Việt Nam Văn Hiến
Năm Thứ 4889

www.vietnamvanhien.net





Ngô Đình Diệm Là Ai ?
Chính Đạo


Sơ lược tiểu sử

JEAN BAPTISTE NGÔ ÐÌNH DIỆM (1897-1963):

THỜI KỲ CHƯA NẮM QUYỀN, 1897-1954



© 2004, 2010 Chieu N. Vu. All Rights Reserved.

 

Ngày 25/4/1961, Tướng Edward G. Lansdale—người được coi như hiểu biết rất rõ Việt Nam Cộng Hòa [VNCH] —viết báo cáo lên Thứ trưởng Quốc phòng Roswell L. Gilpatric, Chủ tịch Ủy Ban Ðặc Nhiệm Việt Nam (Presidential Task Force on Vietnam), về “No Din Zee’em” (Ngô Ðình Diệm) như sau:

Ông ta lùn, mập tròn. . . Nhiều người không chú ý đến cặp mắt đen hay liếc trộm [snapping] của ông ta mà chỉ chú ý đến cặp giò vừa đủ chạm mặt đất khi ngồi. Tuy nhiên, ông ta không cảm thấy ngượng ngùng về chuyện lùn, và có vẻ rất tự nhiên chung quanh những người Mỹ cao lớn. . . .

Ông ta tỏ vẻ ăn uống ngon lành (và thường có sở thích ăn ngon). Nụ cười của ông ta có vẻ e dè và bất thường. . . . Diệm sinh ngày 3/1/1901. . . Năm 25 tuổi [1926], Diệm đã được cử làm quan đầu tỉnh. Nhưng sau “sáu tháng làm Thượng thư” Diệm từ chức, trở thành “người hùng thực sự của người Việt.” Từ đó, anh em Diệm “âm thầm chống cả Pháp lẫn Cộng Sản.” Diệm là một người độc thân 60 tuổi, “đã cắt bỏ mối tình với người yêu đầu đời để dâng hiến cho tổ quốc.”(1)

 

Thực ra, Lansdale dường không muốn viết rõ, hoặc không biết nhiều về Tổng thống Diệm cũng như họ Ngô. Hầu hết chi tiết về hộ tịch Diệm hay thành tích chống Pháp của Diệm và gia đình Ngô Ðình Khả, đều thiếu chính xác. Các học giả thế giới cũng chẳng bận tâm đến việc tu chỉnh lại tiểu sử người cầm đầu phe thua cuộc. Bernard B. Fall, một học giả gốc Pháp viết khá nhiều về Việt Nam và chết tại Việt Nam, chẳng hạn, ghi Khả là “Thượng thư Bộ Lễ” sau khi từ chức đã cắt mọi liên lạc “với những kẻ xâm lăng đáng ghét,” “ủng hộ Phan Bội Châu,” và truyền xuống cho các con như Khôi và Diệm một tinh thần quốc gia nồng nhiệt.” Fall còn đưa ra những lời võ đoán dễ hiểu trong thập niên 1950-1960: “Sự kiện Bảo Ðại là người kế thừa của các hoàng đế yếu ớt trong việc chống lại Pháp cũng có thể gây ra sự khinh thường ông ta trong Diệm” [The fact that Bao Dai was the descendant of emperors who had been weak in their resistance to the French may also account for Diem’s contempt for him]. (2) Thực ra, từ thời Ðồng Khánh (1885-1889), các vua nhà Nguyễn do Khâm sứ và Toàn quyền Pháp lập nên, và chỉ còn công dụng của “một vòng hoa,” để hợp thức hóa chế độ “Bảo hộ” Pháp. Quan lại thì được tuyển từ giới trung gian bản xứ mà đa số là giáo dân Ki-tô hay cựu bồi bếp của viên chức, sĩ quan Pháp. Thành phần “tân trào” này hiểu rất rõ vị thế “làm kiểng” của các vua Nguyễn. Ngoài ra, Khả còn có liên hệ thân thiết với phòng Thành Thái (1889-1907), và từng nuôi tham vọng biến Thành Thái thành một vua theo Ki-tô giáo đầu tiên. Sự khinh thường phòng Khải Ðịnh (1916-1925) và Bảo Ðại (1926-1945) là điều dễ hiểu. Ngoài ra, Diệm không ưa Bảo Ðại vì đã hai lần ký Dụ đầy Diệm ra Quảng Bình. (3)

Ðáng buồn hơn nữa, lịch sử Việt Nam, dưới mắt nhiều học giả thế giới, chỉ là chuyện thêm thắt vào [anecdotes] chính sách và sự can thiệp của các cường quốc như Mỹ, Nga, Trung Hoa, Pháp, Bri-tên, Nhật, v.. v... Ngay đến Hồ Chí Minh (1892-1969) cũng chưa được nghiên cứu tường tận, vì Việt Nam đã mất đi hấp lực của những ngày tháng quân Pháp hay Mỹ lâm chiến ở Ðông Dương. Trọng tâm của nền nghiên cứu “thực phẩm ăn liền” [fastfood scholarship] đã di chuyển tới những xứ Trung Ðông, Iran, Iraq, Afghanistan, hay “Trung Quốc” [Zhonghe rinmin gengheguo].

Người Việt cũng có lý do riêng để không muốn thấy tiểu sử chính xác về Diệm, từ chính trị, tôn giáo, tới ý thức hệ. Nên chẳng ngạc nhiên khi khối văn chương về họ Ngô hay Ðệ nhất Việt Nam Cộng Hòa tràn ngập những lời “cung văn” hoặc “đào mộ,” bất chấp sự thực.

Bài sơ lược đoạn đời chưa cầm quyền của Ngô Ðình Diệm nhằm điền vào khoảng trống nói trên. Tư liệu cơ bản chúng tôi sử dụng là tập tiểu sử chính phủ Diệm do cơ quan an ninh Pháp thành lập tháng 7/1954, hiện vẫn chưa giải mật. Ngoài ra, còn nhiều tư liệu văn khố Pháp, Mỹ, Nga, Trung Hoa, cùng các tài liệu nguyên bản khác, kể cả tiểu sử Ngô Ðình Diệm do cơ quan an ninh Mỹ biên soạn ngày 18/4/1957, nhân dịp Diệm sắp qua thăm Mỹ.(4) Tiểu sử này, dĩ nhiên, không đầy đủ.

 

I. SƠ LƯỢC GIA THẾ:

 

Ngô Ðình Diệm, ngoài tên “thánh” Jean-Baptiste [Gioan Bao-xi-ta], còn có bí danh Nguyễn Bá Chinh. Theo an ninh Pháp, Diệm sinh ngày 27/7/1897 tại Ðại Phong [Phuong] hay Ðại Phong Lộc, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.(5)

Cha là Ngô Ðình Khả (1856-1914), một tín đồ Ki-tô tân tòng, xuất thân thông ngôn cho Pháp, sau đổi qua ngạch quan lại Việt, lên tới Ðề đốc Kinh thành (1905-1907). “Mẹ” là Phạm Thị Thân.

Anh em Diệm khá đông, gồm sáu trai, hai gái. Khôi, con vợ lớn, là anh cả. Diệm, theo lời đồn, đứng hàng em của Khôi, Thục, và anh Ngô Thị Hiệp (bà Cả Lễ; chồng là Nguyễn Văn Ấm, sinh ra cố Hồng y Nguyễn Văn Thuận), dù tuổi “chính thức” Diệm lớn hơn Thục trên hai tháng. Dưới Diệm có Nhu, Cẩn, Luyện, cùng một người em gái. Vì Khả chết khi Diệm còn nhỏ (17 tuổi khai sinh), Khôi quyền huynh thế phụ. Khôi chết, Thục có ảnh hưởng nhất trên Diệm, với cương vị một Giám mục.

