Việt
Nam
Văn
Hiến
Năm Thứ 4889 www.vietnamvanhien.net Ngô
Đình
Diệm
Là
Ai
?
Chính
Đạo
Sơ lược
tiểu sử JEAN
BAPTISTE
NGÔ
ÐÌNH
DIỆM (1897-1963): THỜI KỲ CHƯA NẮM QUYỀN, 1897-1954©
2004,
2010
Chieu
N. Vu. All Rights Reserved. Ngày
25/4/1961,
Tướng Edward G. Lansdale—người được coi như hiểu biết rất rõ
Việt Nam Cộng Hòa
[VNCH] —viết báo cáo lên Thứ trưởng Quốc
phòng Roswell L. Gilpatric, Chủ tịch
Ủy Ban Ðặc Nhiệm Việt Ông
ta
lùn,
mập tròn. . .
Nhiều
người
không chú ý đến cặp mắt đen
hay liếc trộm [snapping] của ông ta
mà chỉ chú ý đến cặp giò vừa đủ chạm mặt
đất khi ngồi. Tuy nhiên, ông ta không
cảm thấy ngượng ngùng về chuyện lùn, và có
vẻ rất tự nhiên chung quanh những người
Mỹ cao lớn. . . . Ông
ta
tỏ
vẻ
ăn uống ngon lành (và thường có sở
thích ăn ngon). Nụ cười của ông ta
có vẻ e dè và bất thường.
. . .
Diệm
sinh
ngày
3/1/1901. . .
Năm
25
tuổi [1926], Diệm đã được cử làm
quan đầu tỉnh. Nhưng sau “sáu tháng làm Thượng
thư” Diệm từ chức, trở thành “người
hùng thực sự của người Việt.” Từ đó, anh em Diệm
“âm thầm chống cả Pháp lẫn
Cộng Sản.” Diệm là một người độc thân 60 tuổi, “đã
cắt bỏ mối tình với người
yêu đầu đời để dâng hiến cho tổ quốc.”(1) Thực
ra, Ðáng
buồn hơn nữa, lịch sử Việt Nam, dưới mắt nhiều học giả thế giới, chỉ
là chuyện
thêm thắt vào [anecdotes] chính
sách
và sự can thiệp của các cường quốc như Mỹ, Nga, Trung
Hoa, Pháp, Bri-tên, Nhật,
v.. v... Ngay đến Hồ Chí Minh (1892-1969) cũng chưa được
nghiên cứu tường tận,
vì Việt Nam đã mất đi hấp lực của những ngày
tháng quân Pháp hay Mỹ lâm chiến ở
Ðông Dương. Trọng tâm của nền nghiên cứu “thực
phẩm ăn liền” [fastfood scholarship] đã di
chuyển tới
những xứ Trung Ðông, Iran, Iraq, Afghanistan, hay “Trung
Quốc” [Zhonghe rinmin gengheguo]. Người
Việt cũng có lý do riêng để không muốn thấy
tiểu sử chính xác về Diệm, từ chính
trị, tôn giáo, tới ý thức hệ. Nên chẳng ngạc
nhiên khi khối văn chương về họ
Ngô hay Ðệ nhất Việt Nam Cộng Hòa tràn ngập
những lời “cung văn” hoặc “đào
mộ,” bất chấp sự thực. Bài sơ
lược đoạn đời chưa cầm quyền của
Ngô Ðình Diệm nhằm điền vào khoảng trống
nói trên. Tư liệu cơ bản chúng tôi sử
dụng là tập tiểu sử chính phủ Diệm do cơ quan an ninh
Pháp thành lập tháng
7/1954, hiện vẫn chưa giải mật. Ngoài ra, còn nhiều tư
liệu văn khố Pháp, Mỹ,
Nga, Trung Hoa, cùng các tài liệu nguyên bản
khác, kể cả tiểu sử Ngô Ðình Diệm
do cơ quan an ninh Mỹ biên soạn ngày 18/4/1957, nhân
dịp Diệm sắp qua thăm Mỹ.(4)
Tiểu
sử
này,
dĩ
nhiên, không đầy đủ. I. SƠ LƯỢC GIA
THẾ: Ngô
Ðình Diệm, ngoài tên
“thánh” Jean-Baptiste [Gioan Bao-xi-ta], còn có
bí danh Nguyễn Bá Chinh. Theo
an ninh Pháp, Diệm sinh ngày 27/7/1897 tại Ðại Phong
[Phuong] hay Ðại Phong
Lộc, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.(5) Cha
là Ngô Ðình Khả (1856-1914), một tín đồ
Ki-tô tân tòng, xuất thân thông
ngôn
cho Pháp, sau đổi qua ngạch quan lại Việt, lên tới Ðề
đốc Kinh thành
(1905-1907).
“Mẹ”
là
Phạm
Thị
Thân. Anh em Diệm
khá đông, gồm sáu
trai, hai gái. Khôi, con vợ lớn, là anh cả. Diệm,
theo lời đồn, đứng hàng em
của Khôi, Thục, và anh Ngô Thị Hiệp (bà Cả
Lễ; chồng là Nguyễn Văn Ấm, sinh ra
cố Hồng y Nguyễn Văn Thuận), dù tuổi “chính thức” Diệm lớn hơn Thục trên hai tháng.
Dưới Diệm có Nhu, Cẩn, Luyện, cùng một người em
gái. Vì Khả chết khi Diệm còn
nhỏ (17 tuổi khai sinh), Khôi quyền huynh thế phụ. Khôi
chết, Thục có ảnh hưởng
nhất trên Diệm, với cương vị một Giám mục. Cha đỡ đầu [god-father] là Nguyễn Hữu Bài
(1863-1935), nhạc phụ Khôi, một thủ hạ cũ của Khả, cũng một
Thượng thư uy quyền
và đầy mưu mô tại Huế từ 1907 tới 1933, và được Hội
truyền giáo Pháp coi như một
trong số giáo dân khai quốc công thần của chế độ Bảo
hộ. Theo tài liệu Pháp,
Bài đã nuôi dưỡng Diệm từ nhỏ. Bài cũng
có ý định chọn Diệm làm con rể, nhưng
vì lý do nào đó không thành.
Con gái Bài sau đi tu dòng kín Carmel.(6) Sau ngày
lên cầm quyền, Diệm đổi
ngày sinh thành 3/1/1901.
Chẳng hiểu tại sao có việc “thay đổi” hộ tịch trên.
Việc thay tên, đổi họ và ngày sinh tháng đẻ
là việc thường xảy ra ở Việt Theo Ngô
Ðình Luyện, em út
trong gia đình, Diệm khai tăng bốn tuổi (từ 16 lên 20
tuổi) để có thể vào trường
Hậu Bổ. Ðiều này khó tin, vì mãi tới
năm 1918-1919, Diệm mới học trường Hậu
bổ.(8)
Luyện
cũng
là
nhân
chứng không đáng tin. Thí dụ
như khi được hỏi về vai trò chính trị
của Luyện, Luyện
nói được lệnh “đứng ngoài chính trị.” Thực tế, từ
thập niên 1940, Luyện đã hoạt
động với các tổ chức thân Nhật, và trở thành
đặc sứ của Diệm với Bảo Ðại, trước
khi nắm chức Ðại sứ tại London. Luyện cũng tung ra những tin đồn về
giao tình
giữa Luyện và Bảo Ðại, mà theo Bảo Ðại
không hề có.( 9)
Và,
như
đã
lược
nhắc, Diệm được tập ấm chức Cửu phẩm, làm việc
tại Tân Thư Viện Huế
từ năm 1917, trước khi vào trường Hậu Bổ. Một
ký giả ngoại quốc, Robert Shaplen, ghi rằng theo Diệm, khoảng
năm 1915-1916,
Diệm đã man khai hộ tịch để dự thi bằng tương đương tốt nghiệp
trung học. (10)
Chi
tiết
này
không sát sự thực.
Mãi tới giữa thập niên 1920, mới có những
cuộc thi lấy bằng Tú Tài I
và II chương trình Pháp-Nam. Bằng cấp mà
Diệm thi chỉ là bằng Cao đẳng tiểu học (Diplôme),
gần tương đương với bằng
Trung học phổ thông đệ nhất cấp. Tài liệu thành văn
cũng chứng minh Diệm đã vào
quan trường từ năm 1916 hoặc 1917, với chức cửu phẩm
tập ấm tại Tân Thư viện, mà không phải sau
khi đã “tốt
nghiệp trường Luật Hà Nội năm 1921” như Diệm khoa trương. Thực
tế, Diệm vào trường
Hậu bổ từ niên khóa 1918-1919, và chỉ học tại
Hà Nội một niên khóa 1920-1921. Một
động lực trong việc sửa đổi hộ tịch có lẽ là để hợp thức
hóa vai “em” của Diệm
với Giám Mục Thục–Thục sinh ngày 6/10/1897 tại Phước Quả,
Thừa Thiên, thua Diệm
hơn hai tháng. Nhưng cũng có thể, và điều
này cần được tra cứu thêm, Diệm không
man khai hộ tịch, mà rất đơn giản là không cùng mẹ (Phạm Thị Thân) với
anh
chị em khác. Có lẽ vì muốn che đậy bí ẩn
này, tiểu sử Khôi và Thục trong tập Vua
chúa
và
người quí phái Ðông Dương
[Souverains et Notabilités] năm 1943 không ghi
ngày sinh.(11)
Tài
liệu
văn
khố
Pháp cũng ghi Diệm sinh tại Ðại Phong Lộc, Lệ Thủy,
Quảng Bình, mà
không phải Phước Quả, Thừa Thiên, giống như Thục, Nhu, Cẩn,
Luyện, v.. v... Ðịa
danh “Ðại Phong Lộc” từng được khai là nơi sinh của
Khôi, con người vợ lớn đã chết sớm, trước khi
Khả lấy bà kế thất tên Thân.(12) Rất ít chi
tiết về học vấn
Diệm được công bố. Có tin Diệm tự học ở nhà, rồi
học trường Pellerin ở Huế, và tốt nghiệp Diplôme. Diệm biết cả chữ Nho [Việt
Hán]. Lại có tin Diệm học ở chủng viện, năm 1915, định đi
tu, nhưng sau đó bỏ
dở nửa chừng.(13)
Bởi
thế,
nhiều
tài
liệu cho rằng Diệm thuộc loại “religious
fanatic” [cuồng đạo].
(14) II. “BÁT CƠM”
BẢO HỘ PHÁP: Trong nỗ lực biến
hóa Ngô Ðình
Diệm thành “lãnh tụ anh minh” đủ sức đương đầu với Hồ
Chí Minh–kiểu “ăn Ngô thì no, ăn Hồ
thì đói”–cơ quan
tuyên truyền Mỹ và Nam Việt Khôi,
anh cả họ Ngô, bắt đầu “tham chánh” năm 1910, sau khi tốt
nghiệp trường Hậu bổ.
Khoảng sáu [6] năm đầu, Khôi phục vụ tại văn phòng
Bộ Công do cha vợ làm Thượng
thư. Sau ngày Bài được thăng Thượng thư Bộ Lại, nhờ tiếp
tay cho Khải Ðịnh
(1916-1925) lên ngôi, Khôi đi “ngồi”
huyện, phủ, rồi lên tới Bố chính, Tuần vũ, Tổng đốc
các tỉnh miền nam Trung Kỳ,
tức An-Nam. Tốt nghiệp, nhờ
Thượng thư Bài
nâng đỡ, năm 1922 Diệm được bổ nhậm ngay. Ðược cấp trên
đặc biệt chú ý vì thanh
liêm và tinh thần diệt Cộng cao. Năm 1929 [1926?], Diệm
lên tới chức quan đầu
tỉnh, Quản đạo Ninh Thuận (Phan Rang), rồi Tuần Vũ Bình Thuận
(Phan Thiết).
Theo một số nhân chứng, khi làm quản đạo Ninh Thuận,
ngoài những ngon tra tấn
quen thuộc như tra điện, kìm kẹp, Diệm bắt tù nhân
Cộng Sản vuốt lạt tre, hay
dùng đèn cầy [nến] đốt hậu môn để lấy khẩu cung. Ít nhất
bảy [7]
trong số 500 nghi can Cộng Sản bị tra tấn đến chết.(17)
Có
lẽ
vì
thế,
Giám Mục Thục cả quyết rằng Cộng Sản đã
thuê sát thủ ra Phan Rang mưu
sát Diệm, nhưng Diệm chỉ bị thương.( 18) Tóm
lại, từ Khả xuống Khôi, Thục rồi Diệm, lòng
trung
thành
với Pháp khá vững chắc.
Khôi từng nhờ Nhu nói với Tổng Giám Ðốc Cảnh
Sát Paul Arnoux ngày 18/8/1944 tại
Huế rằng Khôi “xin thề trên thập
tự giá” là lúc nào cũng coi Bảo hộ
Pháp như “bát
cơm” [bol de riz] của họ Ngô. (19) Ngày
21/8/1944, Giám mục Thục trình lên Toàn
quyền Jean Decoux bản tóm lược rõ ràng
nhất công lao và lòng trung thành với Bảo hộ
Pháp của họ Ngô, và cá nhân Diệm: Các
anh
em
tôi
cũng liên tục dâng hiến mạng sống họ cho nước
Pháp trong dịp Cộng Sản
nổi loạn. Diệm, em tôi, đã ngã xuống vì
những viên đạn súng lục của một người
Tàu Chợ Lớn, được gửi tới Phan Rang, nơi Diệm hăng say ngăn chặn
sự xâm nhập
của các cán bộ Cộng Sản từ Nam Kỳ
[Mes frères, eux mêmes ont exposé leur
vie continuellement pour la France lors de la révolte
communiste. Mon cadet Diệm a failli tomber sous les
coups de révolver d’un chinois de Cholon, envoyé à
cet effet à Phan Rang, où
Diệm défendait énergétiquement l’entrée de
l’Annam aux émissaires communistes
envoyées de la Cochinchine]. .
(20) Dấu
mốc quan trọng trong sự nghiệp “yêu nước, chống Pháp” của
Diệm, là cuộc “đảo
chính cung đình” ngày 2/5/1933. Ngày
này, Toàn quyền Pierre Pasquier
(12/1928-1/1934) và Quyền Khâm sứ Léon Thibaudeau
(2/1933-7/1934) đột ngột bắt
Bài và toàn bộ nội các về hưu. Theo
báo Tiếng
Dân ở Huế, tin trên chấn động dư luận. Bẽ bàng
nhất là chính Bài không hề được
báo trước. Và, khi Thibaudeau tuyên bố nội
các mới, có Trần Thanh Ðạt thông
dịch, một số tân Thượng thư chưa kịp về đến kinh đô.(21) Nguyên
Pasquier, với sự thỏa
thuận của Albert Sarraut, quyết thực hiện một cuộc “đại cải
cách” ở An Nam, đánh
bóng uy tín vua Nguyễn để làm giảm bớt và
điều-kiện-hóa các phong trào quốc gia
mới–như cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc
Dân Ðảng năm 1930, và nhất là sự du nhập
và phát triển của phong trào Cộng
Sản từ giữa thập niên 1920, bùng nổ thành những
cuộc bạo động, khủng bố tại các
đồn điền miền Nam, cùng phong trào Sô Viết Nghệ
Tĩnh trong hai năm 1930-1931.
Pasquier và Thibaudeau đoạn tuyệt với nhóm hợp tác
cựu trào (Nguyễn Hữu Bài,
Ki-tô giáo). Nhóm này chủ trương đồng hóa và thống trị theo kế
sách
của Giám mục Paul Puginier và Louis Caspar–nhằm Ki-tô hóa vua quan rồi khiến toàn thể
dân Việt sẽ cải đạo, và vĩnh
viễn trở thành “bạn của nước Pháp.” Từ thập niên
1890, nhóm hợp tác cựu trào
trở thành một thứ kiêu binh của cái mà Phạm
Quỳnh cũng như Bảo Ðại gọi là “một văn
phòng phụ thuộc nho nhỏ của Tòa
Khâm,” tức triều đình Huế, lúc nào cũng
mang công lao của khối giáo dân bản
xứ trong việc thiết lập chế độ Bảo hộ (dưới chiêu bài bảo
vệ đạo) ra áp lực
Pháp. Ngựa mới của
Pasquier là phe
tân trào (tiêu biểu bằng Phạm Quỳnh, Bùi Bằng
Ðoàn, Nguyễn Bá Trác, Nguyễn Thái
Bạt, Lê Dư, v.. v...). Phe này chủ trương hợp tác
tinh thành, hay Pháp-Việt
đề huề. Quan chức Pháp đã chọn phe tân
trào, vì chủ trương hợp
tác [collaboration] có nhiều triển vọng
thành công trước sự lớn mạnh
của các phong trào quốc gia mới. Từ thập
niên 1920, Pasquier đã chiêu hồi
những thành phần chống Pháp như Phan Bội Châu
và sử dụng các văn thân từng bị
dính líu vào phong trào chống sưu thuế 1908
tại miền Trung. Huỳnh Thúc Kháng,
chẳng hạn, được cử làm Chủ tịch Hội đồng Dân cử Trung Kỳ,
và xuất bản tờ Tiếng Dân bằng quốc ngữ
mới, với chủ trương “thờ người Pháp để cầu tiến bộ.”
