫu là quyền uy thể hiện
đích thực "long đức" của một bậc quốc chủ...Vẫn không thể
thiếu Tiên để hoà điệu lẽ sống dân tộc. Vâng,
đã tồn tại nam không thể nào thiếu nữ. Bên
cạnh luật và lệnh của sức mạnh thế quyền, làm sao
quên còn có đạo trời, tình người và
máu thịt. Khi ba điều ấy không còn, đồng nghĩa với
dân tộc mờ nhạt nghĩa Âu Cơ.
Nhưng tại sao ? Cuộc chia
tay giữa quyền lực và tình người vẫn phải đã
xãy ra "Ta, loài Rồng. Nàng, giống Tiên. Hai
ta không cùng bên nhau mãi được". Vâng,
nhất thiết đấy không phải là cuộc ly thân đớn đau
hay sự chia rẽ đầy nước mắt đầu tiên trong sử Việt. Có
chăng, đấy là bài học cổ xưa nhất mà Rồng
và Tiên đem bản thân mình làm mẫu mực.
"Hy sinh tự tư, tự lợi vì nghĩa lớn non sông". Là
cuộc chia tay nhưng - không bao giờ - mang ngữ nghĩa chia
lìa.
Rồng và
Tiên. Luật lệnh và đạo trời, mỗi người một nhiệm vụ. Cuộc
lên đường để cùng làm đẹp thêm tổ quốc. "Năm
mươi con cùng cha xuống biển. Năm mươi con theo mẹ lên
non". Đấy không phải chia ly để lụi tàn. Đấy là
phân công, là
hoà-tấu-khúc-của-Tiên- Rồng.
Núi, triệu
cây rừng gom lại. Biển, trăm nước sông hợp nhất. Đi
tìm ý nghĩa tối hậu cuộc chia tay giữa Âu Cơ
và Lạc Long Quân, cũng có nghĩa sẽ bắt gặp lại "Mộc
bổn. Thuỷ nguyên" trong biểu tượng sau cùng. Chia tay, để
đời sau gặp gỡ một nhà.
Ai hiểu được nghĩa
lý "Đùm, bọc" và tại sao là "Trứng" ?
Vâng, con số trăm nào khác gì trăm họ trong
minh triết phương đông. Chừng ấy vừa đủ để ngụ ngôn quốc
dân, bách tính. Sự hưng thịnh, đông
đúc sẽ trở thành vô nghĩa khi "Đùm, bọc"
không hiện hữu trong câu chuyện giống dòng. Phải
chăng ? Kiến thức, cái nhìn trước hết khi mỗi "Trứng" nở
thành con là khung trời Việt được ước lệ, được thu gọn
qua "Đùm, bọc" kỳ diệu ấy.
"Nâng như
nâng trứng. Hứng như hứng hoa". Huyền nghĩa vô cùng
cao xa trong câu chuyện Rồng Tiên nhắc nhở bậc quốc chủ khi
cai quản muôn dân. Dân cũng còn là
"Trứng" mỏng...
Với đồng nghĩa "Con đỏ"
trong Bình Ngô đại cáo, "Trứng" ở huyền sử Rồng
Tiên kỳ diệu và tuyệt bút gấp nhiều lần chữ nghĩa
Ức Trai Nguyễn Trãi. Vâng, Ức Trai luôn xứng
đáng được kính trọng muôn phần. Là người
đã - ở cả hai mặt, hiểu đủ và đánh đổi cuộc đời,
sinh mạng ba dòng họ tru di - làm ý nghĩa cao xa
nhất của huyền sử Rồng Tiên từ ngàn xưa, chói
sáng...
Đã là huyền
sử, huyền thoại...Ẩn số, chỉ có thể - một cách tương
đồng, khế hợp - soi tìm qua Huyền học phương đông. Thưa
bạn, ta không thể cứ mở lớn mắt trước ánh mặt trời
chói chang để mong nhìn thấy những gì dù
ngay trước mắt ta...
(thành nội
- Huế. 04/2008)
Trần Hạ Tháp
Nguồn:
http://chimviet.free.fr
|