Cha đỡ đầu [god-father] là Nguyễn Hữu Bài (1863-1935), nhạc phụ Khôi, một thủ hạ cũ của Khả, cũng một Thượng thư uy quyền và đầy mưu mô tại Huế từ 1907 tới 1933, và được Hội truyền giáo Pháp coi như một trong số giáo dân khai quốc công thần của chế độ Bảo hộ. Theo tài liệu Pháp, Bài đã nuôi dưỡng Diệm từ nhỏ. Bài cũng có ý định chọn Diệm làm con rể, nhưng vì lý do nào đó không thành. Con gái Bài sau đi tu dòng kín Carmel.(6)

Sau ngày lên cầm quyền, Diệm đổi ngày sinh thành 3/1/1901. Chẳng hiểu tại sao có việc “thay đổi” hộ tịch trên. Việc thay tên, đổi họ và ngày sinh tháng đẻ là việc thường xảy ra ở Việt Nam. Trước hết, vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, việc khai hộ tịch không được kiểm soát chặt chẽ. Viên chức xã ấp tại thôn quê không đặt nặng sự chính xác về ngày sinh của trẻ em. Cha mẹ nhiều khi khai rút tuổi con cái vì mục đích nào đó, như đi học hay khai sưu thuế. Hơn nữa, việc đổi từ ngày Tây (dương) lịch qua nguyệt (âm) lịch rất phức tạp, đôi khi cha mẹ dùng ngày tháng sinh nguyệt lịch làm ngày tháng Tây lịch, rồi dùng năm Tây lịch tương đương trong khai sinh. Thông thường, cha mẹ hay khai rút tuổi các con. Nhưng rất hiếm trường hợp cha mẹ khai con mình tăng thêm ba bốn tuổi, ngoại trừ biệt lệ nào đó. Phải chăng Diệm rơi vào trường hợp đặc biệt này, vì nếu sinh năm 1901, Diệm không thể nào được tập ấm chức Cửu phẩm và làm việc tại Tân Thư Viện Huế năm 1917, khi mới 16 tuổi.( 7)

Theo Ngô Ðình Luyện, em út trong gia đình, Diệm khai tăng bốn tuổi (từ 16 lên 20 tuổi) để có thể vào trường Hậu Bổ. Ðiều này khó tin, vì mãi tới năm 1918-1919, Diệm mới học trường Hậu bổ.(8) Luyện cũng là nhân chứng không đáng tin. Thí dụ như khi được hỏi về vai trò chính trị của Luyện, Luyện nói được lệnh “đứng ngoài chính trị.” Thực tế, từ thập niên 1940, Luyện đã hoạt động với các tổ chức thân Nhật, và trở thành đặc sứ của Diệm với Bảo Ðại, trước khi nắm chức Ðại sứ tại London. Luyện cũng tung ra những tin đồn về giao tình giữa Luyện và Bảo Ðại, mà theo Bảo Ðại không hề có.( 9) Và, như đã lược nhắc, Diệm được tập ấm chức Cửu phẩm, làm việc tại Tân Thư Viện Huế từ năm 1917, trước khi vào trường Hậu Bổ.

Một ký giả ngoại quốc, Robert Shaplen, ghi rằng theo Diệm, khoảng năm 1915-1916, Diệm đã man khai hộ tịch để dự thi bằng tương đương tốt nghiệp trung học. (10) Chi tiết này không sát sự thực. Mãi tới giữa thập niên 1920, mới có những cuộc thi lấy bằng Tú Tài I và II chương trình Pháp-Nam. Bằng cấp mà Diệm thi chỉ là bằng Cao đẳng tiểu học (Diplôme), gần tương đương với bằng Trung học phổ thông đệ nhất cấp. Tài liệu thành văn cũng chứng minh Diệm đã vào quan trường từ năm 1916 hoặc 1917, với chức cửu phẩm tập ấm tại Tân Thư viện, mà không phải sau khi đã “tốt nghiệp trường Luật Hà Nội năm 1921” như Diệm khoa trương. Thực tế, Diệm vào trường Hậu bổ từ niên khóa 1918-1919, và chỉ học tại Hà Nội một niên khóa 1920-1921.

Một động lực trong việc sửa đổi hộ tịch có lẽ là để hợp thức hóa vai “em” của Diệm với Giám Mục Thục–Thục sinh ngày 6/10/1897 tại Phước Quả, Thừa Thiên, thua Diệm hơn hai tháng. Nhưng cũng có thể, và điều này cần được tra cứu thêm, Diệm không man khai hộ tịch, mà rất đơn giản là không cùng mẹ (Phạm Thị Thân) với anh chị em khác. Có lẽ vì muốn che đậy bí ẩn này, tiểu sử Khôi và Thục trong tập Vua chúa và người quí phái Ðông Dương [Souverains et Notabilités] năm 1943 không ghi ngày sinh.(11) Tài liệu văn khố Pháp cũng ghi Diệm sinh tại Ðại Phong Lộc, Lệ Thủy, Quảng Bình, mà không phải Phước Quả, Thừa Thiên, giống như Thục, Nhu, Cẩn, Luyện, v.. v... Ðịa danh “Ðại Phong Lộc” từng được khai là nơi sinh của Khôi, con người vợ lớn đã chết sớm, trước khi Khả lấy bà kế thất tên Thân.(12)

Rất ít chi tiết về học vấn Diệm được công bố. Có tin Diệm tự học ở nhà, rồi học trường Pellerin ở Huế, và tốt nghiệp Diplôme. Diệm biết cả chữ Nho [Việt Hán]. Lại có tin Diệm học ở chủng viện, năm 1915, định đi tu, nhưng sau đó bỏ dở nửa chừng.(13) Bởi thế, nhiều tài liệu cho rằng Diệm thuộc loại “religious fanatic” [cuồng đạo]. (14)

 

 

II. “BÁT CƠM” BẢO HỘ PHÁP:

 

Trong nỗ lực biến hóa Ngô Ðình Diệm thành “lãnh tụ anh minh” đủ sức đương đầu với Hồ Chí Minh–kiểu “ăn Ngô thì no, ăn Hồ thì đói”–cơ quan tuyên truyền Mỹ và Nam Việt Nam tô chuốt cho Diệm những bảng hiệu như “yêu nước, chống Pháp,” v.. v... “Yêu nước” là một nhận xét khó lượng định, vì chỉ mỗi cá nhân mới tự biết rõ mình yêu nước hay không. Có nhiều cách biểu lộ lòng yêu nước, nên khó thể sử dụng một hệ thống lượng giá cố định. Tấm huy chương nào cũng có mặt trái của nó. “Chống Pháp” thì dễ lượng định hơn. Tinh thần chống Pháp của Diệm, hay họ Ngô, chỉ là những triển biến vào khoảng cuối đời, và động lực không hẳn do lòng yêu nước, mà nặng về tôn giáo cùng quyền lợi bản thân hay dòng họ. Diệm xuất thân từ một gia đình trung gian bản xứ Ki-tô, phục vụ Bảo hộ Pháp rất tận tụy. Khả, cha Diệm, từng lên tới chức chánh thông ngôn tòa Khâm sứ Huế dưới thời Pierre Rheinart des Essarts–người đã đưa con nuôi của nước Pháp là Bửu Lân lên ngôi đầu năm 1889–rồi chuyển sang làm thương biện [thông dịch] Viện Cơ Mật. Ngày 10/4/1892 Khả dịch văn thư của Phủ Phụ chính xin Toàn quyền Jean de Lanessan đừng gửi ra Huế những người từng làm nghiêng ngửa triều đình như Trương Vĩnh Ký [tức Petrus Key, 1837-1898], Nguyễn Trọng Tạo, Lê Duy Hinh, hay anh em Diệp Văn Cương, v.. v... Khả cũng tham dự chiến dịch đánh phá phong trào kháng Pháp tại Hà Tĩnh-Quảng Bình của Ngự sử Phan Ðình Phùng (1847-1895) trong hai năm 1895-1896. Sau khi hài cốt Ngự sử Phùng trong khu vực kiểm soát của Khả ở tây bắc Quảng Bình bị đào lên nghiệm chứng, đốt thành tro, ném xuống sông Lam “theo [lối trừng phạt] truyền thống,” Khả được đặc cách lên Thái thường tự khanh (Chánh tam phẩm) năm 1896. (15) Nguyễn Thân còn ủy thác Khả đứng ra tổ chức một trường dạy tiếng Pháp và quốc ngữ mới–tức loại tiếng Việt dùng trong việc giảng đạo Ki-tô của Hội truyền giáo–cho vương tôn nhà Nguyễn ở Huế. Thoạt tiên, Khả được đề cử làm Giám đốc trường Quốc Học này, nhưng Toàn quyền Pháp chỉ cho làm Phó Giám đốc, đặc trách nhà cửa, lương bổng và hành chính. Với mục đích Tây hóa vua Thành Thái (1889-1907), viên chức Pháp đưa Khả lên chức Ðề đốc kinh thành, lo bảo vệ và kiểm soát Thành Thái. Khả lập ra một toán thân binh cạo răng trắng, hớt tóc ngắn, mang súng trường, nhưng nhiệm vụ chính yếu–nếu tin được báo cáo của Hiến binh Pháp–chỉ để giúp vua “tổng hợp mọi tật tội Ðông-Tây” lùng sục và bắt cóc gái đẹp quanh kinh thành. Sau khi bị ép về hưu vì chống việc truất phế Thành Thái, dưới chiêu bài phải duy trì ngai vua, Khả được hàm Thượng thư bộ Lễ.(16)