Trong
khi
đó,
nhóm hợp tác,
nói theo Phạm Quỳnh, tạm thời chấp nhận “tôn
quân cũng là yêu nước,” ngưng đòi hỏi
thể chế cộng hòa. Ðể làm giảm sự bi
phẫn của nhóm cựu trào, Pasquier và Thibaudeau đặc
cách Diệm–con nuôi Bài [son fils
putatif]–lên làm Thượng thư Bộ
Lại. Tuần
phủ
Bùi
Bằng
Ðoàn (1890-1955) cũng được đặc cách
lên Thượng thư Bộ Hình. Ngày
6/5/1933, năm [5] tân Thượng thư mới có mặt đầy đủ tại Huế
nhân dịp gắn huy chương
cho Bài và bốn [4] cựu thượng thư. Ngày 17/5,
Thibaudeau chủ tọa phiên họp Nội
các đầu tiên. Mười ngày sau, 27/5, Pasquier
và Bảo Ðại chủ tọa phiên họp tân
Nội các. (22) Một số mật
báo viên ghi, và
ngay chính Diệm man khai (ngày 24/12/1947 với Tổng
lãnh sự Mỹ tại Thibaudeau
còn cử Diệm làm
Tổng Thư ký Ủy ban Cải Cách, và yêu cầu Diệm
trình lên kế hoạch canh tân Bộ
Lại. Diệm, có lẽ do ảnh hưởng Bài, đưa ra hai điều kiện:
(1) Phải thống nhất
Bắc và Trung Kỳ; bổ nhiệm Tổng Trú sứ (Résident
Général) như đã qui định trong Hoà ước
6/6/1884; và, (2) cho Viện Dân biểu
quyền thảo luận.( 24)
Ðề
nghị
này
giống
hệt kế hoạch của Bài: Muốn cải cách,
việc đầu tiên phải bỏ chức
Thống sứ Hà Nội và Khâm sứ Huế (tức tái
sát nhập Bắc Kỳ vào An Nam), sau đó cho
An Nam ngân sách riêng. Nói cách
khác, phải trở lại với Hiệp ước
6/6/1884–đòi hỏi mà Bài đã gieo
xuống đầu óc thơ dại của Duy Tân từ năm 1915-1916, đưa đến
việc vua bị truất
phế rồi đầy qua Réunion cùng cựu hoàng
Thành Thái (Bửu Lân) vào cuối năm 1916.
Pasquier, dĩ nhiên, không chấp thuận. Ngày
9/7/1933, Diệm ra Quảng
Trị ở với cha nuôi ít ngày. Trở lại Huế,
ngày 12/7, Diệm nạp cho Thibaudeau một
bản sao đơn từ chức đã trình lên Bảo Ðại.
Lý do nêu ra là cơ cấu tổ chức hiện
tại không phù hợp với Hiệp ước 6/6/1884–Hiệp ước
này qui định Pháp chỉ giữ một
chế độ bảo hộ kiểm soát (protectorat de
contrôle) mà không phải bảo hộ trực tiếp (protectorat direct).( 25) Thibaudeau gọi
Bảo Ðại từ Ðà
Lạt về Huế giải quyết. Bảo Ðại bảo thẳng Diệm rằng viện dẫn lý do chính trị để từ
chức là hành động phản nghịch. Ngày 18/7,
Diệm viết lại đơn từ chức khác
nêu lý
do muốn dành thì giờ cho việc tu hành. Lần
này,
Diệm
được toại ý. Ngày
22/7, Thibaudeau đổi Thái Văn Toản qua thay Diệm nắm bộ Lại,
và đưa Tôn Thất
Quảng, Tổng đốc Thanh Hóa, mới lập công lớn trong việc
đàn áp đẫm máu tại các
tỉnh Bắc An Nam, lên nắm Bộ Công và Nghi Lễ thay
Toản.( 26) Ngay
sau ngày Bài bị cách chức, vài tờ
báo Nam Kỳ công khai đả kích Pasquier. Theo
Luật sư Lê Văn Kim, những bài đả kích trên từ
Huế gửi vào. Tháng 12/1933, Diệm
còn vào Sài Gòn gặp Nguyễn Phan Long,
Lê Văn Kim, Jacques Lê Văn Ðức v.. v...
bàn thảo kế hoạch trả thù Pasquier. Tiếp đó, tờ La Tribune indochinoise [Diễn đàn Ðông
Dương] và tờ La Lanterne ở May
mắn cho Diệm, ngày 15/1/1934, Pasquier chết vì tai nạn
máy bay trên không phận Nên
ghi thêm cuộc đảo chính cung đình này khiến
họ Ngô trút mọi thù oán lên Phạm
Quỳnh. Năm 1934, Thục chống việc cử hành hôn lễ giữa Bảo
Ðại và Nguyễn Hữu Thị
Lan, đòi phải thực hiện lễ rửa tội trước; nhưng viên chức
Pháp, nhất là cựu
Khâm sứ Charles, dàn xếp cho một linh mục Pháp
bí mật làm lễ kết hôn. Sau đó, năm
1938, Thục được đặc cách Giám mục Vĩnh Long, một
giáo phận nhỏ, tách ra từ tổng
giáo phận Sài Gòn. (28)
(Trái
với sự ngộ nhận của nhiều người, việc thăng chức hay bổ nhiệm
các giáo mục
Ki-tô không thuần do đạo hạnh và khả năng
quyên góp, nhưng đôi khi bị chính trị
hóa. Năm 1950, Linh mục John Dooley được đặc cách
lên Giám mục để trông coi
việc chống Cộng của giáo dân Ðông Dương. Năm
1963, có vận động cho TGM Thục thăng
chức Hồng Y để đuổi “Giáo Hoàng VNCH” khỏi nước, đưa đến
việc bị rút phép thông
công [ex-communicated], và rồi chết trong điên loạn
tại Mỹ). Nếu tin được
Ngô Ðình Nhu (1910-1963),
Khôi thường nói với Diệm rằng sở dĩ người Pháp
không ưa Khôi vì “[họ Ngô] quá
toàn vẹn,” và “Phạm Quỳnh thì khôn
khéo, nên được cả Pháp lẫn Nhật quảng cáo
tài năng.” (29) Nhu cũng tung tin Phạm Quỳnh biệt đãi hai
con trai Cường Ðể, dù
trên thực tế, con Cường Ðể làm việc tại văn khố
Tòa Khâm, dưới quyền Nhu. Người
Pháp chỉ quay mặt làm ngơ, để vừa đặt chân Phạm
Quỳnh trên lửa, vừa âm thầm
theo dõi anh em họ Ngô đang ngả theo ngọn gió Thịnh
Vượng Chung Ðông Á. Theo
an ninh Pháp, “những phần tử trong họ Ngô, đặc biệt
là Khôi, nuôi dưỡng lòng
hận thù ngày một sâu đậm đối với Phạm Quỳnh người
đã thụ hưởng nhiều lợi lộc
nhất trong cuộc đảo chính ngày 2/5/1933. Từ một
nhà báo, Quỳnh đã trở thành Thượng
thư Bộ Quốc Dân Giáo Dục, rồi thăng lên chức Tổng
lý khá nhanh, nắm giữ tước
cao nhất của hệ thống quan lại (Tứ trụ triều đình) năm 1944. Từ
từ theo sự thăng
tiến về danh vọng của Phạm Quỳnh, hận thù giữa họ Ngô với
Quỳnh càng gia tăng.. .” (30) Tóm lại, thành tích chống
Pháp
hay cách mạng từ năm 1933 của Diệm chưa được một tài liệu
nào xác nhận; mà chỉ
có những tư liệu văn khố chứng minh ngược lại–anh em họ
Ngô mưu cầu quyền lực
bằng mọi giá, bất chấp khuôn thước đạo đức truyền thống.
Ngay cả huyền thoại
“chống Cộng” từ năm 1922 qua tài liệu III. HỢP TÁC VỚI
NHẬT: Thế chiến thứ hai
(1939-1945)
và việc Nhật xâm chiếm Ðông Dương từ hai năm
1940-1941 khiến Diệm đi tìm bát cơm
hay thiên mệnh ngoại cường khác. Họ Ngô bí
mật yểm trợ Hoàng thân Cường Ðể và
từ năm 1942, công khai hợp tác với Hiến binh Nhật (Kempeitai). Huân, con trai lớn Khôi,
làm thông ngôn cho Nhật. Trong
khi đó, Nhu che chở cho hai con
Cường
Ðể, Tráng Ðinh và Tráng Liệt [Cử], tại văn
khố Tòa Khâm sứ Huế. Những người
thân Diệm cũng làm việc tại tòa Lãnh sự Nhật
từ năm 1942. Ðầu năm 1943, Y sĩ Trương
Kế An, thủ lãnh Liên Ðoàn
Ái Quốc Việt
Nam, gặp Diệm ở Hà Nội. Pierre Ðệ, anh rể hụt của Nhu,
cũng có mặt. Trong khi
đó, Khôi cho Diệm
dùng dinh thự Tổng đốc Nam-Ngãi của mình để tiếp
xúc với những cá nhân thân
Nhật. Khôi còn che chở cho tín đồ Cao
Ðài (đang bị nghi ngờ thân Nhật, ủng hộ Cường
Ðể) trong vùng cai trị. Mật thám Pháp
tìm thấy trong nhà Ngô Ðình Dậu
(Ðẩu?), một
người cháu họ Khôi ở Quảng Nam, tài liệu liên
quan đến Việt Nam Phục Quốc Hội của Cường Ðể.
Vì việc này, tân Khâm sứ
Grandjean (6/1941-8/1944) chẳng những không hồi âm thư
chúc mừng của Khôi, mà
trong buổi gặp mặt trên đèo Hải Vân, bắt Khôi
về hưu không được hàm Thượng thư.
Tháng 1/1944, Grandjean còn cho lệnh Bảo Ðại trục
xuất Diệm khỏi Huế, chỉ định
cư trú ở Quảng Bình. Anh em Diệm thêm một lần
trút mọi hờn oán lên Quỳnh, đương
kim Tổng lý [Tể tướng] triều đình. Mùa
Hè 1944, Mật thám Pháp
khám phá ra tổ chức Ðại Việt Phục Hưng của
Diệm,
gồm
khoảng
50 đảng viên, kể cả một số giáo sĩ; nằm ngay
trong đội lính
khố xanh (Garde indochinoise), cảnh sát, công chức, v.. v...
Một trong
những lãnh tụ là Trần Văn Lý, Tuần vũ Hà
Tĩnh. Pháp bèn cho lệnh khám xét tư
thất Diệm, nhưng Diệm đã sớm tẩu thoát. Ngày 12/7,
Trung úy Kuga Michio của
Hiến binh Nhật đưa Diệm vào Ðà Nẵng, rồi đáp
phi cơ vào Sài Gòn. Trong thời
gian ở miền Nam, Diệm lui tới với Matsushita [Tùng Hạ]
Mitsuhiro, Chủ công ty Dainan Koosi [Ðại Nam
hay Dainan Konsi], trưởng lưới tình báo
dân
sự của Nhật, tự nhận là bạn thân của Cường Ðể.( 32) Một tháng
sau, ngày 12/8/1944,
Nguyễn Huy Tân, Cán sự Công chính ở Quảng
Ngãi, một cán bộ của Diệm, khai rằng
Nhật đã chọn Diệm làm Thủ tướng, trong một chế độ
quân chủ lập hiến mà người
làm vua không nhất thiết phải là Cường Ðể. Hai
ngày sau, 14/8, Paul Arnoux,
Giám đốc Cảnh Sát, được lệnh bí mật khai
thác Nhu và Khôi ngay tại Huế. Ngày
18/8, Arnoux báo cáo rằng Nhu nhìn nhận việc
làm tội lỗi của Diệm, nhưng Khôi
không dính líu, xin “thề trên
thập tự giá” là chỉ muốn duy trì “bát
cơm”
Pháp. Ngày 20/8, vì tình hình
Âu Châu đang
rối loạn, phe “Pháp tự do” của Charles de Gaulle đang tiến
vào Paris, Decoux đồng
ý với đề nghị của Arnoux là chỉ trừng trị những
cán bộ hạng trung, tránh khiêu
khích Nhật. (33) Cuối năm 1944,
đầu 1945, Diệm
tá túc trong bệnh viện Chợ Quán, được trưng dụng
làm trụ sở quân sự của Nhật,
sau này đổi tên thành bệnh viện bài lao Hồng
Bàng. Tại đây, Diệm cùng Y sĩ
Nguyễn Xuân Chữ, Y sĩ Lê Toàn, Kỹ sư Vũ Văn An,
Ký giả Vũ Ðình Dy (1906-1945)
thành lập Ủy Ban Kiến Quốc, phò trợ
Cường
Ðể. Cuối năm 1944, khi chuẩn bị kế hoạch Mago để
lật đổ chế độ thân Vichy Decoux, Hiến binh Nhật dự
trù Diệm sẽ trở thành
Thủ tướng. Tuy nhiên, tình hình đổi thay mau
chóng. Tướng Tsuchihashi Yuitsu, Tư
lệnh Quân đoàn 38–lực lượng trách nhiệm
phòng thủ Ðông Dương chống lại cuộc đổ
quân Ðồng Minh–dồn mọi nỗ lực cho mục tiêu quân
sự hơn chính trị. Bởi thế
Tsuchihashi giữ Bảo Ðại làm vua một nước Việt Nước “Việt Nam
độc lập” trên
thực tế chỉ gồm 12 tỉnh miền Trung, vì Nam cũng như Bắc Kỳ được
trù liệu sẽ trở
thành hai trung tâm tử thủ chống lại sự đổ bộ của Ðồng
Minh. Giám đốc Kempeitai yêu cầu phe
Diệm-Chữ tham gia
chính phủ tại Huế, nhưng cả hai đều từ chối. Tháng
3/1945, sau cuộc Hành quân Meigo
(9-10/3/1945) loại bỏ Decoux, Bảo
Ðại hai lần nhờ Nhật mời Diệm làm Thủ tướng, nhưng
không có hồi âm. Mãi sau
này, Bảo Ðại mới được Nhật thông báo rằng họ
không muốn dùng Diệm. Mùa
Thu 1945, Giám mục Thục khai với mật thám Pháp
là sở dĩ Diệm không nhận lời vì
thấy chế độ do Nhật lập nên khó tồn tại lâu
dài; hơn nữa quanh Bảo Ðại có những
thành phần tả phái và franc-macon
[tam điểm]. (34)
Lời
chứng
này
khó
tin. Mục đích của Thục là biện minh
cho sự hợp tác với Nhật của
Diệm, một tội phạm chiến tranh ở thời điểm này. Và
có thể Thục cũng không biết đến,
hoặc tảng lờ quyết định của Tsuchihashi. Nhân viên an ninh
Pháp, năm 1954, ghi
rằng Diệm từ chối lời mời lập chính phủ vì Nhật
không chịu cho thống nhất ba
miền Bắc, Trung, Nam. Robert Shaplen cũng nhận định theo chiều hướng
này: Diệm
từ chối không vì chống lại Nhật mà vì cảm
thấy khó thiết lập một chính phủ tự
do–trong số những yếu tố quan trọng có việc Nam Kỳ bị
tách biệt với Huế. [“Diem
refused,
not
because
he objected to the Japanese but because he did not feel he
would be able to establish a free government–among other things, the
southernmost area of Cochin China was initially be excluded from it.
Furthermore, he now saw the handwriting on the wall and did not want to
put
himself in the position of being declared a collaborator when the war
was over.
He returned to Tháng
4/1945, Trần Trọng Kim
(1883-1952) được đưa từ Krung thêp về Huế làm Tổng
lý nội các [Thủ tướng] “Ðế
quốc Việt IV. DIỆM &
VIỆT MINH: Mặc dù sau
này Ngô Ðình Diệm
thường tuyên bố tại Việt Nam chỉ nổi danh thua Hồ Chí Minh
[the
best
known
figure after Ho Chi Minh], khoảng thời
gian từ tháng
8/1945 tới đầu năm 1947 là một giai đoạn bí mật nhất đời
Diệm. Như chúng
ta đã biết, ngày
19/8/1945, nhân khoảng trống quyền lực sau ngày Nhật đầu
hàng, Việt Nam Ðộc Lập Ðồng Minh, tức Việt Minh—từng hợp tác với Ðệ Tứ Phương
Diện Quân Trung Hoa Dân Quốc, tình báo
Bri-tên và Mỹ— lên nắm chính
quyền ở Hà Nội.(37) Ngày
25/8, Bảo Ðại ra thông
cáo thoái vị. Tại Sài
Gòn, Khâm sai Nguyễn Văn Sâm từ chức;
Trần Văn Giàu thiết lập Lâm Ủy Hành Chánh
Nam Kỳ.
Trong vòng mười ngày từ khi Nhật đầu
hàng, rồi chính thức buông súng từ
ngày 21/8/1945, đất nước và dân tộc Việt
rúng động trong những chuyển biến dồn dập, đẫm máu của
giai đoạn II cuộc Cách
Mạng 1945–giai đoạn thay đổi từ dưới lên
trên, do những người từ chiến khu, rừng núi, ngoại
quốc và tù ngục xách động
dưới ngọn cờ đỏ sao vàng. Lá cờ quẻ Ly–với
hai vạch đỏ liền kẹp trên dưới một gạch đỏ đứt quãng ở
giữa, trên nền vàng–chìm
nhanh vào quên lãng. Rồi, chiều Chủ Nhật 2/9/1945,
một người trung niên trong
bộ ka-ki vàng bốn túi, bộ râu lưa thưa, xuất hiện
trên diễn đài tại bãi Cột Cờ
Hà Nội–mới được đổi tên công viên Ba
Ðình từ đầu tháng trước–long trọng đọc bản
Tuyên Ngôn Ðộc Lập của chính phủ lâm thời
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa [VNDCCH].