Khôi, anh cả họ Ngô, bắt đầu “tham chánh” năm 1910, sau khi tốt nghiệp trường Hậu bổ. Khoảng sáu [6] năm đầu, Khôi phục vụ tại văn phòng Bộ Công do cha vợ làm Thượng thư. Sau ngày Bài được thăng Thượng thư Bộ Lại, nhờ tiếp tay cho Khải Ðịnh (1916-1925) lên ngôi, Khôi đi “ngồi” huyện, phủ, rồi lên tới Bố chính, Tuần vũ, Tổng đốc các tỉnh miền nam Trung Kỳ, tức An-Nam.

Phần Diệm, năm 1916-1917 được tập ấm Cửu phẩm, làm việc tại Tân thư viện Huế (tức Musée Khải Ðịnh), nơi đặt trụ sở Hội Bạn của Cố đô Huế. Năm 1918-1919, Diệm vào trường Hậu bổ Huế. Người đỡ đầu có lẽ là Nguyễn Ðình Hòe, một phụ tá cũ của Khả trong chiến dịch truy giết Ngự sử Phùng, lúc đó làm Giám đốc trường Hậu bổ (năm 1921 giữ chức Tổng thư ký Viện Cơ Mật). Thời gian này, triều đình đã bỏ lối thi Hương và thi Hội cũ, và trường Hậu bổ mở thêm phân khoa “pháp chính” [hành chính và luật] của trường Ðại học Hà Nội. Học viên học tại Huế hai năm đầu, và năm thứ ba phải ra Hà Nội. Có lẽ Diệm được chuyển qua chương trình này. Diệm còn có hai bài đăng báo Bulletin des Amis de Vieux Hué [Ðô thành hiếu cổ].

Tốt nghiệp, nhờ Thượng thư Bài nâng đỡ, năm 1922 Diệm được bổ nhậm ngay. Ðược cấp trên đặc biệt chú ý vì thanh liêm và tinh thần diệt Cộng cao. Năm 1929 [1926?], Diệm lên tới chức quan đầu tỉnh, Quản đạo Ninh Thuận (Phan Rang), rồi Tuần Vũ Bình Thuận (Phan Thiết). Theo một số nhân chứng, khi làm quản đạo Ninh Thuận, ngoài những ngon tra tấn quen thuộc như tra điện, kìm kẹp, Diệm bắt tù nhân Cộng Sản vuốt lạt tre, hay dùng đèn cầy [nến] đốt hậu môn để lấy khẩu cung. Ít nhất bảy [7] trong số 500 nghi can Cộng Sản bị tra tấn đến chết.(17) Có lẽ vì thế, Giám Mục Thục cả quyết rằng Cộng Sản đã thuê sát thủ ra Phan Rang mưu sát Diệm, nhưng Diệm chỉ bị thương.( 18)

Tóm lại, từ Khả xuống Khôi, Thục rồi Diệm, lòng trung thành với Pháp khá vững chắc. Khôi từng nhờ Nhu nói với Tổng Giám Ðốc Cảnh Sát Paul Arnoux ngày 18/8/1944 tại Huế rằng Khôi “xin thề trên thập tự giá” là lúc nào cũng coi Bảo hộ Pháp như “bát cơm” [bol de riz] của họ Ngô. (19)

Ngày 21/8/1944, Giám mục Thục trình lên Toàn quyền Jean Decoux bản tóm lược rõ ràng nhất công lao và lòng trung thành với Bảo hộ Pháp của họ Ngô, và cá nhân Diệm:

Các anh em tôi cũng liên tục dâng hiến mạng sống họ cho nước Pháp trong dịp Cộng Sản nổi loạn. Diệm, em tôi, đã ngã xuống vì những viên đạn súng lục của một người Tàu Chợ Lớn, được gửi tới Phan Rang, nơi Diệm hăng say ngăn chặn sự xâm nhập của các cán bộ Cộng Sản từ Nam Kỳ [Mes frères, eux mêmes ont exposé leur vie continuellement pour la France lors de la révolte communiste. Mon cadet Diệm a failli tomber sous les coups de révolver d’un chinois de Cholon, envoyé à cet effet à Phan Rang, où Diệm défendait énergétiquement l’entrée de l’Annam aux émissaires communistes envoyées de la Cochinchine]. . (20)

 

Dấu mốc quan trọng trong sự nghiệp “yêu nước, chống Pháp” của Diệm, là cuộc “đảo chính cung đình” ngày 2/5/1933. Ngày này, Toàn quyền Pierre Pasquier (12/1928-1/1934) và Quyền Khâm sứ Léon Thibaudeau (2/1933-7/1934) đột ngột bắt Bài và toàn bộ nội các về hưu. Theo báo Tiếng Dân ở Huế, tin trên chấn động dư luận. Bẽ bàng nhất là chính Bài không hề được báo trước. Và, khi Thibaudeau tuyên bố nội các mới, có Trần Thanh Ðạt thông dịch, một số tân Thượng thư chưa kịp về đến kinh đô.(21)

Nguyên Pasquier, với sự thỏa thuận của Albert Sarraut, quyết thực hiện một cuộc “đại cải cách” ở An Nam, đánh bóng uy tín vua Nguyễn để làm giảm bớt và điều-kiện-hóa các phong trào quốc gia mới–như cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc Dân Ðảng năm 1930, và nhất là sự du nhập và phát triển của phong trào Cộng Sản từ giữa thập niên 1920, bùng nổ thành những cuộc bạo động, khủng bố tại các đồn điền miền Nam, cùng phong trào Sô Viết Nghệ Tĩnh trong hai năm 1930-1931. Pasquier và Thibaudeau đoạn tuyệt với nhóm hợp tác cựu trào (Nguyễn Hữu Bài, Ki-tô giáo). Nhóm này chủ trương đồng hóa và thống trị theo kế sách của Giám mục Paul Puginier và Louis Caspar–nhằm Ki-tô hóa vua quan rồi khiến toàn thể dân Việt sẽ cải đạo, và vĩnh viễn trở thành “bạn của nước Pháp.” Từ thập niên 1890, nhóm hợp tác cựu trào trở thành một thứ kiêu binh của cái mà Phạm Quỳnh cũng như Bảo Ðại gọi là “một văn phòng phụ thuộc nho nhỏ của Tòa Khâm,” tức triều đình Huế, lúc nào cũng mang công lao của khối giáo dân bản xứ trong việc thiết lập chế độ Bảo hộ (dưới chiêu bài bảo vệ đạo) ra áp lực Pháp.