Khác với những diễn giả nói về
cuộc cách mạng quốc gia của
Pétain, hay nền độc lập trong Khối Thịnh Vượng Chung Ðại
Ðông Á trước đó, Hồ
Chí Minh dùng câu đầu của Tuyên ngôn
độc lập Mỹ năm 1776 để mở đầu tuyên ngôn độc
lập của VNDCCH. Tất
cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những
quyền không ai có thể
xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống,
quyền tự do và quyền mưu
cầu hạnh phúc. Lời
bất hủ ấy ở trong bản tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước
Mỹ. Suy rộng ra, câu
ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc
trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân
tộc nào cũng có quyền tự do. Sau đó,
nhắc đến Tuyên
Ngôn
Nhân
Quyền và Dân Quyền Pháp: Bản
Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của
Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: Người
ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và
phải luôn luôn được tự do và
bình đẳng về quyền lợi.” Ðó
là những lẽ phải không ai chối cãi được. Thế
mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng
lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái đến
cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động
của chúng trái hẳn với nhân đạo
và chính nghĩa.” Tiếp đến những
lời lên án chế độ
Bảo hộ Pháp ngược đãi dân Việt, xây nhiều
nhà tù hơn trường học, đầu độc dân
Việt bằng “rượu cồn và thuốc phiện,” hai lần “bán” Việt
Nam cho Nhật, và Việt
Nam đã chiến đấu bên cạnh Ðồng Minh, giành độc
lập từ tay Nhật mà không phải
Pháp, Hồ kết luận: “Nước
Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự
thực đã trở thành một nước tự
do và độc lập, Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất
cả tinh thần và lực lượng,
tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và
độc lập ấy.” Có tất cả
15 người ký tên vào Tuyên Ngôn
Ðôc Lập. Họ là
thành viên của “Chính phủ Lâm thời của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa,” một
“Chính phủ Quốc gia Liên Hiệp,” “kết tinh của sự
đoàn kết và thống nhất.” Hồ
Chí Minh được ghi là “Ðảng Quốc Gia;” Võ
Nguyên Giáp, “Văn hoá cứu quốc;” Trần
Huy Liệu và Lê Văn Hiến, “Ðảng Cộng Sản;” Dương
Ðức Hiền và Vũ Ðình Hoè, “đảng
Dân Chủ;” Nguyễn Văn Xuân, “Quốc Dân Ðảng;” Phạm
Văn Ðồng, Nguyễn Văn Tố, Phạm
Ngọc Thạch, Ðào Trọng Kim, Nguyễn Mạnh Hà và
Vũ Trọng Khánh, “không đảng nào;”
và, Chu Văn Tấn, “Dân tộc thiểu số.” (38) Nhân vật
Nguyễn Văn Xuân là một dấu hỏi lớn. Nếu là Ðại
tá Pháo thủ Nguyễn Văn Xuân, ông ta đã
nhờ Nhật đưa trốn vào Sau đó,
Hồ trình diện chính phủ. Rồi yêu cầu dân
chúng tuyên thệ: Nếu Pháp đến
xâm lược lần nữa thì chúng ta không đi
lính cho Pháp, không
làm việc cho Pháp, không bán lương thực cho
Pháp, không đưa đường cho Pháp, và
đoàn
kết để diệt Pháp. Dù chưa
thể tri nghiệm “độc
lập” là gì, hàng chục ngàn
dân–hàng trăm ngàn người, kể cả các chức sắc
Ki-tô
theo Jean Sainteny [1953:92], nửa triệu người theo tài liệu
tuyên truyền Việt
Minh–biến cuộc mít tinh thành biểu tình tuần
hành. Có cả phi cơ Lightning bay lượn
trên trời. Chiều đó,
tại Sài Gòn, cuộc xô xát đầu tiên giữa
Việt
Minh và Pháp bùng nổ trước Nhà thờ
chính, rồi lan tràn khắp đường phố. Những cơn
cuồng phong cách mạng thốc cuốn toàn dân ba miền
vào ba thập niên bạo lực, bất
trắc kế tiếp. Ngày 5/9/1945, HCM ký Sắc lệnh số 5 về quốc
kỳ: Hủy bỏ cờ quẻ Ly,
thay bằng cờ đỏ sao vàng, chiều ngang bằng 2/3 chiều dài.
(CQ,
13/9/1945).
Cùng ngày 5/9/1945, Bộ trưởng
Nội vụ Giáp ký sắc lệnh số 8, giải tán Ðại
Việt
Quốc
Gia
Xã Hội Ðảng [Quốc Xã], vì
“đã tư thông với ngoại quốc để mưu
những việc có hại cho sự độc lập của Việt Nam,” và Ðại Việt Quốc Dân Ðảng vì “đã
âm mưu những việc thiệt hại cho sự độc
lập quốc gia và nền kinh tế Việt Nam.” (CQ, 9/9/1945).
Ngày Thứ Tư, 12/9/1945,
Giáp ký sắc lệnh số 30 giải tán Việt
Nam
Hưng Quốc Thanh Niên Hội của Lê Ngọc Vũ và Việt Nam Thanh Niên Ái Quốc Hội của
Võ Văn Cầm.
(Dân
Chủ,
19/9/1945). Chính phủ
lâm thời cũng bắt giữ, ám sát, thủ tiêu
hàng
ngàn “phản động,” “Việt gian”. Cắt cổ, mổ bụng, trầm hà
[“mò tôm”] chỉ là vài
trò chơi người giết người quen thuộc. Trọn gia đình Kỹ sư
Bùi Quang Chiêu,
chẳng hạn, bị tiêu diệt ngoại trừ cháu nội mới mở mắt
chào đời. Tạ Thu Thâu và
các phần tử “Trốt kít” bị cầm tù, thảm sát
từ Quảng Ngãi tới Bà Rịa, Bình Dương. Trước phản ứng
của dư luận,
ngày Thứ Hai, 10/9, Trần Huy Liệu họp báo giải
thích về những cuộc bắt bớ khắp
nơi. Liệu
cho
rằng
đó không phải là “khủng bố” vì “bị
bắt bao
giờ cũng là những kẻ đã do sự điều tra nhận thấy
có phương hại tới chính quyền
của nhân dân.” (Dân
Chủ, 20/9/1945). Báo Cứu Quốc,
cơ quan ngôn luận của Việt Minh, công khai lên
án và báo cáo việc thanh trừng
chính trị. Ngày 12/9/1945, loan tin “ba tên phản
quốc nữa đã bị bắt.” Ðó
là: Bùi Trần Thường, cận vệ của Võ Văn Cầm; Phạm
Ngọc Hàm, “mật thám cho Pháp
mới từ Cao Bằng về liên lạc;” Ðào Chu Khải, làm
“xếp tanh” trên đường Lào
Kai-Vân Riêng Diệm
và Thục đều có tin
bị Việt Minh bắt. Thục, thực ra được tự do sống ở vùng Vĩnh
Long, dưới sự che
chở của Việt Minh. Tháng 10/1945, Thục định ra Bắc, nhưng bị
quân Bri-tên chặn
bắt ở Biên Hòa, rồi sau đó âm thầm trở lại
giáo phận Vĩnh Long. Riêng Nhu, từ
tháng 8/1945, được Giáp cử làm Giám đốc Văn
Khố Hà Nội. Phần Diệm, tông tích
bất minh. Ngày 7/5/1953, trong buổi ăn trưa và thảo luận
[lunch talks] về tình
hình Ðông Dương tại Tối Cao Pháp Viện Mỹ, Diệm
tuyên bố từng bị Hồ “cô lập”
trong một làng thiểu số năm 1946. Sau 6 tháng, Hồ
yêu cầu Diệm tham gia chính
phủ, nhưng Diệm trả lời rằng vì biết Hồ là CS, Diệm muốn
được toàn quyền và
thông báo mọi tin tức. Những người ủng hộ Diệm đòi
Diệm phải được giao Bộ Nội
Vụ và nắm ngành Cảnh Sát. Hồ do dự ít tuần,
rồi cuối cùng từ chối. Gần hai thập
niên sau, ngày
16/1/1962, Diệm còn lập lại với các viên chức Mỹ
chi tiết bị giam ở thượng du
Bắc Việt. Diệm tuyên bố bị bắt vào tháng 9/1945,
khi từ Sài Gòn ra Huế ngăn Bảo
Ðại đừng theo Hồ. Sau đó, bị giải lên gần biên
giới Hoa-Việt, suýt chết vì bệnh
sốt rét. Sáu tháng sau, HCM mang Diệm về Hà
Nội, thuyết phục Diệm theo mình.
Diệm không đồng ý, HCM bèn thả Diệm.
(39)
Sau này, Hoàng Tùng nói với một ký
giả
Tây phương rằng tha Diệm là một sai lầm.( 40) Việc Diệm bị Việt
Minh bắt được
nhiều nguồn tin khác xác nhận. Hạ tuần tháng
11/1945, Giám mục Thục khai với
Pháp rằng Khôi và Diệm đã bị Việt Minh bắt
và có thể đã bị xử bắn.(41)
Ngày
28/12/1945,
Tổng
Giám
mục Antonin Drapier cũng viết cho Trưởng đoàn
Truyền giáo
Hải ngoại Pháp ở Sài Gòn, rằng Diệm đã bị
Việt Minh bắt.( 42) Một
nguồn tin khác nữa ghi vào khoảng tháng 6/1946,
khi Diệm đến ở nhà Linh mục Ðộ,
chính xứ Tuy Hoà, cán bộ VM đã “khéo
léo” mời được Diệm lên miền Thượng (Mọi).
Người gia nhân thoát chạy ra Phát Diệm, xin
Giám mục Lê Hữu Từ giúp, sợ bị
giống như Khôi. Từ bèn cùng Linh mục Phạm Quang
Hàm và Dân biểu Ngô Tử Ha vào
Bắc bộ phủ xin Hồ tha Diệm. Chính Hồ cũng không biết việc
này, và hứa sẽ can
thiệp. Khoảng một tháng sau, Diệm về tới Hà Nội,
Giáp gọi Nhu, Giám đốc văn khố
Hà Nội, tới lĩnh về.( 43) Những chi tiết
quanh việc Diệm
bị Việt Minh bắt có nhiều nghi vấn: 1. Xét về
ngày tháng Diệm bị
bắt, có phần không ổn. a.
Tài liệu Bộ Ngoại Giao Mỹ dẫn lời Diệm là Diệm bị bắt
vào tháng 9/1945, và trả
tự do vào khoảng tháng 3/1946. b. Ngày
tháng mà
Từ hoặc tác giả viết hồi ký cho Từ ghi là Diệm bị
bắt đúng vào giai đoạn HCM đang
ở Pháp, và mãi tới ngày 22/10/1946 Hồ mới
về tới Hà Nội. Vậy Từ can thiệp vào
dịp nào? (Diệm cũng không hề nhắc đến
việc được Từ và Hạ can thiệp). c. Ngay
chính
Diệm, ngày 7/5/1953, chỉ nói mơ hồ đã bị “cô
lập” tại một làng thiểu số trong 6
tháng vào năm 1946. 2. Không ai
rõ Diệm được tha
ngày nào, và cũng chẳng ai rõ hành
tung Diệm từ lúc được tự do tới khi xuất
hiện ở Hà Nội vào đầu năm 1947 trong bộ đồ tu hành. 3.
Theo thư gửi Decoux đề ngày 21/8/1944, Thục nói Cộng Sản
từng sai sát thủ ra
Phan Rang mưu sát Diệm, nhưng Diệm chỉ bị thương. Nếu bắt được
Diệm năm 1945
hoặc 1946, ngay tại miền Trung, cách nào Cộng Sản tha
Diệm? Người ta chưa quên
số phận những Tạ Thu Thâu, Vũ Ðình Dy, v.. v... ở
Quảng Ngãi; và nhiều cảnh “mò
tôm” khác khắp ba miền. 4. Anh em Diệm
rất thành thạo
thủ thuật tự đánh bóng (kiểu Diệm “làm Tể tướng
cho Bảo Ðại,” Khả làm “thượng
thư đầu triều Thành Thái,” hay “đầy vua không
Khả”). Thành tích “bị giam lỏng”
tại miền thượng du năm 1946, hay đòi Hồ cho nắm Bộ Nội vụ
có thể chỉ để tăng
thêm vốn cho việc rao bán lập trường chống Cộng hầu xin
viện trợ Mỹ của Diệm.
Hy vọng sẽ có dấu vết việc bị “cô lập” này trong
văn khố Ðảng Cộng Sản Việt Cho tới khi
có tài liệu chứng
minh ngược lại, tin Diệm đã trốn trong nhà tu
[Redemptoristes hay Dòng Cứu thế]
ở Huế mà tài liệu văn khố Pháp ghi nhận hợp
lý hơn hết. V. DIỆM &
BẢO ÐẠI: “THÀNH PHẦN THỨ BA” Ðầu năm 1947,
Diệm xuất hiện ở
Hà Nội, ngụy trang như một tu sĩ dòng Cứu Thế. Ðược
Pháp yêu cầu lập chính phủ
chống Cộng, Diệm đưa ra một kế hoạch không thể chấp nhận được,
tức thống nhất
ba miền, có quân đội riêng và nhiều quyền tự
trị hơn. Diệm còn gặp Tổng lãnh sự
Mỹ Charles Reed tại Hà Nội. Trong thời gian ở Hà Nội, ngụ
tại tu viện dòng Cứu
Thế ở Thái Hà Ấp. Ngày 11/4/1947, Diệm trở lại
Sài Gòn. Ngày 5/9/1947, lại trở
ra Hà Nội. (44) A. “THÍ NGHIỆM” BẢO ÐẠI:
Thời gian
này, “thí nghiệm”
Bảo Ðại bắt đầu thành hình. Thí nghiệm
này nhằm ngụy trang cuộc tái xâm lăng
Việt Từ mùa
Hè 1945, sau khi Nhật
lật đổ chính phủ thân Vichy của Decoux, Tướng de Gaulle
đã nỗ lực tìm một “chí
sĩ quốc gia Việt Nam chân chính” để cầm cờ dẫn Pháp
trở lại Ðông Dương. Ứng cử
viên được nhiều người biết nhất là Hoàng tử Vĩnh
San (1900-1945), tức cựu hoàng
Duy Tân (1907-1916), đã bị truất phế và đầy qua
Réunion năm 1916. Tai nạn phi cơ
ngày 26/12/1945 khiến “lá bài bí mật” của
phe de Gaulle “tan biến như một giấc
mơ đẹp.” Hai ngày sau, 28/12, Tổng Giám mục Antonin
Drapier, Khâm sứ Vatican,
trình lên Cao ủy/Linh mục Georges Thierry d’Argenlieu
(1945-1947) kế hoạch cho
Bảo Ðại lên ngôi như trước ngày 9/3/1945; rồi
lập Hoàng tử Bảo Long làm vua,
Hoàng hậu Nam Phương nhiếp chính, với Diệm làm Thủ
tướng.(45)
Tuy
nhiên,
d’Argenlieu
không
đồng ý, và cũng không
hài lòng việc Drapier xen lấn
vào thế quyền. Một số chính khách,
lãnh tụ giáo phái Việt cũng xúc tiến thực
hiện “giải pháp” Bảo Ðại từ cuối năm
1945, đầu năm 1946. Người đầu tiên đưa ra ý kiến
này là tân Giám Mục Lê Hữu Từ.
Nhân dịp Bảo Ðại về Phát Diệm dự lễ tấn phong của Từ,
Từ hỏi Bảo Ðại có mưu
tính gì chăng; nhưng Bảo Ðại không có
phản ứng tích cực. Cựu Thủ tướng Kim và
đảng viên
trẻ Ðại Việt, kể cả
Ðỗ Ðình Ðạo v.. v..., cũng tìm thấy ở Bảo
Ðại sự lãnh đạo, hoặc ít nữa sự chính
thống [legality hay legitimacy] cần
thiết, để chống Hồ.(46)
Việt Mãi tới
sau cái chết của Y sĩ Nguyễn
Văn Thinh ngày 10/11/1946 và sự khủng hoảng của
thí nghiệm “Cộng Hoà Nam Kỳ tự
trị”–nhất là sau cuộc tấn công của Việt Minh tối
19/12/1946 trên khắp miền Bắc
vĩ tuyến 16–vai trò Bảo Ðại mới sáng giá hơn.
Nước Pháp đứng trước một ngã ba đường.
Một, tiếp tục thương thuyết với Việt Minh, hầu tìm một giải
pháp chính trị. Nẻo
đường khác, là đoạn tuyệt với chính phủ “ương
ngạnh” [intransigence] của Hồ, đi
tìm một “chí sĩ quốc gia” chấp nhận thoả hiệp. Hầu hết
lãnh đạo Pháp–từ Bộ trưởng
Pháp quốc Hải ngoại Marius Moutet tới đặc sứ Philippe Leclerc de
Hautecloque
(1902-1947)–đều nghĩ rằng đã đến lúc đoạn tuyệt với Hồ.
Léon Pignon, Cố vấn
Chính trị của d'Argenlieu, ủng hộ Bảo Ðại nồng nhiệt nhất. Do Pignon tiến
cử, ngày 14/1/1947, d'Argenlieu
mật báo về kế hoạch tái sử dụng Bảo Ðại. Moutet
không chấp thuận. Thủ tướng
Léon Blum (12/1946-1/1947) cũng không tán
thành, nhưng chuyển cho người kế vị
là Paul Ramadier (1947).(47)
Dẫu
vậy,
d'Argenlieu
vẫn gửi Cousseau qua Sự
thành hình của chính phủ Ramadier ngày
21/1/1947, và quyết định thay
d'Argenlieu bằng Dân biểu Emile Bollaert ngày 5/3/1947
mang lại một không khí
mới. Viên chức Pháp nghĩ đến một chính phủ
Liên bang Việt Một số
chính khách Pháp nghĩ
phải nối lại thương thuyết với Hồ. Theo họ, dù Hồ và
các thuộc hạ thân tín là
Cộng Sản, đa số cấp lãnh đạo Việt Minh chỉ là những người
yêu nước. Hơn nữa, Hồ
và các thuộc hạ có khả năng nhất. (49) Một số
khác chủ trương loại Hồ, thương
thuyết với Bảo Ðại. Theo họ, Bảo Ðại có một số người
theo ở Trung Kỳ; và được
sự ủng hộ hoặc chấp thuận của nhiều nhân vật có uy
tín tại Bắc cũng như Nam Kỳ.(50) Ngày
1/4/1947 tân Cao Ủy
Bollaert tới Sài Gòn với lệnh tái thiết lập những
guồng máy cũ, nhưng đừng để
lộ ra là Pháp muốn tái lập nền quân chủ. Thời gian
này, Bảo Ðại sống ẩn
dật tại Nhiều
cá nhân và lãnh tụ chống Cộng cũng
tìm đến, lôi kéo Bảo Ðại khỏi cảnh huống “về
hưu” non ở tuổi 33. Trong số này có các
nhóm Nguyễn Tường Tam, Vũ Kim Thành,
Trần Trọng Kim v.. v... Vào cuối năm 1946, đầu năm 1947, số
người ủng hộ Bảo
Ðại được tăng cường thêm Hộ pháp Cao Ðài.
Mới hồi hương vào tháng 8/1946 sau gần
5 năm lưu đầy, Phạm Công Tắc chủ trương hợp tác với
Pháp để chống Cộng. Chính
Tắc và Trần Quang Vinh, Tư lệnh lực lượng võ trang Cao
Ðài từ năm 1943, đã yểm
trợ Y sĩ Lê Văn Hoạch lên cầm đầu chính phủ Nam Kỳ
tự trị sau cái chết của Y sĩ
Thinh ngày 10/11/1946, hầu loại bỏ Trần Văn Tỉ. Cuộc tổng tấn
công ngày
19/12/1946 của Hồ giúp Tắc mạnh bạo hơn. Ngày 1/1/1947,
nhân dịp Bộ trưởng
Moutet đang tham quan Ðông Dương, Tắc yêu cầu Moutet
đưa Bảo Ðại về nước; và
hứa sẽ ủng hộ Bảo Ðại.(52) Nhưng các
chính phủ tại
Paris–với sự tham dự của Ðảng Cộng Sản Pháp–chưa muốn đoạn
tuyệt với Hồ. Vì
nhiều lý do, viên chức Pháp khẳng định vẫn muốn
thương thuyết, nhưng đặt thêm điều
kiện căn bản–đó là thảo luận trên thế mạnh,
không để bạo lực chi phối, và sau
khi đã vãn hồi trật tự. Ngày 20/12/1946, khi ra
trước Quốc Hội điều trần, và
tuyên bố sẽ qua Ðông Dương tham quan, Moutet nhấn mạnh: Nước
Pháp
muốn
hoà bình, tôn trọng những
nguyên
tắc đã tuyên bố, nhưng không chịu khuất phục trước
bạo lực. Chính sách của Pháp
là bảo vệ quyền lợi nước Pháp và làm cho
những quyền lợi ấy được tôn trọng.( 53) Dù chỉ
là một bình phong cho
việc tái chiếm miền Bắc bằng võ lực, hay phát xuất
từ lòng chân thành, những điều
kiện tiên quyết này mở ra một câu hỏi then
chốt–đó là thương thuyết với ai?
Thêm vào đó, là giới hạn của những nhượng bộ
Pháp có thể chấp thuận. Mặc dù bản
tuyên cáo ngày 24/3/1945 qui định “năm
xứ
Ðông Dương” của de Gaulle đã bị các biến cố
ở Việt Nam biến thành dĩ vãng, đa
số giới lãnh đạo Pháp vẫn nhấn mạnh Ðông Dương
phải là một thành phần của Khối
Liên Hiệp Pháp [L’Union Francaise]; không thể thống
nhất ba miền Bắc, Trung,
Nam vì miền Nam là một thuộc địa, tức phần lãnh
thổ bất khả phân của Pháp như
phần dẫn nhập của Hiến Pháp 1946 đã qui định; và,
chính phủ VNDCCH của Hồ chỉ
là một trong những phe phái mà người Pháp
có thể thương thuyết. Ngày
23/12/1946, Dân biểu
André Mutter của hạt l'Aube–người từng yêu cầu bắt Hồ tại Chúng
ta
không
thể coi Hồ Chí Minh như đại diện
của một tiểu bang tự do [Etat libre]; đó là một kẻ
sát nhân [assassin].(54) Sau khi tham quan
Ðông Dương
về, tảng lờ lời Hồ kêu gọi tái thương thuyết, ngày
18/3/1947, Moutet khẳng định
không thể nói chuyện với Hồ nữa, vì Hồ không
những chỉ coi việc ký Hiệp ước như
một phương tiện tranh đấu; mà còn chủ trương bạo động.(55) Mặc
dù vẫn còn những người như Pierre Cot chưa dứt
khoát–đề nghị đừng nên qui lỗi
cho một phe nào–phe cực hữu ngày thêm mạnh.
Ngày 13/4/1947, Paul Reynaud tuyên
bố trước Quốc Hội Pháp: Hồ
Chí
Minh
là một tên tội phạm [un criminel]
và
không thể thương thuyết với hắn; hoặc hắn đã bị điều khiển
[manoeuvré] và tự
chứng tỏ thiếu khả năng để bắt chính quân đội của
mình tuân lệnh, vậy thì, đó
là kẻ thiếu khả năng và cũng chẳng nên thương
thuyết với hắn nữa.(56) Hôm
sau, 14/4, Dân biểu Maurice Violette còn đi xa hơn, khẳng
định: “Tinh thần quốc
gia ở Việt Phe
cổ võ cắt đứt thương thuyết còn đưa ra thêm
lý do khác là từ ngày 19/12/1946,
chưa ai gặp được Hồ. Sự biến dạng này khiến không thể
không hoài nghi rằng Hồ đã
chết; và, những phần tử quá khích như Võ
Nguyên Giáp cùng Hạ Bá Cang (Quận
thọt) đang chi phối Tổng bộ Việt Minh. Những văn thư ký
tên Hồ gửi cho Pháp
trong những tháng cuối năm 1946, đầu năm 1947–kể cả bản kiến
nghị do Trần Ngọc
Ranh trao cho Pháp tại Song song với
chiến dịch hạ uy
tín Hồ là việc tách rời Hồ khỏi khối đại đa số
người Việt yêu nước. Ramadier,
khi ra thuyết trình trước Quốc Hội vào tháng
2/1947, đã mở đầu cho khuynh hướng
này. Tiếp đó, Moutet khẳng định Hiệp ước sơ bộ 6/3/1946
đã được ký kết với một
chính phủ liên hiệp Việt Trong
khi HCM chủ trương “còn nước cứ tát,” Bảo Ðại chuyển
dần sang lập trường chống
Cộng, từ bỏ ý định qua Morroco định cư. Từ ngày
17/2/1947, những người ủng hộ
Bảo Ðại thành lập tại Nam Kinh Mặt Trận
Quốc Gia Thống Nhứt Toàn Quốc “ngõ hầu đạt tới
lý tưởng tối cao . . .
tranh thủ Ðộc lập và Thống nhứt quốc gia, củng cố
chánh thể Cộng hòa dân chủ,
thực thi chế độ dân chủ chân chánh.” (Bản
ký
kết
thành lập MTQGTNTQ; 10H xxx
[4201]). Qui tụ Việt Nam Cách Mệnh Ðồng
Minh Hội (Nguyễn Hải Thần), Việt Nam Quốc Dân Ðảng (Nguyễn
Tường
Tam),
Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Ðảng (Nguyễn
Hoàn Bích), Việt Nam Quốc
Gia Thanh Niên Ðoàn (Trần Côn tức
Văn Tuyên), và Ðoàn Thể Dân
Chúng (Lưu Ðức Trung tức Lưu Bá Ðạt). Mặt Trận cử một
phái đoàn gồm Thần, Tam, Bích và Côn
xuống Hong-Kong gặp Vĩnh Thụy. Hơn một
tháng sau, trong cuộc họp báo ở Hong Kong ngày
29/3, Bảo Ðại tuyên bố chính phủ
HCM không đủ khả năng đại diện dân Việt Nam; và, Bảo
Ðại chống lại Việt Minh.
Tại buổi họp báo này, phổ biến tài liệu Mặt
Trận Thống Nhứt Quốc Gia Việt Nam [Front d'Union Nationale du Viet-Nam],
danh hiệu mới của MTQGTNTQ mở rộng–mới mời thêm được các
tổ chức miền nam và
trung như Việt Nam Quốc Gia Ðộc Lập Ðảng
(Nguyễn Văn Sâm), Cao Ðài (Phạm
Công
Tắc), và Liên Ðoàn Công
Giáo (Trần Văn
Lý-Ngô Ðình Diệm). Mục tiêu của Mặt Trận
mở rộng hơn, tức “thống nhất mọi tổ
chức cách mạng, đảng phái chính trị, đoàn
thể tôn giáo và xã hội để đấu tranh
giành độc lập và thống nhất lãnh thổ, củng cố chế
độ cộng hoà, dân chủ, hợp tác
toàn diện với tất cả các quốc gia trên thế giới
trên căn bản công bằng và tự do
để vãn hồi trật tự thế giới.” Về Việt B. SỨ MỆNH CAO ỦY BOLLAERT:
Ðể
đánh dấu sự thay đổi chính
sách, Ramadier quyết định thay d'Argenlieu vì Linh
mục/Cao ủy bị chỉ trích là
còn nặng đầu óc thực dân; và
vì d'Argenlieu có những khó khăn trong quan hệ với
những người mà ông ta phải
làm việc chung. D’Argenlieu không chịu từ chức, muốn
níu giữ Ðông Dương chờ de
Gaulle–mới đột ngột từ chức ngày 24/1/1946–trở lại chính
quyền. Ramadier chẳng
còn cách nào khác hơn cách chức
d’Argenlieu. Bài diễn
văn được coi như bản
tuyên bố chiến tranh lạnh ngày 12/3/1947 của Tổng thống
Harry Truman
(1945-1953) và kế hoạch viện trợ tái thiết Tây
Âu ít tháng sau của Ngoại trưởng
George C. Marshall–được biết như “Kế hoạch Nguyên
từ cuối tháng 12/1946, đầu tháng 1/1947, Hồ nhiều lần xin
nối lại thương
thuyết. Ngày 20/2/1947, ít tuần trước ngày Ðại
Hội Các Quốc Gia Á Châu tại New
Dehli, Ðài Việt Minh công bố một lá thư của Hồ
gửi Ramadier và Moutet, kêu gọi
thương thuyết. Việt Minh cũng nhờ đại diện Hồng Thập Tự Quốc Tế chuyển
cho Lãnh
sự Bri-tên một thư nghị hoà, nhưng viên chức
Pháp ở Cũng
ngày này, tân Bộ trưởng Ngoại giao Hoàng
Minh Giám khẳng định muốn “độc lập
trong Liên Hiệp Pháp.” Ngày 18/4/1947, Giám
nhờ Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế chuyển
cho Miguel de Pereyra, tân Ủy viên Cộng Hoà Bắc
Việt, một công hàm yêu cầu ngưng
bắn tức khắc và nối lại thương thuyết.(62)
Hôm
sau,
19/4,
Giám
lại tuyên bố sẵn sàng điều đình,
nhưng vì Pháp đòi Việt Minh
phải nộp 50% khí giới, phóng thích tù binh
Pháp, VM không chịu, vì như thế là đầu
hàng. Việt Minh
còn cử Thứ trưởng Ngoại Giao Phạm Ngọc Thạch tới Tháng
5/1947, Bollaert cử Paul Mus, cố vấn kinh tế, tìm cách
liên lạc với Giám. Ngày
9/5, Mus gặp Giám ở Cầu Ðuống, rồi được dẫn đi gặp Hồ ngay
tại tỉnh lị Thái
Nguyên. Tuy nhiên, khi nghe Mus đọc thuộc lòng
các điều kiện của Bollaert–tức
Việt Minh phải buông súng đầu hàng–Hồ chẳng
có lựa chọn nào khác hơn từ chối.(64) Bollaert cũng
xúc tiến mạnh hơn
việc thành lập các cơ cấu hành chính
lâm thời tại vùng chiếm đóng. Khởi đi từ
Ủy Ban Chấp Chánh Lâm Thời [Comité
administratif provisoire] ở Huế (12/4/1947) và Hội đồng An
Dân Bắc Việt [Comité provisoire de gestion
administrative
et d'action sociale] ở Hà Nội (19/5/1947), các ủy ban
hay hội đồng hàng
tỉnh, hàng quận tiếp tục được thiết lập. Trong
hai tháng cuối Xuân, đầu Hạ 1947, Hồ lại mở chiến dịch
kêu gọi thương thuyết.
Ngày 19/6, Hồ tuyên bố muốn được độc lập trong Liên
Hiệp Pháp. Một tháng sau,
ngày 19/7, Hồ cải tổ chính phủ. Hai nhân vật
“ôn hoà”–Hoàng Minh Giám và Tạ
Quang Bửu, rất thân thiết với Võ Nguyên
Giáp–lên nắm Bộ Ngoại Giao và Quốc
Phòng. Chu Bá Phượng, một lãnh tụ VNQDÐ vẫn
được “nắm” chức Cứu tế, Xã hội (dù
trên thực tế đang bị giam lỏng). Nguyễn Văn Tố, Ðặng Văn
Hướng, Bồ Xuân Luật là
ba Bộ trưởng không bộ nào. Vũ Ðình Tụng, Bộ
trưởng Cựu Chiến binh, và Ngô Tử
Hạ, Thứ trưởng Cựu Chiến binh, đại biểu giáo dân
Ki-tô. Tôn Ðức Thắng mất chức
Bộ trưởng Nội Vụ; Giáp lên chức Tổng Tư lệnh Quân
đội.(65) Giới ngoại giao
ghi nhận việc
cải tổ chính phủ này như một nỗ lực của Hồ để nối lại
thương thuyết. Tuy nhiên,
khi trở lại Bảo Ðại,
và nhất là những cộng
sự viên buổi đầu như Kim, Thành, Diệm, Sâm mới trải
qua một cơn sốt váng vất độc
lập, thống nhất—và, phần nào vì mặc
cảm—–đòi hỏi Pháp nhân nhượng nhiều hơn
những gì đã nhân nhượng với Hồ. Gặp Cousseau ở Hong
Kong vào tháng 1/1947,
chẳng hạn, Kim đưa ra 7 điều kiện để hợp tác: 1/ thống nhất 3
kỳ; 2/ tự trị; 3/
định rõ vị trí của VN trong Liên Hiệp Pháp;
4/ VN phải có quân đội; 5/ VN phải
có cơ cấu tài chính; 6/ Pháp nên định
một hạn kỳ trao trả độc lập cho VN; 7/ VN
có đại biểu ngoại giao với các nước Á
Ðông và buôn bán với các nước
khác.( 67) Tuy nhiên,
Pháp không chịu nhượng
bộ. Quá tự tin ở sức mạnh quân sự—ít nữa đủ sức
đánh tan quân đội chính qui
Việt Minh—ai nấy hy vọng chiến thắng không xa. Tình
hình quân sự những tháng đầu
năm 1947 phần nào thắp sáng ngọn lửa lạc quan.
Ngày 17/2/1947, bộ đội Việt Minh
rút khỏi Hà Nội. Gần một tháng sau, ngày
11/3, Pháp làm chủ Nam Ðịnh. Tại miền
Trung, Pháp tái chiếm Hội An [Faifo] ngày 15/3,
Quảng Nam ngày 16/3; rồi đổ bộ
Ðồng Hới ngày 27/3. Riêng Hòa Bình,
ngày 15/4 Pháp làm chủ được tình thế. Bởi
vậy, Bollaert và cố vấn tìm cách kéo
dài thời gian, chờ đợi kết quả chiến dịch
mùa khô 1947—một chiến dịch mà Tướng lãnh
Pháp tin tưởng sẽ bẻ gãy xương sống
quân đội Việt Minh. Ðể chuẩn bị cho chiến dịch này,
ngày 16/5 Bollaert cử Tướng
Raoul Salan—một nhân vật quen thuộc với Ðông Dương,
từng tham gia cuộc thương
thuyết với Trung Hoa và Hồ năm 1946—làm Tư lệnh miền Bắc.