Ngựa mới của Pasquier là phe tân trào (tiêu biểu bằng Phạm Quỳnh, Bùi Bằng Ðoàn, Nguyễn Bá Trác, Nguyễn Thái Bạt, Lê Dư, v.. v...). Phe này chủ trương hợp tác tinh thành, hay Pháp-Việt đề huề. Quan chức Pháp đã chọn phe tân trào, vì chủ trương hợp tác [collaboration] có nhiều triển vọng thành công trước sự lớn mạnh của các phong trào quốc gia mới. Từ thập niên 1920, Pasquier đã chiêu hồi những thành phần chống Pháp như Phan Bội Châu và sử dụng các văn thân từng bị dính líu vào phong trào chống sưu thuế 1908 tại miền Trung. Huỳnh Thúc Kháng, chẳng hạn, được cử làm Chủ tịch Hội đồng Dân cử Trung Kỳ, và xuất bản tờ Tiếng Dân bằng quốc ngữ mới, với chủ trương “thờ người Pháp để cầu tiến bộ.” Trong khi đó, nhóm hợp tác, nói theo Phạm Quỳnh, tạm thời chấp nhận “tôn quân cũng là yêu nước,” ngưng đòi hỏi thể chế cộng hòa. Ðể làm giảm sự bi phẫn của nhóm cựu trào, Pasquier và Thibaudeau đặc cách Diệm–con nuôi Bài [son fils putatif]–lên làm Thượng thư Bộ Lại. Tuần phủ Bùi Bằng Ðoàn (1890-1955) cũng được đặc cách lên Thượng thư Bộ Hình. Ngày 6/5/1933, năm [5] tân Thượng thư mới có mặt đầy đủ tại Huế nhân dịp gắn huy chương cho Bài và bốn [4] cựu thượng thư. Ngày 17/5, Thibaudeau chủ tọa phiên họp Nội các đầu tiên. Mười ngày sau, 27/5, Pasquier và Bảo Ðại chủ tọa phiên họp tân Nội các. (22)

Một số mật báo viên ghi, và ngay chính Diệm man khai (ngày 24/12/1947 với Tổng lãnh sự Mỹ tại Hong Kong là George D. Hopper) rằng “Giệm” là “quan đầu triều Bảo Ðại.”( 23) Thực ra, từ tháng 5/1933, Bộ Lại mất đi ảnh hưởng của những năm Bài được kiêm nhiệm chức Tổng lý [Chủ tịch Viện Cơ Mật], và chỉ ngang hàng với các Bộ khác. Người có uy thế nhất là Phạm Quỳnh (1892-1945), Ngự tiền Tổng lý của Bảo Ðại kiêm Thượng thư Giáo dục. Quỳnh không những chỉ chuyển lệnh của Toàn quyền và Khâm sứ Pháp cho Bảo Ðại, mà còn đồng thời dịch, và thiết kế việc thực thi các lệnh trên, cùng báo cáo kết quả lên Khâm sứ.

Thibaudeau còn cử Diệm làm Tổng Thư ký Ủy ban Cải Cách, và yêu cầu Diệm trình lên kế hoạch canh tân Bộ Lại. Diệm, có lẽ do ảnh hưởng Bài, đưa ra hai điều kiện: (1) Phải thống nhất Bắc và Trung Kỳ; bổ nhiệm Tổng Trú sứ (Résident Général) như đã qui định trong Hoà ước 6/6/1884; và, (2) cho Viện Dân biểu quyền thảo luận.( 24) Ðề nghị này giống hệt kế hoạch của Bài: Muốn cải cách, việc đầu tiên phải bỏ chức Thống sứ Hà Nội và Khâm sứ Huế (tức tái sát nhập Bắc Kỳ vào An Nam), sau đó cho An Nam ngân sách riêng. Nói cách khác, phải trở lại với Hiệp ước 6/6/1884–đòi hỏi mà Bài đã gieo xuống đầu óc thơ dại của Duy Tân từ năm 1915-1916, đưa đến việc vua bị truất phế rồi đầy qua Réunion cùng cựu hoàng Thành Thái (Bửu Lân) vào cuối năm 1916. Pasquier, dĩ nhiên, không chấp thuận.

Ngày 9/7/1933, Diệm ra Quảng Trị ở với cha nuôi ít ngày. Trở lại Huế, ngày 12/7, Diệm nạp cho Thibaudeau một bản sao đơn từ chức đã trình lên Bảo Ðại. Lý do nêu ra là cơ cấu tổ chức hiện tại không phù hợp với Hiệp ước 6/6/1884–Hiệp ước này qui định Pháp chỉ giữ một chế độ bảo hộ kiểm soát (protectorat de contrôle) mà không phải bảo hộ trực tiếp (protectorat direct).( 25)

Thibaudeau gọi Bảo Ðại từ Ðà Lạt về Huế giải quyết. Bảo Ðại bảo thẳng Diệm rằng viện dẫn lý do chính trị để từ chức là hành động phản nghịch. Ngày 18/7, Diệm viết lại đơn từ chức khác nêu lý do muốn dành thì giờ cho việc tu hành. Lần này, Diệm được toại ý. Ngày 22/7, Thibaudeau đổi Thái Văn Toản qua thay Diệm nắm bộ Lại, và đưa Tôn Thất Quảng, Tổng đốc Thanh Hóa, mới lập công lớn trong việc đàn áp đẫm máu tại các tỉnh Bắc An Nam, lên nắm Bộ Công và Nghi Lễ thay Toản.( 26)

Ngay sau ngày Bài bị cách chức, vài tờ báo Nam Kỳ công khai đả kích Pasquier. Theo Luật sư Lê Văn Kim, những bài đả kích trên từ Huế gửi vào. Tháng 12/1933, Diệm còn vào Sài Gòn gặp Nguyễn Phan Long, Lê Văn Kim, Jacques Lê Văn Ðức v.. v... bàn thảo kế hoạch trả thù Pasquier. Tiếp đó, tờ La Tribune indochinoise [Diễn đàn Ðông Dương] và tờ La LanterneParis mở chiến dịch đòi thay Pasquier bằng cựu Toàn quyền Alexandre Varenne (7/1925-11/1927) và đưa cựu Khâm sứ Yves Châtel (6/1931-2/1933) trở lại Huế. Biết được tin này, Pasquier truất mọi chức tước của Bài, Diệm và Pierre Nguyễn Ðệ, Bí thư riêng của Bảo Ðại, thuộc một gia đình trung gian bản xứ nổi danh khác ở miền Bắc (Án sát Nguyễn Liên). Diệm còn bị chỉ định cư trú tại Quảng Bình.( 27)

May mắn cho Diệm, ngày 15/1/1934, Pasquier chết vì tai nạn máy bay trên không phận Paris. Năm sau, Bài chết tại Quảng Trị. Toàn quyền René Robin (7/1934-1/1937) và Khâm sứ Maurice Graffeuil (7/1934-5/1936, 4/1937-8/1941) phục hồi tước vị hàm [honoraire] cho Bài, Diệm và Ðệ. Diệm được về Huế dạy trường Providence [Thiên hựu] do Linh mục Thục, “anh trai” Diệm, làm Giám học.

Nên ghi thêm cuộc đảo chính cung đình này khiến họ Ngô trút mọi thù oán lên Phạm Quỳnh. Năm 1934, Thục chống việc cử hành hôn lễ giữa Bảo Ðại và Nguyễn Hữu Thị Lan, đòi phải thực hiện lễ rửa tội trước; nhưng viên chức Pháp, nhất là cựu Khâm sứ Charles, dàn xếp cho một linh mục Pháp bí mật làm lễ kết hôn. Sau đó, năm 1938, Thục được đặc cách Giám mục Vĩnh Long, một giáo phận nhỏ, tách ra từ tổng giáo phận Sài Gòn. (28) (Trái với sự ngộ nhận của nhiều người, việc thăng chức hay bổ nhiệm các giáo mục Ki-tô không thuần do đạo hạnh và khả năng quyên góp, nhưng đôi khi bị chính trị hóa. Năm 1950, Linh mục John Dooley được đặc cách lên Giám mục để trông coi việc chống Cộng của giáo dân Ðông Dương. Năm 1963, có vận động cho TGM Thục thăng chức Hồng Y để đuổi “Giáo Hoàng VNCH” khỏi nước, đưa đến việc bị rút phép thông công [ex-communicated], và rồi chết trong điên loạn tại Mỹ).