Viện binh Pháp cũng
lục tục kéo tới, nhiều nhất là lính Lê-dương
[Légions étrangères] gốc
Ðông Âu và lính da đen Phi Châu. Bollaert
cũng cho cải tổ những chính phủ “Tề” tại miền Bắc và miền
Trung. Ngày
19/5/1947, Y sĩ Trương Ðình Tri–nguyên Bộ trưởng Y tế
trong chính phủ Liên Hiệp
2/3/1946 của Hồ–được cử làm Chủ tịch Hội Ðồng An Dân
Bắc Việt. Tại miền Trung,
Trần Văn Lý cầm đầu Ủy ban Chấp Chính Lâm Thời
Trung Kỳ. Nguyễn Khoa Toàn, Tỉnh
trưởng Thừa Thiên từ năm 1946, nắm Hội đồng Thẩm nghị [Tư vấn]
Trung Kỳ. Tại
miền Nam, mặc dù coi chính phủ Lê Văn Hoạch
là gánh nặng của mình, Bollaert
biến hoá dần sản phẩm của nhóm Gaullist này.
Ngày 19/5, Bollaert trả Dinh Thống
Ðốc cho Hoạch. Ðồng thời, áp lực Hoạch cải tổ
chính phủ và tách biệt dần khỏi
khuynh hướng tự trị. Tại miền Bắc,
nhóm Ðặng Vũ Lạc
(1902-1948), Lê Thăng (1901-1987?), Ðỗ Văn Năng (1915-1950)
bắt đầu qui tụ các đảng
viên Ðại Việt và VNQDÐ, thành lập Ðại
Việt Quốc Dân Ðảng hay Tân Ðại
Việt.
Nhượng Tống Hoàng Phạm Trân cùng Ngô
Thúc Ðịch và một số người khác tái tổ
chức
VNQDÐ. Tại miền Trung,
VNQDÐ và Ðại
Việt tái xây dựng tại vùng Tề. Tổ chức Ðại
Việt
Phục
Hưng của Diệm cũng hoạt động trở lại. Do Nguyễn Khoa
Toàn đề xướng,
Trần Văn Lý và Trần Thanh Ðạt lập nên Việt
Nam Quốc Gia Liên Hiệp làm cánh tay
chính trị. Một nhân vật đang lên khác
tại miền Trung là Phan Văn Giáo (1901-1963?).
Giáo, một Dược sĩ Ki-tô gốc Ninh
Hoà từng nổi danh là cây vợt tennis tên tuổi,
bị Việt Minh bắt giữ vào tháng
8/1945 vì liên hệ với VNQDÐ, và lên
án 6 năm khổ sai, tịch biên gia sản vào
tháng 2/1946. Thoát ra Hà Nội tháng
11/1946, Giáo qua Tại
miền Nam, thế chống Cộng của các phe nhóm gia tăng hơn
nữa sau khi Giáo
chủ Huỳnh Phú Sổ (1917-1947) của đạo Hoà Hảo bị Việt Minh
sát hại ngày
20/4/1947. (68) Các phe
nhóm tự trị thay đổi
lập trường, tuyên bố không chống đối việc thống nhất, miễn
mỗi xứ vẫn có tự trị
về kinh tế và chính trị. Những nhóm chống Cộng
khác tổ chức biểu tình khắp nơi.
Ngày 12/8, Huế biểu tình yêu cầu Bảo Ðại về
nước chấp chánh. Ngày 1/9 và rồi
14/9, biểu tình được tổ chức ở Sài Gòn. Các
viên chức vùng Tề khắp ba
miền cũng tới tấp đi lại giữa Việt Nam và Hong Kong để “van xin”
Bảo Ðại đứng
ra nhận trách nhiệm. Có những nỗ lực liên hiệp giữa
Lê Văn Hoạch và MTQGTNTQ
của Nguyễn Văn Sâm, sau khi Hộ Pháp Tắc tuyên bố ủng
hộ tổ chức này ngày 16/8.
Ðiều kiện của Sâm là ghế Bộ trưởng Nội Vụ hoặc Quốc
Phòng. Sau đó, MTQGTNTQ ủy
Hoạch tiếp xúc Bảo Ðại để cầm đầu phong trào quốc gia
và thống nhất đất nước.
Ngày 5/9, Bảo Ðại tuyên bố muốn tiếp xúc với
các lãnh tụ VN để bàn luận thời
sự. Cùng ngày, dù không được mời, Sâm
qua Giới
giáo dân Ki-tô cũng âm thầm yểm trợ thí
nghiệm Bảo Ðại. Từ đầu năm 1947, Giám
mục Từ đã cho một số chính khách chống Cộng
vào ẩn náu tại Phát Diệm mà Hồ cho
hưởng đặc ân tự trị. Vợ chồng Ngô Ðình Nhu
và Trần Văn Chương một thời tá túc
tại đây, trước khi bí mật vào Nam, rồi cư ngụ ở
Ðà Lạt. Các chi nhánh Ðại Việt
Duy Dân, VNQDÐ và Ðại Việt cũng bắt đầu được
tái sinh. Trong khi đó, Từ mượn
những chuyến thăm viếng giáo dân với danh nghĩa vận động
kháng chiến chống Pháp
để tuyên truyền nhu cầu thánh chiến chống Cộng. Tại
giáo phận Vĩnh Long, Giám
mục Thục cắt dần liên hệ với Việt Minh. Nhưng nhiệt tình
chống Cộng hơn cả là
các giáo mục tại vùng Bến Tre và Mỹ Tho. Họ
công khai yểm trợ các đơn vị lưu động
bảo vệ giáo xứ [UMDC] của Trung úy Jean Léon
Leroy, thủ diễn vai trò “chính trị
viên” cho các binh sĩ thêu trước ngực hình
thập tự giá. Tại các vùng Pháp mới
tái lập kiểm soát như Kẻ Sặt (Hải Dương), Quảng
Bình, Quảng Trị, Kontum, v..
v... nhiều đơn vị tự vệ của giáo dân Ki-tô được tổ
chức để chống Cộng. Pháp còn
sử dụng các giáo sĩ Ki-tô để móc nối với
những cộng đồng giáo dân tại các giáo
phận Việt Minh kiểm soát. Khâm sứ Drapier không
những ban phép lành cho phong
trào thánh chiến này mà còn đẩy mạnh
hơn vai trò Diệm và họ Ngô trong thí nghiệm
Bảo Ðại.(70) Mặc
dù có kẻ thù chung là Cộng Sản, các
tổ chức chính trị và giáo phái không
đạt được
sự đoàn kết cần thiết. Màu sắc tôn giáo, địa
phương chi phối nặng nề, khiến
phần đông hữu danh vô thực. Nguy hiểm nhất là tệ nạn
sứ quân. ( Dĩ nhiên,
phe Việt Minh không
chịu bó tay. Ðài phát thanh Việt Minh
không ngừng đả kích những tên “Việt Gian”
đang âm mưu lập nên một “chính phủ bù
nhìn tay sai” chống lại chính phủ hợp
pháp VNDCCH. Tại miền Theo
đúng kịch bản, ngày 10/9/1947, Bollaert đọc diễn văn lần
thứ hai tại Hà Ðông.
Trong diễn văn này, Bollaert đưa ra khẩu hiệu mới là
“Ðộc lập trong tương trợ [L'Indépendance dans
l'interdépendance].”
Mục đích chính không phải là hứa hẹn sẽ trao
độc lập cho Việt Nam mà chỉ thỏa
mãn đòi hỏi của người Việt bằng cách tạo
một
tiền
lệ
nhắc đến hai chữ “độc lập”–từ năm 1945, Pháp chưa hề
nhắc đến
hai chữ “quốc cấm” này, và chỉ có cặp
Ramadier-Bollaert mới không sợ hãi chúng.
Việc này sẽ chứng tỏ tinh thần “cấp tiến” của Paris.(71) Những đề nghị
của Bollaert
cũng được cân nhắc sao cho Hồ không thể chấp nhận được;
và như thế, tạo lý do
chính đáng để phát động chiến dịch mùa
khô 1947 sắp tới nhằm cắt đứt trục tiếp
vận của Việt Minh từ Hoa Nam, tiêu diệt lực lượng võ trang
Việt Minh, và bắt
sống Hồ cùng những cán bộ lãnh đạo.(72) Diễn văn của
Bollaert cũng mở
cửa cho Bảo Ðại. Mặc dù chẳng trọng vọng gì cựu
hoàng, Pháp miễn cưỡng chấp
nhận cho Bảo Ðại về nước cầm đầu một chính phủ thống nhất
chống Cộng. Bollaert
hy vọng rằng việc đả bại Việt Minh sẽ khiến Bảo Ðại bớt cứng rắn
trong những điều
kiện hợp tác.( 73) Ngày
18/9–tức 4 ngày sau cuộc
biểu tình rầm rộ ở Sài Gòn mời Bảo Ðại về
nước–Bảo Ðại ra tuyên cáo chấp nhận
sự ủy thác của quốc dân và sẵn sàng thương
thuyết. Ngày 20/9, cựu hoàng nói sẵn
sàng gặp đại diện Pháp ở Hong Kong hay Ðông
Dương. Theo Giám đốc Mật Thám Ðông
Dương, Perrier, nói với Lãnh sự Mỹ tại Sài
Gòn ngày 22/9, Bảo Ðại đã đồng ý thương
thuyết, nhưng tạm trì hoãn để khỏi mang tiếng do
Pháp dựng lên. Pháp chẳng kỳ
vọng gì ở Bảo Ðại, chỉ mong Bảo Ðại sẽ có một số
người ủng hộ. Sợ rằng Bảo Ðại
khó lôi kéo số lớn người quốc gia trong hàng
ngũ Hồ. Vậy mà Bảo Ðại đòi hỏi độc
lập rộng rãi hơn những gì Bollaert đã hứa.(74) Ngày
29/9/1947, Hoạch từ chức.
Hai ngày sau, 1/10, Xuân–mới từ Pháp về ngày
15/9–được Hội Ðồng Tư Vấn
C. CHIẾN DỊCH MÙA THU 1947 (LÉA-CEINTURE):
Ngày
7/10, Pháp mở chiến dịch “Léa” (10-11/1947) tấn
công Việt Bắc. Léa là tên một
ngọn đèo cao 1,362 mét trên đường số 3, giữa
Nguyên Bình (Cao Bằng) và Bắc Kạn.
Lực lượng mũi nhọn gồm các toán biệt kích
Dù được thả xuống ngay tỉnh lỵ Bắc
Kạn và thị trấn Chợ Mới, nhằm chộp bắt cơ quan đầu não
của chính phủ Hồ. Tuy
nhiên, Hồ đã sớm di tản đến một khu vực khác.
Trường Chính Ðặng Xuân Khu đang
chủ tọa một buổi họp tại Bắc Kạn kịp thời trốn xuống hầm trú ẩn.
Chỉ có Nguyễn
Văn Tố, Bộ trưởng không bộ nào, bị bắt sống và
tình nghi là chính Hồ. Ngoài ra,
còn có phụ tá của Lê Văn Hiến, Bộ trưởng
Tài chính, cùng một số nhân viên thứ
hạng khác. Ngày
7/10, Pháp cũng chiếm Tong và Sơn La. Nhưng hai mũi chủ
lực Pháp gồm một cánh
thiết giáp có Bộ binh tùng thiết di chuyển từ Lạng
Sơn lên Cao Bằng trên đường
số 4, dưới quyền Trung tá Beaufré; và một
đoàn giang hạm, mang theo hai tiểu đoàn
Bộ binh, do Communal chỉ huy, từ Hà Nội ngược sông Hồng
lên sông Lô, rồi sông
Gầm. Hai cánh quân này sẽ như hai gọng kìm
vây chặt an toàn khu Việt Minh, phá
hủy đài phát thanh, các kho tàng,
tiêu diệt chủ lực, và yểm trợ việc thiết lập
các tiền đồn dài theo biên giới để cắt đứt đường
tiếp vận của Trung Hoa. Ðiểm
hẹn là Ðài Thị, đông bắc Chiêm Hoá
12 cây số. Vì
mực nước sông Hồng lên cao, hai ngày sau,
cánh quân hỗn hợp thủy-bộ của Ðại tá
Commumal mới từ Hà Nội ngược sông Hồng lên
sông Lô, hướng về Tuyên Quang. Trong
khi đó Nhảy Dù tiếp tục truy kích hàng ngũ
lãnh đạo Việt Minh. Ngày 9/10, Tướng
Salan thả thêm 300 Nhảy Dù ở phía Ðông
Nam Cao Bằng, tăng cường cho lực lượng cơ
giới của Beaufré. Một chiếc Junker 52
bị bắn hạ. Ðại tá Lambert, Tham Mưu Phó của Salan,
cùng 10 sĩ quan tùy tùng bị
tử nạn. Việt Minh tịch thu được toàn vẹn kế hoạch hành
quân Lea, và 4 ngày sau
chuyển về Bộ Tổng Tư lệnh của Võ Nguyên Giáp. Ngày
13/10, Nhảy Dù Pháp chiếm Bắc Kạn, Cao Bằng; 20/10, chiếm
Yên Báy; 21/10, chiếm
Chapa; và 30/10, chiếm Lào Kay. Ngày
20/11/1947, Salan mở thêm chiến dịch Ceinture [Vòng
Ðai
hay Thắt Lưng]. Ðây là
giai đoạn II của chiến dịch Việt Bắc.
Chiến dịch này nhằm lùng bắt cho bằng được cơ quan đầu
não của Việt Minh (tại
khu vực núi đá Ðình Cả) và phá
nát căn cứ địa trong khu vực tứ giác Tuyên
Quang-Thái Nguyên-Việt Trì-Phủ Lạng Thương. 9 tiểu
đoàn từ Hải Dương tiến lên
tảo thanh phía Ðông, Ðông Bắc và
chính Bắc Hà Nội. Ðồng thời lập thế cản để đón
đường các đơn vị từ phía rút Bắc về. Ngày
19/12/1947, Chiến dịch
mùa Thu chấm dứt. Mặc dù có những thắng lợi
đáng kể, Salan không đạt được mục
tiêu chiến lược. 60,000 quân Pháp cùng giang
hạm, không quân và thiết giáp chỉ
có thể tịch thu và phá hủy một số kho tàng
của Việt Minh cùng ba trạm phát
tuyến. Mục tiêu chính, tức toàn bộ chính phủ
Hồ, đều chạy thoát. Ðài phát thanh
Việt Minh tiếp tục hoạt động. Trong khi đó, những đợt phản
công của Việt Minh
gây tổn thất đáng kể cho lực lượng Nhảy Dù
Pháp.( 76) Ðáng
sợ hơn nữa, từ ngày
12/10, Hồ ra lệnh “tiêu thổ kháng chiến.” Làng mạc
bị thiêu hủy. Ðường xá, cầu
cống bị phá hoại. Nền kinh tế quốc gia ngày một
phá sản. Qua đầu năm 1948,
tuyến giao thông từ Lào Kay [Cai] tới Cao Bằng của Việt
Minh trở lại tình trạng
tự do như cũ.( 77) Tại miền D. THỎA ƯỚC HẠ LONG 6-7/12/1947:
Như mũi tên
đã rời khỏi giây
cung, thí nghiệm Bảo Ðại tiếp tục chu trình tiến
hoá. Báo chí Ngày
12/12, Bollaert về Pháp báo cáo. Ba ngày
sau, 15/12, Trong khi
đó, chính phủ Truman
bắt đầu lo ngại về sự sụp đổ của chế độ Tưởng Giới Thạch ở Trung Hoa
lục địa. Tướng
Marshall được gửi qua Trung Hoa, hy vọng tìm một giải
pháp chính trị. Tuy
nhiên, Mao Trạch Ðông và Ðảng Cộng Sản Trung
Quốc đã quyết định ngả theo Nga,
công kích mãnh liệt chính sách Mỹ.
Bầu không khí chiến tranh lạnh khiến Mỹ chú
tâm hơn đến Ðông Dương, trực tiếp ủng hộ cuộc
tái xâm lăng Việt Ngày
29/12/1947, báo Life đăng bài “The
Saddest War” [Cuộc chiến buồn thảm nhất] của William C. Bullitt, cựu
Ðại sứ Mỹ
tại Pháp và Liên Sô, cổ võ việc trao
trả độc lập cho Việt Nam theo kiểu
Philippines; giao phó cho người Việt quốc gia chân
chính [true nationalists] trách nhiệm
lôi cuốn những phần tử quốc gia
trong hàng ngũ Việt Minh và tập sự cai quản đất nước. Mặc
dù không nhắc đến Bảo
Ðại, và cũng chỉ đăng hình Bollaert cùng Hồ,
“phần tử quốc gia” mà Bullit nhắc đến
được diễn giải như Bảo Ðại. Thực ra, Bullitt chỉ đề nghị duy trì một chế độ chống Cộng
thân hữu ở Ðông Dương.(80) Từ ngày
7/1/1948, Bollaert và Bảo Ðại lại gặp nhau tại Ðể trấn
an Bảo Ðại, ngày 29/1/1948 Pháp bắt giam Blokov Trần
Ngọc Ranh, trưởng phái đoàn
VM ở E. “KHO VŨ KHÍ CỦA THẾ GIỚI TỰ DO”:
Từ
năm 1947, Ngô Ðình Diệm đã liên lạc với
viên chức Mỹ, xin viện trợ. Ðây chẳng
phải là sáng kiến mới mẻ gì của họ Ngô. Hầu
hết chính khách Việt đều nhận rõ vị
thế siêu cường của Mỹ, nhưng không có đường
giây móc nối như anh em họ Ngô.