Nếu tin được Ngô Ðình Nhu (1910-1963), Khôi thường nói với Diệm rằng sở dĩ người Pháp không ưa Khôi vì “[họ Ngô] quá toàn vẹn,” và “Phạm Quỳnh thì khôn khéo, nên được cả Pháp lẫn Nhật quảng cáo tài năng.” (29) Nhu cũng tung tin Phạm Quỳnh biệt đãi hai con trai Cường Ðể, dù trên thực tế, con Cường Ðể làm việc tại văn khố Tòa Khâm, dưới quyền Nhu. Người Pháp chỉ quay mặt làm ngơ, để vừa đặt chân Phạm Quỳnh trên lửa, vừa âm thầm theo dõi anh em họ Ngô đang ngả theo ngọn gió Thịnh Vượng Chung Ðông Á.

Theo an ninh Pháp, “những phần tử trong họ Ngô, đặc biệt là Khôi, nuôi dưỡng lòng hận thù ngày một sâu đậm đối với Phạm Quỳnh người đã thụ hưởng nhiều lợi lộc nhất trong cuộc đảo chính ngày 2/5/1933. Từ một nhà báo, Quỳnh đã trở thành Thượng thư Bộ Quốc Dân Giáo Dục, rồi thăng lên chức Tổng lý khá nhanh, nắm giữ tước cao nhất của hệ thống quan lại (Tứ trụ triều đình) năm 1944. Từ từ theo sự thăng tiến về danh vọng của Phạm Quỳnh, hận thù giữa họ Ngô với Quỳnh càng gia tăng.. .” (30)

Tóm lại, thành tích chống Pháp hay cách mạng từ năm 1933 của Diệm chưa được một tài liệu nào xác nhận; mà chỉ có những tư liệu văn khố chứng minh ngược lại–anh em họ Ngô mưu cầu quyền lực bằng mọi giá, bất chấp khuôn thước đạo đức truyền thống. Ngay cả huyền thoại “chống Cộng” từ năm 1922 qua tài liệu Switzerland, cũng cần duyệt xét lại. Nội dung buổi nói chuyện năm 1962 chứng tỏ Diệm chẳng biết gì vai trò của địa bàn Trung Hoa cùng hoạt động của DALBURO Nga ở Vladivostok, Thượng Hải hay Hương Cảng (Hong Kong). Diệm cũng thần thoại hóa quyết định từ chức của mình, ngoài tinh thần chống thực dân, còn vì không đồng ý với chính sách “chống Cộng” của Pháp. Theo Diệm, Cộng Sản là sản phẩm của các chính phủ tả phái Pháp, một nhận định quá phiến diện, trước sự du nhập và phát triển của một trường phái ý thức hệ mới của Tây phương—tức chủ thuyết duy vật, đứa con hoang ngỗ nghịch của thần quyền, công khai chống lại Ki-tô giáo, gọi Ki-tô là thuốc phiện tinh thần. Thực ra, họ Ngô chống Cộng phần lớn vì lệnh Vatican và viên chức Pháp; kiến thức về Marxist-Leninism hay nguyên nhân khiến chủ thuyết này bành trướng ở Nga, Trung Hoa, Indonesia hay Việt Nam rất mơ hồ. Ngoài ra, Diệm có vẻ “rất linh động và sáng tạo” trong việc diễn giải thành tích dĩ vãng để “bán mình” cho chính phủ Mỹ. Năm 1963, Ðại sứ Henry Cabot Lodge đi đến kết luận, không hẳn chủ quan, rằng Diệm và họ Ngô thuộc loại “dối trá và tội phạm” (liars and criminals). (31)

 

III. HỢP TÁC VỚI NHẬT:

 

Thế chiến thứ hai (1939-1945) và việc Nhật xâm chiếm Ðông Dương từ hai năm 1940-1941 khiến Diệm đi tìm bát cơm hay thiên mệnh ngoại cường khác. Họ Ngô bí mật yểm trợ Hoàng thân Cường Ðể và từ năm 1942, công khai hợp tác với Hiến binh Nhật (Kempeitai). Huân, con trai lớn Khôi, làm thông ngôn cho Nhật. Trong khi đó, Nhu  che chở cho hai con Cường Ðể, Tráng Ðinh và Tráng Liệt [Cử], tại văn khố Tòa Khâm sứ Huế. Những người thân Diệm cũng làm việc tại tòa Lãnh sự Nhật từ năm 1942. Ðầu năm 1943, Y sĩ Trương Kế An, thủ lãnh Liên Ðoàn Ái Quốc Việt Nam, gặp Diệm ở Hà Nội. Pierre Ðệ, anh rể hụt của Nhu, cũng có mặt.

Trong khi đó, Khôi cho Diệm dùng dinh thự Tổng đốc Nam-Ngãi của mình để tiếp xúc với những cá nhân thân Nhật. Khôi còn che chở cho tín đồ Cao Ðài (đang bị nghi ngờ thân Nhật, ủng hộ Cường Ðể) trong vùng cai trị. Mật thám Pháp tìm thấy trong nhà Ngô Ðình Dậu (Ðẩu?), một người cháu họ Khôi ở Quảng Nam, tài liệu liên quan đến Việt Nam Phục Quốc Hội của Cường Ðể. Vì việc này, tân Khâm sứ Grandjean (6/1941-8/1944) chẳng những không hồi âm thư chúc mừng của Khôi, mà trong buổi gặp mặt trên đèo Hải Vân, bắt Khôi về hưu không được hàm Thượng thư. Tháng 1/1944, Grandjean còn cho lệnh Bảo Ðại trục xuất Diệm khỏi Huế, chỉ định cư trú ở Quảng Bình. Anh em Diệm thêm một lần trút mọi hờn oán lên Quỳnh, đương kim Tổng lý [Tể tướng] triều đình.

Mùa Hè 1944, Mật thám Pháp khám phá ra tổ chức Ðại Việt Phục Hưng của Diệm, gồm khoảng 50 đảng viên, kể cả một số giáo sĩ; nằm ngay trong đội lính khố xanh (Garde indochinoise), cảnh sát, công chức, v.. v... Một trong những lãnh tụ là Trần Văn Lý, Tuần vũ Hà Tĩnh. Pháp bèn cho lệnh khám xét tư thất Diệm, nhưng Diệm đã sớm tẩu thoát. Ngày 12/7, Trung úy Kuga Michio của Hiến binh Nhật đưa Diệm vào Ðà Nẵng, rồi đáp phi cơ vào Sài Gòn. Trong thời gian ở miền Nam, Diệm lui tới với Matsushita [Tùng Hạ] Mitsuhiro, Chủ công ty Dainan Koosi [Ðại Nam hay Dainan Konsi], trưởng lưới tình báo dân sự của Nhật, tự nhận là bạn thân của Cường Ðể.( 32)

Một tháng sau, ngày 12/8/1944, Nguyễn Huy Tân, Cán sự Công chính ở Quảng Ngãi, một cán bộ của Diệm, khai rằng Nhật đã chọn Diệm làm Thủ tướng, trong một chế độ quân chủ lập hiến mà người làm vua không nhất thiết phải là Cường Ðể. Hai ngày sau, 14/8, Paul Arnoux, Giám đốc Cảnh Sát, được lệnh bí mật khai thác Nhu và Khôi ngay tại Huế. Ngày 18/8, Arnoux báo cáo rằng Nhu nhìn nhận việc làm tội lỗi của Diệm, nhưng Khôi không dính líu, xin “thề trên thập tự giá” là chỉ muốn duy trì “bát cơm” Pháp. Ngày 20/8, vì tình hình Âu Châu đang rối loạn, phe “Pháp tự do” của Charles de Gaulle đang tiến vào Paris, Decoux đồng ý với đề nghị của Arnoux là chỉ trừng trị những cán bộ hạng trung, tránh khiêu khích Nhật. (33)