Ngay chính Hồ cũng đã hoạt động cho Sở tình
báo chiến lược [OSS] Mỹ trong hai năm
1944-1945, và lực lượng võ trang đầu tiên của Việt
Minh được OSS Mỹ trang bị và
huấn luyện. Hồ còn được đặt cho bí danh Lucius.
Ðiều khiến Mỹ e ngại, và cuối cùng theo đuổi
chính sách “hands-off” [không
nhúng tay] khi Pháp tái xâm lăng Việt Nam
là
thành tích hoạt động cho QTCS của Hồ. Việc Hồ quyết định
giải tán Ðảng CSÐD từ
ngày 11/11/1945 vẫn chưa đủ thuyết phục các viên
chức Mỹ–những người vẫn chủ trương
chỉ có Âu Châu mới đáng chú tâm
hàng đầu.(82)
Dẫu
vậy,
trong
hai
năm 1945-1946, chính phủ Truman vẫn dành cho Hồ
và Việt Minh đôi
chút thiện cảm. Có lẽ nhờ sự can thiệp của Mỹ, Moutet đã đồng
ý ký modus vivendi ngày 14/9/1946
cho Hồ an toàn trở lại Việt Sau khi Bollaert
ký thông cáo
chung Hạ Long (6-7/12/1947) với Bảo Ðại, ngày 21/12, Diệm
cùng Trần Văn Lý lên
Hong Kong gặp cựu hoàng. Trước khi qua Ðiều
ít ai biết là phía sau
hậu trường, ngày 24/12/1947, Diệm bí mật gặp George D.
Hopper, Tổng lãnh sự Mỹ
tại Hong Kong, trình bày về nội tình VN và
giải pháp Bảo Ðại. Mục đích chính
của “Giệm,” theo Hopper, là xin viện
trợ Mỹ. Hopper chỉ ghi nhận
mà không hứa hẹn gì.(84) Tại Việt Riêng Diệm,
qua đường giây
Giám mục Thục, tổ chức một nhóm chống Cộng thân Mỹ.
Tại miền Bắc, Diệm có những
thân hữu cũ như Trần Trung Dung, Nguyễn Xuân Chữ, Nguyễn
Ðình Thuần, v.. v...
Tại miền Trung, Trần Văn Lý thành lập Ðảng
Xã
Hội
Công
Giáo. Tại miền Nam, Diệm được Nguyễn Phước
Hậu, Bertin, Nguyễn Bửu,
Trần Tử Hoàng, v.. v... yểm trợ.(86) Tuy nhiên,
vai trò Diệm bị lu mờ trước những khuôn mặt được
Pháp chọn lựa. Một trong những lý do là
thành tích hợp tác với Nhật của Diệm. Chuyến viếng thăm
Sài Gòn ngày
25/5/1948 của Hồng y Francis Spellman mở thêm liên hệ với
Mỹ cho anh em Diệm.
TGM Sài Gòn, Cassaigne, mời Thục tham dự buổi tiếp
đón Spellman.(87)
Trong
tháng
6/1948,
Trần
Văn Lý chính thức thành lập Ðảng
Xã Hội Công Giáo, do Thục
bảo trợ. Diệm được coi như lãnh tụ
tối cao của đảng này. Trần Trung Dung làm đại diện miền
Bắc đảng Xã Hội Công Giáo;
và
Giám
mục
Từ
quí mến nếu không phải chịu ảnh hưởng Diệm.(88)
Tại
Ðà
Lạt,
Nhu
cùng nhóm Linh mục Parrell tụ họp hạt nhân
đầu tiên của chủ thuyết
“Nhân vị.” Thuyết này dựa theo thuyết Personalisme [Nhân vị]
của Emmanuel
Mounier, đặt trên cơ bản thần quyền Ki-tô giáo. Cuối tháng
6/1950, trước ngày Diệm
và
Thục đi Mỹ,
tổ chức Phong Trào Quốc Gia Quá Khích,
có
liên
hệ
với Diệm, ra đời ở Trung và Nam phần.
F. CHÍNH PHỦ LÂM THỜI & THỎA ƯỚC HẠ LONG II (5/6/1948):
Trong khi
đó, tại nội địa, các
chuẩn bị cho Bảo Ðại hồi hương vẫn tiếp tục. Ngày 27/1/1948,
Cao Ðài và Hoà Hảo
ký hiệp ước tương trợ. Ngày 8/2, Việt Nam
Quốc Gia Liên Hiệp họp ở Huế. Sau khi
chính phủ Ramadier
khẳng định vẫn tin cậy Bollaert trong việc thương thuyết với Bảo
Ðại, cuối
tháng 2/1948, Diệm lại qua Mặt
khác, ngày 26/3, Bảo Ðại viết thư cho đại diện những
đoàn thể chính trị và tôn
giáo, khẳng định chấp thuận việc thành lập chính
phủ lâm thời trung ương để thương
thuyết với Pháp. Cuối tháng 4/1948, Xuân qua Hồng
Kông gặp Bảo Ðại; được chấp
thuận cho lập chính phủ trung ương lâm thời. Ðầu
tháng 5/1948, Paris phê chuẩn
việc Xuân làm Thủ tướng, và sẽ trực tiếp ký
Hiệp ước với Bollaert, với sự
“chứng kiến” của Bảo Ðại.(90) Ngày
15/5, Bảo Ðại gửi thông điệp cử Xuân thành lập
Chính phủ trung ương lâm thời.(91)
Năm
ngày
sau,
20/5, một nhóm 37 người,
có cả Phạm Công Tắc, họp Ðại hội tại Sài
Gòn, ký quyết nghị “Vâng thánh ý” lập
Chính phủ Trung ương lâm thời Việt Nam. Tại Ðại hội
này,
các đại diện ra tuyên cáo: Việt Nam là một
nước đồng minh mà không phải “liên
hiệp” [associés]; VN có quyền gửi các lãnh
sự ngoại giao; VN có những nhân viên
ngoại giao ở hải ngoại; VN có thể được các nước
ngoài nhìn nhận, mà như thế được
tình trạng “dominion” như của Bri-tên.(92) Ngày
21/5/1948, chính phủ
Trung ương Lâm Thời thành hình. Hai ngày
sau, 23/5, Nguyễn Văn Xuân ký Sắc lệnh
số 1, thành lập “Chính phủ Trung ương lâm thời Việt
Ngày 3/6,
khi Xuân ra trước Hội đồng Tư
Vấn Nam Kỳ, yêu cầu được yểm trợ trước khi đi Hạ Long, Ðảng Quốc Gia Ðộc Lập, mới thành lập,
công kích Xuân là bán đứng
Nam Kỳ. Dẫu vậy, ngày 5/6/1948, Bollaert và Xuân
cùng các đại diện chính quyền
ở ba miền (Nghiêm Xuân Thiện, Ðặng Hữu Chí
[Bắc], Phan Văn Giáo, Nguyễn Khoa
Toàn, Ðinh Xuân Quảng [Trung], và Trần Văn Hữu,
Lê Văn Hoạch [Nam]) gặp nhau
trên chiến hạm Duguay-Trouin, “dưới
sự chứng kiến” của “đế “ Bảo Ðại. Sau đó ra Tuyên
ngôn chung (Déclaration
Commune) ba [3] điểm; theo đó, điều 1
xác định: “Nước Pháp long trọng nhìn
nhận
sự độc lập của nước Việt Ngoài
Tuyên Ngôn Chung nói trên, còn
có một phụ bản mật, với nội dung tương tự như
mật ước ngày 7/12/1947. Bảo Ðại, Nguyễn Văn Xuân
và Bollaert cũng ra ba tuyên
cáo riêng lập lại những điều căn bản trên.(97)
Ngay
sau
đó,
Bảo
Ðại rời Hong Kong qua Ít
nữa thì “Hiệp ước” Hạ Long cũng mang lại vài tin vui.
Ðiều khiến Pháp hài lòng
nhất là ngày 17/6/1948, Bảy Viễn bỏ Việt Minh mang
quân Bình Xuyên về hợp tác với
Bảo Ðại. Ngày Chủ Nhật, 1/8/1948, Xuân bổ nhiệm Bảy
Viễn làm Ðại tá tạm thời,
tùng sự dưới quyền Trần Văn Hữu.(98) Ðể
làm vui lòng giáo phái Hòa Hảo,
Xuân cử Lê Công Bộ làm Thứ trưởng Nội vụ,
và
ngày 26/6/1948, phong Trần Văn Soái lên Thiếu tướng
thực thụ. G. HIỆP ƯỚC ELYSEE (8/3/1949):
Mặc dù
đã ký Tuyên Ngôn Chung Hạ
Long II, dư luận Pháp vẫn chưa muốn trao trả độc lập và
thống nhất cho Việt Trong khi
đó, Bảo Ðại không chứng tỏ dấu hiệu nào sẽ về
nước ngay. Có nhiều nguyên do. Trước hết là phản
ứng dữ dội của phe Việt Minh
Cộng Sản. Ngày 27/4/1949, khi nước đã cạn, ngọn
lửa “thánh chiến chống Cộng” ngày càng bốc mạnh,
và Mao đã chiếm Bắc Kinh, Hồ
lên án tử hình Bảo Ðại, rồi công khai
chống “đế quốc đầu xỏ Mỹ.” Ðồng
thời xiết chặt quan hệ với Ðảng CSTH–qua những cuộc hành
quân hỗn hợp tiêu diệt
và ngăn chặn tàn binh Tưởng tràn vào Bắc
Việt, hay đánh phá Thập Vạn Ðại Sơn,
nằm sát biên giới Quảng Tây-Cao Bằng. Ngày 7/6,
Hồ gay gắt phản đối việc
“bọn bù nhìn” [fantoche] ký kết hòa ước với
bất cứ nước ngoài nào. Cơ quan
tuyên truyền Việt Minh phát động chiến dịch bôi nhọ
từ Bảo Ðại tới những người
khác trong chính phủ Xuân. Việt Minh cũng gia tăng
hành động khủng bố –kể cả
chôn sống–để ngăn chặn phong trào về tề.( 100)
Xuân
và
các
cộng sự viên cũng bị lên
án tử hình. Mặt khác,
Bảo Ðại vẫn nhấn mạnh đòi hỏi thống nhất lãnh
thổ và độc lập thực sự.( 101) Quan
trọng hơn cả là sự chống đối của thành phần bảo thủ
Pháp. Theo một viên chức Mỹ, Phụ tá
Tây Âu Vụ Bộ Ngoại Giao Mỹ, Wallner, chính phủ
Schumann đang chuẩn bị ra điều
trần về ngân sách quân sự và quĩ yểm trợ kinh
tế trước khi QH tái nhóm ngày
15/7, nên có lẽ chẳng dám ném ra thỏi thuốc
nổ Ðông Dương. Trong khi đó tại QH
các đảng Cộng Sản, Gaullist và PRL chắc chắn sẽ chống
đối. Số dân biểu Xã Hội
chống lại có lẽ không nhiều, mặc dù nghị quyết về
vấn đề thương thuyết với HCM đã
thông qua. Có lẽ Schumann sẽ không đưa vấn đề ra
trước Quốc Hội, nhưng Bollaert
thì nhất quyết đòi Quốc Hội thảo luận, hoặc sẽ từ chức.
Wallner đề nghị
Marshall nên cảnh giác Schumann là Pháp đang
đối diện hai con đường: chấp nhận
ngay nguyên tắc Việt Thêm
vào đó, ngày 28/8/1948 chính phủ
André Marie
(26/7-28/8/1948) bị đổ. Ngày 11/9, Henri Queuille được cử lập
chính phủ mới,
với Schumann làm Ngoại trưởng, Ramadier nắm Quốc Phòng.
Tháng 10/1948, Bollaert
về nước. Ngày 20/10, Queuille cử Léon Pignon làm
Cao Ủy Ðông Dương.( 103)
Pignon
vội
xúc
tiến
ngay việc thương thuyết với Bảo Ðại, vì lúc
này áp lực của Liên Bang Mỹ ngày
một mạnh.( 104) Những chiến thắng
liên tiếp
của Mao Trạch Ðông tại lục địa khiến Pháp hối hả hơn
trong việc thực hành thí
nghiệm Bảo Ðại. Ngày 22/1/1949, Tưởng Giới
Thạch từ chức, rồi bay ra Ðài Loan. (Lý Tôn
Nhân lên thay). Ðang điều đình
với Bảo Ðại, Chủ Nhật, 24/1/1949, Cao ủy Pignon phải hối hả bay về
Ðông Dương đối
ứng tình thế mới. Ðầu tháng 2/1949,
Ðảng
CSTQ chiếm Bắc Kinh. Biến
cố này khiến thương thuyết Pháp-Bảo Ðại vượt nhanh
qua những trở ngại kỹ thuật.
Buổi tối ngày Thứ Tư, 17/2/1949, Bửu Lộc, Chánh văn
phòng của Bảo Ðại, từ
Cannes về Paris, cho Ðại sứ Mỹ Caffery biết rằng Bảo Ðại sẽ
được Tổng thống
Pháp Vincent Auriol mời lên Paris ký Hiệp ước
vào tuần sau, và trở về Việt Nam
bằng tàu chiến vào đầu tháng 4/1949.( 105) Ngày
25/2, báo chí Phía sau
hậu trường, Bộ trưởng
Hải ngoại Coste-Floret vận động Quốc Hội Pháp biểu quyết cấp
thời một sắc luật
thành lập một Hội đồng Lãnh thổ Nam kỳ (Assemblée
Territoriale
de
Cochinchine,
HÐLTNK), gồm 12 đại diện
Pháp và 24 đại diện
Việt, để quyết định số phận Nam Kỳ. Viên chức Pháp cũng
giữ kín nội dung “Hiệp ước
Elysée” tới ngày Bảo Ðại về nước, dự trù
vào 25/4/1949 để có một “kích xúc tâm
lý” (choc psychologique).( 107) Ngày Thứ
Năm, 9/3, Quốc Hội
Pháp bắt đầu thảo luận về Thỏa ước Elysée và vấn
đề Nam Kỳ. Báo Franc-Tireur của Ðảng
Xã hội Gaullist đăng
thư đề ngày 17/1/1949 của Guy Mollet gửi Thủ tướng Queuille:
Bác giải pháp Bảo
Ðại, và kêu gọi thương thuyết với Hồ. Theo dân
biểu Jean Guillon, “Giải pháp quân
sự không thể thắng; Bảo Ðại chẳng có một chút
uy thế nào ở Việt Nam. Việt Guillon cũng cho
rằng chính
phủ Pháp đã chịu áp lực của Mỹ, đề cập đến chuyến
thăm Ðông Dương của Bullit,
cựu đại sứ Mỹ ở Paris, vào tháng 9/1948; rồi cảnh
cáo rằng thanh niên Pháp đang
bị giết để bảo vệ quyền lợi kinh tế của Mỹ. Theo Guillon: “Thực ra, Chủ
tịch Hồ
Chí Minh không làm hài lòng ông
Bullit, vì trong thời gian Nhật đầu hàng, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã từ chối những đề nghị do Tướng
Gallagher nhân danh
Washington đưa ra.” Guillon cũng dẫn lời của Cuisinier, trên
báo Revue socialiste [Tạp chí Xã hội]
số
tháng 7/1948, nhận định về Hồ: Chủ
tịch
Hồ
Chí
Minh đã qui tụ được những người quốc gia
không đảng phái cũng như
một số đông những người Ki-tô giáo yêu nước.
Chống lại ông ta chỉ có cựu quan
lại, cựu công chức, vài trưởng giả giàu
có–mà không phải tất cả họ–và những
cá
nhân, dưới chế độ Nhật cũng như Pháp, đã nghĩ đến
sự gia tăng quyền lợi bản
thân mà họ có thể rút ra từ phe này
hay phe kia, dù không vì bất cứ phe nào,
trước
khi nghĩ đến tổ quốc hay việc bảo vệ một lập trường chính trị.” (110) Guillon
còn dẫn lời cựu Thủ tướng
Léon Blum, trên báo Le Populaire
ngày
6/8/1947: “Thưa
vâng,
người
ta
phải thương thuyết với những đại diện thực [authentiques]
và
xứng đáng [qualifiés] của dân chúng Việt Dẫu vậy,
ngày Thứ Bảy, 11/3,
Quốc Hội Pháp chấp thuận lập Hội đồng
Lãnh thổ Mãi
tới ngày 10/6/1949–sau khi Quốc Hội Pháp chấp thuận cho
Nam Kỳ sát nhập vào
Việt Nam (3/6/1949) và Tổng thống Auriol ban hành Luật
công nhận Việt Nam thống
nhất (4/6/1949), đồng thời báo chí Pháp công
bố một thư Auriol gửi Bảo Ðại
khẳng định QH Pháp đã thông qua luật sát
nhập Nam Kỳ vào Việt Nam; như thế “độc
lập và thống nhất của Việt Nam, trong Liên Hiệp
Pháp, đã trở thành sự thực”
(6/6/1949)–Bảo Ðại mới xuống Sài Gòn trao đổi văn
kiện với Pignon và ra mắt
quốc dân. Trong thời gian
chờ đợi, Bảo
Ðại vận động xin viện trợ Mỹ. Ngày 2/6, Ðại sứ Mỹ Bruce
từ Paris điện báo “Quốc
trưởng” Bảo Ðại muốn được Mỹ nhìn nhận trên thực tế (de facto recognition), được viện trợ kinh tế trực tiếp,
và giúp vũ
khí qua trung gian Pháp (50,000-60,000 súng). Cũng
muốn Mỹ gửi đến những phái đoàn
thiện chí, và nâng Toà Tổng lãnh sự
lên hàng Phái bộ (Legation).(114)
Tuy
nhiên,
đa
số
chuyên viên Mỹ đều cho rằng Thỏa ước Elysée
“quá ít, quá chậm”
(too little, too late). Pháp cần rộng rãi hơn nữa trong
việc diễn dịch và thi hành thỏa ước, vì
giải pháp Bảo Ðại chỉ có khoảng 50-50 thành
công. Giám Ðốc Tây Âu vụ, Douglas
MacArthur II, khẳng định các quan điểm cho rằng Mỹ sẽ đổ viện
trợ vào Ðông Dương
để ngăn chặn vùng này lọt vào tay CS, hay
quân viện Mỹ sẽ giúp Pháp đạt một
chiến thắng quân sự, hoàn toàn sai lầm và
nguy hiểm.(115) không
ủng hộ chính phủ thành lập qua Hoà ước 8/3/1949.”