Cuối năm 1944, đầu 1945, Diệm tá túc trong bệnh viện Chợ Quán, được trưng dụng làm trụ sở quân sự của Nhật, sau này đổi tên thành bệnh viện bài lao Hồng Bàng. Tại đây, Diệm cùng Y sĩ Nguyễn Xuân Chữ, Y sĩ Lê Toàn, Kỹ sư Vũ Văn An, Ký giả Vũ Ðình Dy (1906-1945) thành lập Ủy Ban Kiến Quốc, phò trợ Cường Ðể. Cuối năm 1944, khi chuẩn bị kế hoạch Mago để lật đổ chế độ thân Vichy Decoux, Hiến binh Nhật dự trù Diệm sẽ trở thành Thủ tướng. Tuy nhiên, tình hình đổi thay mau chóng. Tướng Tsuchihashi Yuitsu, Tư lệnh Quân đoàn 38–lực lượng trách nhiệm phòng thủ Ðông Dương chống lại cuộc đổ quân Ðồng Minh–dồn mọi nỗ lực cho mục tiêu quân sự hơn chính trị. Bởi thế Tsuchihashi giữ Bảo Ðại làm vua một nước Việt Nam “độc lập trong Khối thịnh vượng chung Ðại Ðông Á.” Trước áp lực đưa Cường Ðể về nước, Tsuchihashi tuyên bố sẽ tống giam Hoàng thân vào Côn đảo nếu Cường Ðể hồi hương.

Nước “Việt Nam độc lập” trên thực tế chỉ gồm 12 tỉnh miền Trung, vì Nam cũng như Bắc Kỳ được trù liệu sẽ trở thành hai trung tâm tử thủ chống lại sự đổ bộ của Ðồng Minh. Giám đốc Kempeitai yêu cầu phe Diệm-Chữ tham gia chính phủ tại Huế, nhưng cả hai đều từ chối. Tháng 3/1945, sau cuộc Hành quân Meigo (9-10/3/1945) loại bỏ Decoux, Bảo Ðại hai lần nhờ Nhật mời Diệm làm Thủ tướng, nhưng không có hồi âm. Mãi sau này, Bảo Ðại mới được Nhật thông báo rằng họ không muốn dùng Diệm.

Mùa Thu 1945, Giám mục Thục khai với mật thám Pháp là sở dĩ Diệm không nhận lời vì thấy chế độ do Nhật lập nên khó tồn tại lâu dài; hơn nữa quanh Bảo Ðại có những thành phần tả phái và franc-macon [tam điểm]. (34) Lời chứng này khó tin. Mục đích của Thục là biện minh cho sự hợp tác với Nhật của Diệm, một tội phạm chiến tranh ở thời điểm này. Và có thể Thục cũng không biết đến, hoặc tảng lờ quyết định của Tsuchihashi. Nhân viên an ninh Pháp, năm 1954, ghi rằng Diệm từ chối lời mời lập chính phủ vì Nhật không chịu cho thống nhất ba miền Bắc, Trung, Nam. Robert Shaplen cũng nhận định theo chiều hướng này: Diệm từ chối không vì chống lại Nhật mà vì cảm thấy khó thiết lập một chính phủ tự do–trong số những yếu tố quan trọng có việc Nam Kỳ bị tách biệt với Huế. [“Diem refused, not because he objected to the Japanese but because he did not feel he would be able to establish a free government–among other things, the southernmost area of Cochin China was initially be excluded from it. Furthermore, he now saw the handwriting on the wall and did not want to put himself in the position of being declared a collaborator when the war was over. He returned to Saigon and waited.” (35)

Tháng 4/1945, Trần Trọng Kim (1883-1952) được đưa từ Krung thêp về Huế làm Tổng lý nội các [Thủ tướng] “Ðế quốc Việt Nam” (4-8/1945). Nhóm Diệm-Chữ bị phân tán ra khắp ba miền. Y sĩ Chữ về lại Nam Ðịnh, rồi Hà Nội, và cuối cùng trở thành Chủ tịch Ủy Ban Lãnh Ðạo Chính trị miền Bắc, thay Khâm sai Phan Kế Toại từ chức vào giữa tháng 8/1945. Diệm về lại Vĩnh Long, tá túc trong giáo phận của
 Giám mục Thục.(
36)

 

IV. DIỆM & VIỆT MINH:

 

Mặc dù sau này Ngô Ðình Diệm thường tuyên bố tại Việt Nam chỉ nổi danh thua Hồ Chí Minh [the best known figure after Ho Chi Minh], khoảng thời gian từ tháng 8/1945 tới đầu năm 1947 là một giai đoạn bí mật nhất đời Diệm.

Như chúng ta đã biết, ngày 19/8/1945, nhân khoảng trống quyền lực sau ngày Nhật đầu hàng, Việt Nam Ðộc Lập Ðồng Minh, tức Việt Minh—từng hợp tác với Ðệ Tứ Phương Diện Quân Trung Hoa Dân Quốc, tình báo Bri-tên và Mỹ lên nắm chính quyền ở Hà Nội.(37) Ngày 25/8, Bảo Ðại ra thông cáo thoái vị. Tại Sài Gòn, Khâm sai Nguyễn Văn Sâm từ chức; Trần Văn Giàu thiết lập Lâm Ủy Hành Chánh Nam Kỳ. Trong vòng mười ngày từ khi Nhật đầu hàng, rồi chính thức buông súng từ ngày 21/8/1945, đất nước và dân tộc Việt rúng động trong những chuyển biến dồn dập, đẫm máu của giai đoạn II cuộc Cách Mạng 1945–giai đoạn thay đổi từ dưới lên trên, do những người từ chiến khu, rừng núi, ngoại quốc và tù ngục xách động dưới ngọn cờ đỏ sao vàng. Lá cờ quẻ Ly–với hai vạch đỏ liền kẹp trên dưới một gạch đỏ đứt quãng ở giữa, trên nền vàng–chìm nhanh vào quên lãng. Rồi, chiều Chủ Nhật 2/9/1945, một người trung niên trong bộ ka-ki vàng bốn túi, bộ râu lưa thưa, xuất hiện trên diễn đài tại bãi Cột Cờ Hà Nội–mới được đổi tên công viên Ba Ðình từ đầu tháng trước–long trọng đọc bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập của chính phủ lâm thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa [VNDCCH]. Khác với những diễn ginói về cuộc cách mạng quốc gia của Pétain, hay nền độc lập trong Khối Thịnh Vượng Chung Ðại Ðông Á trước đó, Hồ Chí Minh dùng câu đầu của Tuyên ngôn độc lập Mỹ năm 1776 để mở đầu tuyên ngôn độc lập của VNDCCH.

Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.

Lời bất hủ ấy ở trong bản tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền tự do.

 

Sau đó, nhắc đến Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền Pháp:

Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói:

Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi.”

Ðó là những lẽ phải không ai chối cãi được.

Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa.”

 

Tiếp đến những lời lên án chế độ Bảo hộ Pháp ngược đãi dân Việt, xây nhiều nhà tù hơn trường học, đầu độc dân Việt bằng “rượu cồn và thuốc phiện,” hai lần “bán” Việt Nam cho Nhật, và Việt Nam đã chiến đấu bên cạnh Ðồng Minh, giành độc lập từ tay Nhật mà không phải Pháp, Hồ kết luận:

“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã trở thành một nước tự do và độc lập, Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy.”