Ngày 2/5, Ngoại trưởng Dean
Acheson chỉ thị cho Tổng lãnh sự Abbott ở Sài Gòn:
“Phải cố tránh gây sự hiểu
lầm là Mỹ trên thực tế nhìn nhận chế độ Bảo
Ðại.”(116)
Cho
tới
ngày
7/10/1949,
sau khi Mao tuyên bố thành lập Cộng
Hòa Nhân Dân Trung
Quốc, chính phủ Mỹ vẫn cảm thấy chưa tiện công nhận
chính phủ Bảo Ðại. Sự trì
hoãn của Mỹ phản ảnh sự
khác biệt sâu đậm giữa Pháp và Mỹ.
Ðông Dương, với Pháp, là quyền lợi chính
trị, kinh tế và văn hóa. Với Mỹ, chiến lược chống Cộng
là bản căn. Buổi nói
chuyện ngày 13/4/1949 giữa W. Walton Butterworth, Giám
đốc Viễn Ðông vụ, và
Charles S. Reed, Ðông Nam Á vụ, với Jean Daridan, Cố
vấn Toà Ðại sứ Pháp, phần
nào phản ảnh tâm ý các viên chức Mỹ.
Khi Daridan đặt câu hỏi liệu Mỹ có yểm trợ
Bảo Ðại hay chăng nếu sau một thời gian kế hoạch Bảo Ðại chứng
tỏ có tiến bộ,
Butterworth khẳng định chỉ muốn giúp những người chống Cộng.(117) Ngày 10/5,
Acheson chỉ thị cho
Tổng Lãnh sự Abbott: Mỹ muốn thí nghiệm Bảo Ðại
thành công vì chẳng có một lựa
chọn nào khác hơn. Ðang chờ cơ hội thuận tiện để
công nhận Quốc Gia Việt Ngày
20/5/1949, Acheson còn
chỉ thị Lãnh sự Hà Nội William Gibson giải thích
thêm cho Xuân những điểm sau:
Nhìn vào quá khứ của Hồ, không thể có
kết luận nào hơn rằng Hồ là Cộng Sản, nếu
(1) Hồ không tuyên bố cắt đứt liên hệ với Liên
Sô và chủ thuyết Cộng Sản, và
(2) tiếp tục được báo chí Cộng Sản ca ngợi cũng như ủng
hộ. Hơn nữa, Mỹ không
thấy khía cạnh quốc gia của Hồ qua lá cờ đỏ sao
vàng. Vấn đề Hồ vừa là Cộng
Sản, vừa là quốc gia không đáng lưu tâm
(irrelevant). Tất cả những cán bộ
Stalin ở các nước [cựu] thuộc địa đều là người quốc gia.
Sau khi đã đạt được
mục đích quốc gia (tức độc lập), mục tiêu kế tiếp sẽ
là biến quốc gia thành phụ
thuộc cho mục đích Cộng Sản, và tận diệt không
những chỉ người chống đối, mà cả
các phần tử bị nghi ngờ là không đúng đường
lối.... Nếu mời Hồ và CS gia nhập
chính phủ Bảo Ðại, chỉ đình hoãn việc Việt Nam
trở thành độc lập, hay một vệ
tinh của Cộng Sản cho tới lúc thời cơ của những người quốc gia
bị kém sút. Dĩ
nhiên, trên lý thuyết, có thể thiết lập một
chế độ Cộng Sản quốc gia như
Yugoslavia [của Tito] tại bất cứ vùng nào ở xa
vòng kiềm toả của Hồng quân Liên
Sô. Nhưng Việt Chẳng hiểu
có sự tiến cử của Reed hay chăng–lúc này Reed
đã về Ban Viễn Ðông vụ ở BNG Mỹ–dịp này
đích thân Bộ trưởng Hải Ngoại
Coste-Floret cố thuyết phục Diệm lập chính phủ, nhưng
không thành công. Diệm nêu
lý do sợ giáo dân
Ki-tô bị VM thảm sát.(120) Ngày
1/7/1949, Bảo Ðại ký sắc lệnh số 1-CP công bố danh
sách chính phủ.(121)
Ngày
12/7,
Bảo
Ðại
về Huế. Ngày 14/7, từ Huế, Bảo Ðại hiệu triệu
quốc dân. Hai ngày
sau, 16/7, ra Hà Nội. Ngày,
15/7/1949, Giáo hoàng Pius XII (1939-1958) ra lệnh
“rút thông công” bất cứ ai
có liên hệ với Cộng Sản. Thánh lệnh này phần
nào giải tỏa mối lo ngại của Diệm,
nhưng Diệm vẫn chưa chịu hợp tác với Bảo Ðại. Trong khi
đó, các cộng đồng Ki-tô
ngày một nghiêng về phía Thế giới Tự Do, thắp hồng
“cuộc thánh chiến” chống
Cộng Sản. Ngày 21/9,
Diệm về Huế, sống ở
nhà Ngô Ðình Cẩn (1911-1964), em trai áp
út. Ngày 22/11–trong khi Hồng quân
Trung Cộng đang tiến sát dần tới biên giới Việt-Hoa–Diệm
rời Huế vào Sài Gòn,
rồi Vĩnh Long, và Ðà Lạt (2/1950). Tháng
3/1950, Giám mục Từ tại
Phát Diệm sai Lê Quang Luật vào Nam yêu cầu
Diệm đừng “chùm chăn” và “ngang bướng”
nữa, cần yểm trợ Bảo Ðại.(122)
Ngày
9/4/1950,
Tổng
lãnh sự Mỹ Edmund
Gullion, XLTV Ðại sứ, báo cáo chính phủ Nguyễn
Phan Long sắp đổ và Trần Văn Hữu
có thể lên thay. Gullion nghĩ rằng Pháp hẳn muốn
Diệm, nhưng Bảo Ðại không đồng
ý. Giữa năm 1950,
Diệm có ý định
thành lập một lực lượng thứ ba, thân Mỹ, chống Pháp
để lôi kéo những người bất
mãn trong hàng ngũ Việt Minh. Cuối tháng 6/1950,
tổ chức Phong Trào
Quốc Gia Quá Khích
ra đời ở Trung và Nam Việt, có liên
hệ với Diệm. H. HỒ NGẢ THEO CỘNG SẢN:
Từ
năm 1945-1948, Hồ Chí Minh bắt đầu có liên lạc chặt
chẽ với Ðảng Cộng Sản Trung
Hoa [Zhonghua
gongshandang]. Một trung đoàn Trung Cộng
[TC] tỉnh Quảng Ðông đã được Hồ cho phép hoạt
động tại vùng Việt Bắc để tránh
sự tận diệt của Tưởng Giới Thạch. Từ tháng 6 tới tháng
10/1949, một số đơn vị
Việt Minh cũng tham dự chiến dịch Thập Vạn Ðại Sơn ở vùng
ranh giới Vân
Nam/Quảng Tây của Trung Cộng. Tuy nhiên, chỉ từ đầu năm
1950, Hồ mới công khai
ngả theo phe Cộng Sản. Do sự khuyến khích của Bắc Kinh, từ
thượng tuần tháng
1/1950, Hồ Chí Minh đi bộ 17 ngày đêm qua tới Nam
Ninh (Quảng Tây), rồi được Lưu
Thiếu Kỳ đón lên Bắc Kinh. Hồ cho biết mục đích của
chuyến đi là xin viện trợ.
Vì cả Mao Trạch Ðông lẫn Chu Ân Lai đã
qua Mat-scơ-va, ngày 3/2, Lưu Thiếu Kỳ
dàn xếp cho HCM qua Nga. Tại Mat-scơ-va, HCM được gặp Stalin.
Stalin hỏi Hồ về
lý do giải tán Ðảng Cộng Sản
Ðông Dương
(chính thức từ ngày 11/11/1945), rồi chỉ thị cho Mao tiếp
tay Ðảng CSÐD. Ðây là
lần đầu tiên Hồ được gặp “người thép” Nga, dù
đã chính thức hoạt động cho QTCS
từ hơn phần tư thế kỷ trước.( 123) Ðể
chuẩn bị cho chuyến viếng thăm Bắc Kinh, ngày 15/1/1950,
đài phát thanh Việt
Minh công bố chính phủ VNDCCH của Hồ chính thức
công nhận chính quyền Cộng Sản
Trung Hoa, và yêu cầu các nước Cộng Sản mở quan hệ
ngoại giao với chính phủ
VNDCCH. Ba ngày sau, 18/1, Bắc Kinh nhìn nhận VNDCCH.
Ngày 30/1 đến phiên
Mat-scơ-va. Các nước Cộng Sản khác liên tục mở bang
giao với chế độ Hồ. Ngày
17/2/1950, Hồ tháp tùng phái đoàn Mao
và Chu Ân Lai rời Mat-scơ-va. Sau đó, Hồ
ở lại Bắc Kinh tiếp tục thảo luận về viện trợ. Lưu Thiếu Kỳ, Phó
Chủ tịch Trung
Cộng, đích thân điều động công tác “nghĩa vụ
quốc tế” này. Hồ xin Bắc Kinh cung
cấp chuyên viên quân sự để cố vấn và chỉ huy
từ cấp Trung đoàn và Sư đoàn trở
lên, nhưng Lưu Thiếu Kỳ chỉ đồng ý gửi cố vấn. Luo Guibo
[La Quí Ba] được chọn
làm Cố vấn trưởng chính trị; trong khi Wei Guoqing [Vi
Quốc Thanh] cầm đầu phái
đoàn cố vấn quân sự với nhân số khoảng 280 người.
Trung Cộng cũng hứa giúp huấn
luyện và trang bị vũ khí cho 6 đại đoàn (sư
đoàn) Việt Minh. Các trung đoàn đầu
tiên qua Vân Nam huấn luyện thuộc Ðại đoàn
Quân Tiên Phong (308) của Vương Thừa
Vũ, và 312 của Lê [Trịnh] Trọng Tấn. Ðể bảo đảm cho
việc tiếp vận từ Trung
Cộng, Bắc Kinh giúp Hồ mở chiến dịch biên giới
“Cao-Bắc-Lạng,” hay Lê Hồng
Phong II (16/9-14/10/1950), nhằm tiêu diệt lực lượng đồn
trú tại Lạng Sơn và
Cao Bằng. Người thực sự chỉ huy trận này là Chen Geng
[Trần Canh], Tư lệnh Quân
Khu Vân Nam, do Hồ xin đích danh. Tướng Marcel Carpentier
rúng động, phải cho
lệnh triệt thoái tất cả những vị trí trú
quân dài theo biên giới, chỉ giữ lại
Tiên Yên-Móng Cáy và Lai Châu.( 124) Từ
ngày này, thế trận thay đổi hoàn toàn. Việt
Minh bắt đầu chủ động chiến trường.
Chính phủ Hồ được giao nhiệm vụ mới: Tiền đồn của Xã hội
chủ nghĩa.( 125) Trong
khối Tự Do, ngày 4/2/1950, Mỹ nhìn nhận chế độ Bảo
Ðại vì “Hồ đã để lộ bản chất
thật sự Cộng Sản.” Rồi đến Bri-tên và một số nước
khác. Từ ngày này Pháp tìm
cách lôi kéo Mỹ và Bri-tên vào
trận chiến chống Cộng ở Ðông Dương. Ðại sứ
Donald Heath (1950-1954) của Mỹ thận trọng thêm vào mối đe
dọa của Trung Cộng
hai chữ “Nga Sô.” Việc Mỹ tham chiến ở Triều Tiên từ
tháng 6/1950, và nhất là
cuộc triệt thoái các tiền đồn biên giới Việt-Hoa,
khiến cuộc chiến tranh lạnh
Mỹ-Nga bắt đầu chi phối nội tình Việt Nam. Pháp bị đặt
vào vị thế cực kỳ tế
nhị. Một mặt, cần thành lập quân đội bản xứ để phụ
giúp cho quân viễn chinh
Pháp; và ngày càng tùy thuộc nhiều
hơn vào viện trợ Mỹ. Mặt khác, giới thẩm
quyền Mỹ không ngừng áp lực Pháp phải trao trả dần
độc lập cho Việt Nam, và áp
lực Mỹ gia tăng theo viện trợ. Winston
Churchill–người cực lực chống lại kế hoạch Quốc tế quản trị [International
Trusteeship] Ðông
Dương của Tổng thống
Franklin D. Roosevelt, và tác giả thuật ngữ “bức
màn sắt” ở Âu châu–sau ngày
lên nắm chức Thủ tướng Bri-tên lần thứ hai, cũng muốn dựng
“bức màn tre” ở Ðông
Dương. Nhưng Churchill chỉ muốn góp ý mà
không tán thành việc gửi quân tác
chiến qua Ðông Dương.(126) VI. “LÊ GÓT NƠI QUÊ
NGƯỜI”: Trong
bài hát “Suy Tôn Ngô Tổng Thống,” để tô
hồng cho thành tích cách mạng của Diệm,
nhà văn Thanh A. QUA MỸ XIN VIỆN TRỢ:
Ngày
18/6/1950, Giám mục Thục
gặp XLTV Ðại sứ Gullion tại Sài Gòn, xin giấy nhập
cảnh Mỹ trên đường qua Roma
dự năm Thánh cho mình và Diệm. Tháng
7/1950, có tin Diệm nhiều lần bị Việt Minh
đe dọa đến tính mạng. Ngày 15/7, Diệm về Huế thăm mẹ bị
đau nặng. Ngày 2/8,
Diệm trở lại Sài Gòn sau khi ghé ngang
Ðàợ Nẵng. Ngày 14/8, Diệm cùng Thục rời
Sài Gòn trên tàu La Marseillaise.
Gặp
Cường
Ðểẩ
ở Nhật, bàn việc lập một chính phủ chống
Cộng.(127) Ngày 2/9,
Diệm và Thục tới Mỹ.
Hơn hai tuần sau, ngày 21/9, William S. B. Lacy, Trưởng Nha Ngày
15/10, Diệm và Thục rời
Mỹ qua Trong
thời gian ở Mỹ, nhờ sự che chở của Francis Spellman, Hồng Y Giám
đốc Tuyên úy
Ki-tô Roma trong quân đội Mỹ, Diệm tá túc tại
Tu viện Maryknoll, thuộc tỉnh
Lakewood, tiểu bang New Jersey. Có dịp làm quen với Thẩm
phán Tối cao Pháp viện
William O. Douglas, nhiều Thượng Nghị sĩ, Dân biểu như Mike
Mansfield
(Montana), John F. Kennedy (Massachusetts), Walter Judd, v.. v... Diễn
thuyết
tại nhiều nơi. Từ ngày này, Diệm trở thành một
lá bài “chí sĩ quốc gia chống
Cộng” trừ bị của Mỹ. Diệm cũng thường tuyên bố mình
là nhân vật được biết nhiều
nhất tại Việt Nam, chỉ thua có Hồ Chí Minh.(131) Ðại sứ Heath
nhiều hơn một lần
tiến cử Diệm trong các cuộc khủng hoảng chính phủ, nhưng
cả Bảo Ðại lẫn Pháp
chỉ muốn những người đáng tin cậy như Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn
Tâm, v.. v...
Ngày 12/5/1952, chẳng hạn, Heath đề nghị cho Bảo Ðại nắm
chức Thủ tướng, và mời
những người có khả năng như Nguyễn Hữu Trí hay Ngô
Ðình Diệm vào nội các, với
chức vụ Phó Thủ Tướng; Pháp ra tuyên ngôn về
một chính sách “tiến hoá” (evolutionary
statement) đối với nền độc lập của Việt
Nam; sửa đổi một số điều khoản lỗi thời trong Hiệp định 8/3/1949
và Hiệp ước
Pau; đẩy mạnh hơn việc thiết lập QÐVN.(132) Khoảng
một
năm sau, ngày 28/4/1953, Heath nhận xét rằng Bảo Ðại
thông minh và hữu dụng
như biểu hiệu đoàn kết Bắc-Nam, nhưng không có khả
năng cỡ Churchill và đại
loại; Tâm nhiệt tình và hữu hiệu, nhưng không
đủ khả năng đoàn kết toàn quốc vì
tính tình và lập trường thân Pháp;
chỉ còn lại hai ứng cử viên Diệm và Trí.