 

Có tất cả 15 người ký tên vào Tuyên Ngôn Ðôc Lập. Họ là thành viên của “Chính phủ Lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa,” một “Chính phủ Quốc gia Liên Hiệp,” “kết tinh của sự đoàn kết và thống nhất.” Hồ Chí Minh được ghi là “Ðảng Quốc Gia;” Võ Nguyên Giáp, “Văn hoá cứu quốc;” Trần Huy Liệu và Lê Văn Hiến, “Ðảng Cộng Sản;” Dương Ðức Hiền và Vũ Ðình Hoè, “đảng Dân Chủ;” Nguyễn Văn Xuân, “Quốc Dân Ðảng;” Phạm Văn Ðồng, Nguyễn Văn Tố, Phạm Ngọc Thạch, Ðào Trọng Kim, Nguyễn Mạnh Hà và Vũ Trọng Khánh, “không đảng nào;” và, Chu Văn Tấn, “Dân tộc thiểu số.” (38)

Nhân vật Nguyễn Văn Xuân là một dấu hỏi lớn. Nếu là Ðại tá Pháo thủ Nguyễn Văn Xuân, ông ta đã nhờ Nhật đưa trốn vào Nam. Tài liệu CS sau này nói Xuân là một cán bộ “Quốc Dân Ðảng;” nhưng chúng tôi không tìm thấy dấu tích nào của cán bộ VNQDÐ Nguyễn Văn Xuân; chỉ có nhân vật Nguyễn Ngọc Xuân.

Sau đó, Hồ trình diện chính phủ. Rồi yêu cầu dân chúng tuyên thệ: Nếu Pháp đến xâm lược lần nữa thì chúng ta không đi lính cho Pháp, không làm việc cho Pháp, không bán lương thực cho Pháp, không đưa đường cho Pháp, và đoàn kết để diệt Pháp.

Dù chưa thể tri nghiệm “độc lập” là gì, hàng chục ngàn dân–hàng trăm ngàn người, kể cả các chức sắc Ki-tô theo Jean Sainteny [1953:92], nửa triệu người theo tài liệu tuyên truyền Việt Minh–biến cuộc mít tinh thành biểu tình tuần hành. Có cả phi cơ Lightning bay lượn trên trời.

Chiều đó, tại Sài Gòn, cuộc xô xát đầu tiên giữa Việt Minh và Pháp bùng nổ trước Nhà thờ chính, rồi lan tràn khắp đường phố. Những cơn cuồng phong cách mạng thốc cuốn toàn dân ba miền vào ba thập niên bạo lực, bất trắc kế tiếp. Ngày 5/9/1945, HCM ký Sắc lệnh số 5 về quốc kỳ: Hủy bỏ cờ quẻ Ly, thay bằng cờ đỏ sao vàng, chiều ngang bằng 2/3 chiều dài. (CQ, 13/9/1945). Cùng ngày 5/9/1945, Bộ trưởng Nội vụ Giáp ký sắc lệnh số 8, giải tán Ðại Việt Quốc Gia Xã Hội Ðảng [Quốc Xã], vì “đã tư thông với ngoại quốc để mưu những việc có hại cho sự độc lập của Việt Nam,” và Ðại Việt Quốc Dân Ðảng vì “đã âm mưu những việc thiệt hại cho sự độc lập quốc gia và nền kinh tế Việt Nam.” (CQ, 9/9/1945). Ngày Thứ Tư, 12/9/1945, Giáp ký sắc lệnh số 30 giải tán Việt Nam Hưng Quốc Thanh Niên Hội của Lê Ngọc Vũ và Việt Nam Thanh Niên Ái Quốc Hội của Võ Văn Cầm. (Dân Chủ, 19/9/1945).

Chính phủ lâm thời cũng bắt giữ, ám sát, thủ tiêu hàng ngàn “phản động,” “Việt gian”. Cắt cổ, mổ bụng, trầm hà [“mò tôm”] chỉ là vài trò chơi người giết người quen thuộc. Trọn gia đình Kỹ sư Bùi Quang Chiêu, chẳng hạn, bị tiêu diệt ngoại trừ cháu nội mới mở mắt chào đời. Tạ Thu Thâu và các phần tử “Trốt kít” bị cầm tù, thảm sát từ Quảng Ngãi tới Bà Rịa, Bình Dương.

Trước phản ứng của dư luận, ngày Thứ Hai, 10/9, Trần Huy Liệu họp báo giải thích về những cuộc bắt bớ khắp nơi. Liệu cho rằng đó không phải là “khủng bố” vì “bị bắt bao giờ cũng là những kẻ đã do sự điều tra nhận thấy có phương hại tới chính quyền của nhân dân.” (Dân Chủ, 20/9/1945).

Báo Cứu Quốc, cơ quan ngôn luận của Việt Minh, công khai lên án và báo cáo việc thanh trừng chính trị. Ngày 12/9/1945, loan tin “ba tên phản quốc nữa đã bị bắt.” Ðó là: Bùi Trần Thường, cận vệ của Võ Văn Cầm; Phạm Ngọc Hàm, “mật thám cho Pháp mới từ Cao Bằng về liên lạc;” Ðào Chu Khải, làm “xếp tanh” trên đường Lào Kai-Vân Nam, VNQDÐ ở Vân Nam; sau 9/3/1945, làm “tay sai cho Nhật.” (CQ, 12/9/1945).

Riêng Diệm và Thục đều có tin bị Việt Minh bắt. Thục, thực ra được tự do sống ở vùng Vĩnh Long, dưới sự che chở của Việt Minh. Tháng 10/1945, Thục định ra Bắc, nhưng bị quân Bri-tên chặn bắt ở Biên Hòa, rồi sau đó âm thầm trở lại giáo phận Vĩnh Long. Riêng Nhu, từ tháng 8/1945, được Giáp cử làm Giám đốc Văn Khố Hà Nội. Phần Diệm, tông tích bất minh. Ngày 7/5/1953, trong buổi ăn trưa và thảo luận [lunch talks] về tình hình Ðông Dương tại Tối Cao Pháp Viện Mỹ, Diệm tuyên bố từng bị Hồ “cô lập” trong một làng thiểu số năm 1946. Sau 6 tháng, Hồ yêu cầu Diệm tham gia chính phủ, nhưng Diệm trả lời rằng vì biết Hồ là CS, Diệm muốn được toàn quyền và thông báo mọi tin tức. Những người ủng hộ Diệm đòi Diệm phải được giao Bộ Nội Vụ và nắm ngành Cảnh Sát. Hồ do dự ít tuần, rồi cuối cùng từ chối.

Gần hai thập niên sau, ngày 16/1/1962, Diệm còn lập lại với các viên chức Mỹ chi tiết bị giam ở thượng du Bắc Việt. Diệm tuyên bố bị bắt vào tháng 9/1945, khi từ Sài Gòn ra Huế ngăn Bảo Ðại đừng theo Hồ. Sau đó, bị giải lên gần biên giới Hoa-Việt, suýt chết vì bệnh sốt rét. Sáu tháng sau, HCM mang Diệm về Hà Nội, thuyết phục Diệm theo mình. Diệm không đồng ý, HCM bèn thả Diệm. (39) Sau này, Hoàng Tùng nói với một ký giả Tây phương rằng tha Diệm là một sai lầm.( 40)

Việc Diệm bị Việt Minh bắt được nhiều nguồn tin khác xác nhận. Hạ tuần tháng 11/1945, Giám mục Thục khai với Pháp rằng Khôi và Diệm đã bị Việt Minh bắt và có thể đã bị xử bắn.(41) Ngày 28/12/1945, Tổng Giám mục Antonin Drapier cũng viết cho Trưởng đoàn Truyền giáo Hải ngoại Pháp ở Sài Gòn, rằng Diệm đã bị Việt Minh bắt.( 42)