Hiện tại, Diệm không được vì cứng cổ [intransigence],
chống Pháp, không được
Bảo Ðại ưa, và không ưa Bảo Ðại. Chỉ còn
lại Trí xứng đáng nhất.(133) B. QUA ÂU CHÂU:
Sau khi Joseph
Laniel
(6/1953-6/1954) đồng ý trả độc lập hoàn toàn cho
Việt Diệm
cũng từ Mỹ sang Sau
cuộc gặp gỡ này, Mỹ chấp thuận Diệm, không vì Diệm
là nhân vật lý tưởng, mà vì
những người tiền nhiệm quá kém cỏi, và Diệm
có hậu thuẫn của một số giáo mục
Ki-tô. Tuy nhiên, Ngoại trưởng Dulles còn chủ trương
khuyến khích Pháp tiếp tục
hiện diện ở Ðông Dương, nên chưa thuận yểm trợ trực
tiếp cho QGVN như Bảo Ðại
và Diệm yêu cầu. Phần Bảo Ðại cũng được nhóm
cực hữu Pháp áp lực đưa Diệm lên
thay Bửu Lộc. Nhưng cái giá Diệm đòi hỏi
khá cao: Toàn quyền về dân
sự và quân sự.
Trước ám ảnh đại họa Pháp sẽ cắt nửa nước cho Việt Minh,
và tổng tuyển cử trong
một thời gian ngắn để giải quyết thể chế chính trị tương lai,
Bảo Ðại đành nhân
nhượng–chỉ bắt Diệm phải thề trước thập tự giá là tuyệt
đối trung thành, và duy
trì ngôi báu nhà Nguyễn. Cuối
cùng, ngày 16/6/1954, giữa lúc chính phủ
Laniel đã từ chức và Pierre
Mandès-France có nhiều triển vọng lên làm
Thủ tướng, Bảo Ðại bổ nhiệm Diệm làm
Thủ tướng toàn quyền. Ngày 25/6/1954, Diệm cùng
một đoàn tùy tùng nhỏ lên đường
về nước. Phụ chú:
Jean Baptiste Ngô Ðình Diệm: 1.
Department
of
Defense,
US-Vietnam Relations,
1945-1967, 12 books, (Washington, DC: GOP, 1971), Bk 11, tr. 36-41.
Xem
thêm chú 4 infra. 2.
Bernard
B.
Fall, The
Two 3.
Xem
Vũ
Ngự Chiêu, Các
vua cuối nhà Nguyễn, 1883-1945, 3 tập (Houston: Văn
Hóa, 1999-2000). [Sẽ
dẫn: Các vua cuối] Xem chú 18 infra. 4.
Department
of
State,
Office of Libraries and Intelligence Acquisitions, “Biographic Report:
Ngo Dinh
Diem, President of the 5.
Direction
des
Services
Francais de Securité en Indochine [DSFSI], “M. Jean
Baptiste Ngo
Dinh Diem, dit Nguyen Ba Chinh;” SHAT ( 6.
Theo
Lansdale,
Diệm “đã cắt bỏ mối tình với người
yêu đầu
đời để dâng hiến cho tổ quốc” nên 60 tuổi vẫn còn
độc thân. Xem chú 1 supra. Nhưng nhiều
người đương thời, như
Tướng Trần Văn Ðôn André, cho rằng Diệm thiếu khả năng
tình dục. 7.
Xem
Ngô
Ðình
Diệm, “L’Encrier de S. M. Tu-Duc: Traduction des
Inscriptions [Nghiên mực
của vua Tự Ðức: Bản dịch những chữ khắc];” Bulletin
des Amis du Vieux 8.
Phỏng
vấn
Kỹ
sư Luyện ngày 2/11/1985 tại 9.
Xem
báo
cáo
về cuộc đàm thoại ngày 28/4/1955 giữa Bảo
Ðại với William Gibson, Ðệ nhất
thư ký Tòa Ðại sứ Mỹ; FRUS, 1955-1957,
I:332-36; Chính Ðạo, Việt Nam
Niên Biểu [VNNB], 1939-1975, tập I-C:
1955-1963 ( 10.
Nguyên
văn:
“A year after his decision to give up becoming a
priest.
Diem falsified his age and took competitive examinations for the
equivalent of
a highschool diploma;” Robert Shaplen, The
Lost Revolution (New York: Harper & Row, 1966), pp. 106-7. Bằng
“Thành Chung”
hay Diplôme là bằng cao nhất bậc
Trung Học thời gian này. 11.
Xem
tiểu
sử
Thục trong CAOM (Aix), GGI, CP 125; Chính Ðạo, Nhân
vật chí, 1997:312; Idem., Cuộc
thánh chiến chống Cộng,
2004, I:464-65. Tại Việt 16.
Có tài
liệu ghi Khả là Chưởng giáo đầu tiên của trường
Quốc Học; E. Le Bris, “Le Quoc
Hoc;” BAVH (1916), số 1, tr. 80. Ðây
có lẽ dựa theo Dụ năm 1896 của Thành Thái, nhưng
Toàn quyền Pháp không chấp
thuận. Giám đốc trường này là một người
Pháp. Về chức “Thượng thư” của Khả,
chúng tôi chưa thấy một tài liệu nào. Trong
bản dịch một bài thơ nói về chuyến
du ngoạn của vua Tự Ðức–“Une ascension sur l’écran du roi:
Poésie de S. M. Tu
Duc, traduite par Ngô Ðình Khả, Ministre honoraire; BAVH, số 2 (4-6/1916), tr. 223-27–Khả chỉ
ghi “hàm
Thượng thư,” khác xa với Thượng thư thực sự, nói chi
“Thượng
thư đầu triều.” Trần Lục, hay Père Six ở Phát Diệm, tay
chân tín cẩn của Giám
mục Puginier, cũng được thưởng hàm Thượng thư và Bắc đẩu
Bội tinh. 17.
Lời
chứng
của
Nguyễn Thi, cựu Ủy viên Hành Kháng tỉnh Ninh
Thuận, trên báo Nhân Dân
ngày 16/7/1954, dẫn trong Trần
Văn Giàu, Miền Nam giữ vững thành đồng,
5 tập (Hà Nội: NXB Khoa Học, 1964-1978), tập I (1964), tr. 36.
Hai tác giả khác
ghi là việc Diệm dùng đèn cầy đốt hậu môn
tù nhân CS khi làm Tri phủ Hòa Ða;
Nguyệt Ðàm và Thần Phong, Chín
năm máu
lửa dưới chế độ gia đình trị Ngô Ðình Diệm
(Sài Gòn: 1964), tr. 18. Theo
hai tác giả này, nhân chứng là Cử nhân
Nguyễn Trác, cựu Nghị viên trưởng An
Nam. Xem thêm, Bùi Nhung, Thối nát
(Sài Gòn: 1969); Hoàng Trọng Miên, Ðệ
nhất phu nhân (Los Alamitos, CA: 1989), I:128-29. Theo
tài liệu Bộ Ngoại
Giao Mỹ, Diệm tốt nghiệp thủ khoa năm 1921; năm 1929 đã
làm quan đầu tỉnh. Khi
ở Quảng Trị năm 1930-1931, Diệm dùng những thủ đoạn nghiêm
khắc để đàn áp, v..
v... [“From 1922 to 1929 he was a
district chief in the territorial administration of 18.
Thư
ngày
21/8/1944,
Thục gửi Decoux; CAOM (Aix), PA 14, c. 2. Thư này do
tác giả công bố
lần đầu trong Luận án tại Ðại học Wisconsin-Madison năm
1984, rồi trên báo Lên
Ðường (Houston) năm 1989; in lại trong Chính Ðạo, Việt Nam Niên Biểu [VNNB], 1939-1975, tập I-A:
1939-1946, tr. 200.
Vài cá nhân đặt nghi vấn là Pháp ngụy
tạo tài liệu trên. Nghi vấn này do sự
thiếu hiểu biết về phương pháp bảo quản tài liệu văn khố
(khác với thư viện) Hơn
nữa thủ bút và chữ ký của Thục khó thể giả
mạo. Tưởng cũng nên ghi thêm rằng
một vài cá nhân (như Lê Trọng Văn, Bùi
Kha) đã tự động tẩy xóa bút phê của
Decoux cũng như ghi chú của nhân viên văn
phòng Toàn quyền và dấu cùng chữ ký
thị thực của Văn khố Aix-en Provence Pháp trên
phóng ảnh tài liệu trên, in vào
sách họ. 21.
Tại
hải
ngoại,
một cựu thẩm phán Cần Lao bịa đặt rằng Bài
đã được hỏi ý từ trước, đích
thân Phạm Quỳnh thông dịch, và các tân
thượng thư đều có mặt. Thói trộm không
khéo chùi mép này chứng tỏ sự thiếu lương
thiện trí thức của một số người hoài
Ngô. Xem thêm Vũ Ngự Chiêu, Các
vua cuối,
III:1111-145. 22.
TTLTQG
2
(TP/HCM),
RSA/HC, HS 1869; Nam Phong
số 184 (5/1933); Vũ Ngự Chiêu, Các vua
cuối, tập III:793, 1111-129. (Ðoàn sau này hợp
tác với Hồ Chí Minh). 23.
Theo
Tổng
Lãnh
sự Hong kong, Diệm tuyên bố là bạn lâu
đời của Bảo Ðại, đã phục vụ như “Tể
tướng” những năm cũ, và hai gia đình có liên
hệ gần gũi [Ngo Dinh Giem [Diem] claimed that he was an
old friend of Bao Dai, had
served as his Prime Minister in former years, and that their families
enjoyed
close relations.”]; CÐ 450, 30/12/1947, Hongkong gửi BNG; FRUS, 1947, VI:153. Việc tự đánh bóng để
“bán mình” [sell yourself] cho Mỹ
này
không được tài liệu văn khố Pháp chứng minh. Thực
tế, Diệm, như đã lược nhắc,
chỉ được đặc cách lên hàng Thượng thư Bộ Lại,
mà phận sự và quyền lợi đồng đều
với bốn bộ khác, và năm 1935, chỉ được Bảo Ðại cho
lại chức Thượng thư hàm. Xem chú 28 infra. 37.
Chi
tiết
trong
đoạn này, nhất là tư liệu báo chí như
Cờ Giải Phóng (Hà Nội), Cứu Quốc,
v.. v.. từ tháng 8 tới tháng 11/1945 dẫn từ Vũ Ngự
Chiêu, “Social and Cultural
Change,” Part II: The End of An Era,” chapt 9. Chúng tôi
chỉ dẫn xuất sứ những
nguồn tin mới phát hiện. Xem thêm Chữ 1996:284-90 về việc
cướp chính quyền ngày
19/8/1945, và Vũ Ðình Hoè, Hồi
Ký,
tái bản (Hà Nội: Hội Nhà Văn, 2004), tr. 733-41. 38.
Ðộc
Lập,
“Cơ
quan
tuyên
truyền, tranh đấu, nghị luận của
Việt Nam Dân Chủ Ðảng trong Mặt Trận Việt Minh”, xuất bản
công khai số 1, Năm
thứ 2, 4/9/1945 [loan tin “Ngày độc lập [2/9/1945] đã thu
hút 50 vạn dân thành
phố Hà Nội quanh vườn hoa Ba Ðình.”]; Cờ Giải Phóng,
số 16, 12/9/1945. 58.
Tu
liệu
văn khố Nga và Trung Cộng mới giải mật cho biết
Hồ chỉ chính thức nối lại liên hệ với Liên Sô
Nga từ tháng 2/1950. Nhưng Stalin
giao cho Bắc Kinh cai quản Ðông Dương. Theo một viên
chức Trung Cộng, tối
16/2/1950, Stalin từ chối lời đề nghị của Hồ là Liên
Sô và VNDCCH ký Hiệp ước
hữu nghị giống như Nga mới ký với Trung Cộng. 59.
Blokov
Ranh
(1909-1952?), em trai Trần Phú (1904-1931),
Tổng thư ký đầu tiên của Ðảng CSÐD, từng theo học
Ðại học Phương Ðông [KUTV]
Mat-scơ-va và một thời gian là “bạn đồng hành” của
Nguyễn Thị Vịnh (Minh Khai)
(1910-1941) ở Trung Hoa; CAOM (Aix), SPCE, carton 367. Năm 1947, Ranh
bị Pháp
bắt giữ cùng Bourov Dương Bạch Mai (1904-1964), nhưng phải trả
tự do vì áp lực
của Ðảng Xã Hội và báo Le Figaro;
AAN, 1947, 833; Ibid., 1949, II:1509. Năm
1949 Ranh qua Tiệp Khắc, sau bị khai trừ khỏi Ðảng CSÐD, khi
tái lập Ðảng Lao
Ðộng Việt Nam năm 1951 (cùng Lê Hy); Hoàng Văn
Hoan, Giọt nước trong biển cả (Bắc Kinh: 1987), tr.
319-21. 80.
William
C.
Bullitt,
“The Saddest War” [Cuộc chiến buồn thảm nhất]; Life
(29/12/1947); FRUS,
1947, VI:110. 81.
CAOM
(Aix),
INF, Carton 154. 82.
Văn khố Nga và Trung Cộng chưa công bố hết tài liệu
về
những cuộc gặp gỡ giữa Hồ và Stalin trong tháng 2/1950,
nhất là lý do biện minh
cho việc giải tán Ðảng Cộng Sản ngày 5/11/1945. 96.
Nguyên
bản
tiếng
Pháp: “La 97.
FRUS, 1948, VI:25. Ngày
6/6/1948, tại Hà Nội, Báo L’Entente,
cùng hầu hết các báo chí loan tin về “Hiệp
ước” (Accords) Hạ Long. Theo các báo
này, Bảo Ðại đã ký hiệp ước với Bollaert, dưới
sự chúng kiến của Nguyễn Văn
Xuân. Theo Phó Lãnh sự Mỹ Edwin C. Rendall tại
Hà-nội, cả ba người cùng ký, và
Bảo Ðại dùng thêm hai chữ “S.M.” (Sa Majesté)
trước tên mình; FRUS, 1948, VI:24.
Hôm sau, 7/6, Hồ phản
đối việc “bọn bù nhìn” (fantoche)
ký
kết hòa ước với bất cứ nước ngoài nào. Ngày
9/6/1948, Tổng Lãnh sự Abbott gặp
Xuân và Hữu. Theo Xuân cần đạt hoà ước gấp,
nếu muốn có cơ hội thành công. Việc
thương thuyết sẽ tiếp tục ở cả Pháp và Việt 106.
FRUS, 1949, VII:10. Thư ngày 8/3/1949
của Auriol gửi Bảo Ðại gồm 7 mục chính: Việt 122.
Ngày
24/3/1950,
Luật
tiết lộ với cơ quan tình báo Pháp
(SEHAN) rằng Diệm không thân
cận được với Bảo Ðại vì bản tính nhu nhược (faible)
và thiếu cương quyết
(indécis) của Bảo Ðại. Nếu lên nắm quyền, Diệm sẽ
chống Cộng thẳng tay, mà muốn
thế cần có sự tín nhiệm và yểm trợ tuyệt đối của
Bảo Ðại. Ðiều này chắc không
có. Ngoài ra, lập trường chính trị của Diệm cũng
khác biệt. Thứ nhất Diệm muốn
biết chắc thể chế độ chính trị của Việt 123.
Một
trong
những
biên khảo xuất sắc về liên hệ giữa QTCS với
Ðảng CSÐD do học giả
Anatoli Sokolov thực hiện. Ấn bản Việt ngữ của tác phẩm
này, theo Sokolov,
không được chính xác. Một số phụ chú
đã bị cắt bỏ. Tác phẩm Ho Chi Minh: The
Missing Years, 1924-1941
(2003) của Quinn-Judge và tuyển tập Lê
Hồng Phong (Hà Nội: 2002) cũng chứa đựng nhiều tài
liệu Nga giá trị. Xem
thêm những công bố của học giả Việt như Ðỗ Quang Hưng,
Trần Văn Hưng, v.. v...
trong Tạp chí Lịch Sử Ðảng
(1999-2000). 124.
Hầu
hết
các chi tiết trên đã được công bố từ
thập niên
1950. Tuy nhiên, ngày tháng và chi tiết mới
được tài liệu Trung Cộng xác tín từ
thập niên 1990. Xem Vũ Ngự Chiêu, “Chuyến Ði Cầu Viện
Bí Mật Năm 1950 Của Hồ;” Hợp Lưu Magazine
(Fountain Valley, CA),
No. 109, Tháng 3-4/2010, tr. [5-25]; Việt Nam Thời Báo
(San Jose, CA), số 5229,
Thứ Ba, 12/1/2010, & 5230, Thứ Tư, 13/1/2010. Xem thêm 125.
Ðại
tướng
Giáp, trong tập hồi ký Ðiện Biên
Phủ (1994)
và trong các ấn bản mới của hồi ký (2001)
đã ghi nhận sự thực lịch sử cay đắng
này. 135.
Xem chi
tiết về tổ chức này trong Chính Ðạo, VNNB, Tập I-C:
1955-1963 (
Trang mạng Việt Nam Văn Hiến
Trang Ngô Đình Diệm Là Ai ? www.vietnamvanhien.net email: thuky@vietnamvanhien.net Trang
mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi lưu trữ và phổ biến
những biên khảo, sáng tác và ý kiến
của quý vị và các bạn nhằm mục
đích bảo tồn di sản văn hóa, tha71p sáng niềm tin
Diên Hồng, phục hoạt nếp văn hiến và phục hồi nền an lạc
& tự chủ của Việt tộc.
|