Một nguồn tin khác nữa ghi vào khoảng tháng 6/1946, khi Diệm đến ở nhà Linh mục Ðộ, chính xứ Tuy Hoà, cán bộ VM đã “khéo léo” mời được Diệm lên miền Thượng (Mọi). Người gia nhân thoát chạy ra Phát Diệm, xin Giám mục Lê Hữu Từ giúp, sợ bị giống như Khôi. Từ bèn cùng Linh mục Phạm Quang Hàm và Dân biểu Ngô Tử Ha vào Bắc bộ phủ xin Hồ tha Diệm. Chính Hồ cũng không biết việc này, và hứa sẽ can thiệp. Khoảng một tháng sau, Diệm về tới Hà Nội, Giáp gọi Nhu, Giám đốc văn khố Hà Nội, tới lĩnh về.( 43)

Những chi tiết quanh việc Diệm bị Việt Minh bắt có nhiều nghi vấn:

1. Xét về ngày tháng Diệm bị bắt, có phần không ổn.

a. Tài liệu Bộ Ngoại Giao Mỹ dẫn lời Diệm là Diệm bị bắt vào tháng 9/1945, và trả tự do vào khoảng tháng 3/1946.

b. Ngày tháng mà Từ hoặc tác giả viết hồi ký cho Từ ghi là Diệm bị bắt đúng vào giai đoạn HCM đang ở Pháp, và mãi tới ngày 22/10/1946 Hồ mới về tới Hà Nội. Vậy Từ can thiệp vào dịp nào? (Diệm cũng không hề nhắc đến việc được Từ và Hạ can thiệp).

c. Ngay chính Diệm, ngày 7/5/1953, chỉ nói mơ hồ đã bị “cô lập” tại một làng thiểu số trong 6 tháng vào năm 1946.

 

2. Không ai rõ Diệm được tha ngày nào, và cũng chẳng ai rõ hành tung Diệm từ lúc được tự do tới khi xuất hiện ở Hà Nội vào đầu năm 1947 trong bộ đồ tu hành.

3. Theo thư gửi Decoux đề ngày 21/8/1944, Thục nói Cộng Sản từng sai sát thủ ra Phan Rang mưu sát Diệm, nhưng Diệm chỉ bị thương. Nếu bắt được Diệm năm 1945 hoặc 1946, ngay tại miền Trung, cách nào Cộng Sản tha Diệm? Người ta chưa quên số phận những Tạ Thu Thâu, Vũ Ðình Dy, v.. v... ở Quảng Ngãi; và nhiều cảnh “mò tôm” khác khắp ba miền.

4. Anh em Diệm rất thành thạo thủ thuật tự đánh bóng (kiểu Diệm “làm Tể tướng cho Bảo Ðại,” Khả làm “thượng thư đầu triều Thành Thái,” hay “đầy vua không Khả”). Thành tích “bị giam lỏng” tại miền thượng du năm 1946, hay đòi Hồ cho nắm Bộ Nội vụ có thể chỉ để tăng thêm vốn cho việc rao bán lập trường chống Cộng hầu xin viện trợ Mỹ của Diệm. Hy vọng sẽ có dấu vết việc bị “cô lập” này trong văn khố Ðảng Cộng Sản Việt Nam hay Pháp.

Cho tới khi có tài liệu chứng minh ngược lại, tin Diệm đã trốn trong nhà tu [Redemptoristes hay Dòng Cứu thế] ở Huế mà tài liệu văn khố Pháp ghi nhận hợp lý hơn hết.

 

V. DIỆM & BẢO ÐẠI: “THÀNH PHẦN THỨ BA”

 

Ðầu năm 1947, Diệm xuất hiện ở Hà Nội, ngụy trang như một tu sĩ dòng Cứu Thế. Ðược Pháp yêu cầu lập chính phủ chống Cộng, Diệm đưa ra một kế hoạch không thể chấp nhận được, tức thống nhất ba miền, có quân đội riêng và nhiều quyền tự trị hơn. Diệm còn gặp Tổng lãnh sự Mỹ Charles Reed tại Hà Nội. Trong thời gian ở Hà Nội, ngụ tại tu viện dòng Cứu Thế ở Thái Hà Ấp. Ngày 11/4/1947, Diệm trở lại Sài Gòn. Ngày 5/9/1947, lại trở ra Hà Nội. (44)

 

A. “THÍ NGHIỆM” BẢO ÐẠI:


Thời gian này, “thí nghiệm” Bảo Ðại bắt đầu thành hình. Thí nghiệm này nhằm ngụy trang cuộc tái xâm lăng Việt Nam mà chính phủ Charles de Gaulle đã phát động từ năm 1944-1945.

Từ mùa Hè 1945, sau khi Nhật lật đổ chính phủ thân Vichy của Decoux, Tướng de Gaulle đã nỗ lực tìm một “chí sĩ quốc gia Việt Nam chân chính” để cầm cờ dẫn Pháp trở lại Ðông Dương. Ứng cử viên được nhiều người biết nhất là Hoàng tử Vĩnh San (1900-1945), tức cựu hoàng Duy Tân (1907-1916), đã bị truất phế và đầy qua Réunion năm 1916. Tai nạn phi cơ ngày 26/12/1945 khiến “lá bài bí mật” của phe de Gaulle “tan biến như một giấc mơ đẹp.” Hai ngày sau, 28/12, Tổng Giám mục Antonin Drapier, Khâm sứ Vatican, trình lên Cao ủy/Linh mục Georges Thierry d’Argenlieu (1945-1947) kế hoạch cho Bảo Ðại lên ngôi như trước ngày 9/3/1945; rồi lập Hoàng tử Bảo Long làm vua, Hoàng hậu Nam Phương nhiếp chính, với Diệm làm Thủ tướng.(45) Tuy nhiên, d’Argenlieu không đồng ý, và cũng không hài lòng việc Drapier xen lấn vào thế quyền.

Một số chính khách, lãnh tụ giáo phái Việt cũng xúc tiến thực hiện “giải pháp” Bảo Ðại từ cuối năm 1945, đầu năm 1946. Người đầu tiên đưa ra ý kiến này là tân Giám Mục Lê Hữu Từ. Nhân dịp Bảo Ðại về Phát Diệm dự lễ tấn phong của Từ, Từ hỏi Bảo Ðại có mưu tính gì chăng; nhưng Bảo Ðại không có phản ứng tích cực. Cựu Thủ tướng Kim  và

đảng viên trẻ Ðại Việt, kể cả Ðỗ Ðình Ðạo v.. v..., cũng tìm thấy ở Bảo Ðại sự lãnh đạo, hoặc ít nữa sự chính thống [legality hay legitimacy] cần thiết, để chống Hồ.(46) Việt Nam Quốc Dân Ðảng [VNQDÐ]Trung Hoa Quốc Dân Ðảng [THQDÐ] cũng ít nhiều tiếp tay Bảo Ðại rời Hà Nội vào trung tuần tháng 3/1946.

Mãi tới sau cái chết của Y sĩ Nguyễn Văn Thinh ngày 10/11/1946 và sự khủng hoảng của thí nghiệm “Cộng Hoà Nam Kỳ tự trị”–nhất là sau cuộc tấn công của Việt Minh tối 19/12/1946 trên khắp miền Bắc vĩ tuyến 16–vai trò Bảo Ðại mới sáng giá hơn. Nước Pháp đứng trước một ngã ba đường. Một, tiếp tục thương thuyết với Việt Minh, hầu tìm một giải pháp chính trị. Nẻo đường khác, là đoạn tuyệt với chính phủ “ương ngạnh” [intransigence] của Hồ, đi tìm một “chí sĩ quốc gia” chấp nhận thoả hiệp. Hầu hết lãnh đạo Pháp–từ Bộ trưởng Pháp quốc Hải ngoại Marius Moutet tới đặc sứ Philippe Leclerc de Hautecloque (1902-1947)–đều nghĩ rằng đã đến lúc đoạn tuyệt với Hồ. Léon Pignon, Cố vấn Chính trị của d'Argenlieu, ủng hộ Bảo Ðại nồng nhiệt nhất.

Do Pignon tiến cử, ngày 14/1/1947, d'Argenlieu mật báo về kế hoạch tái sử dụng Bảo Ðại. Moutet không chấp thuận. Thủ tướng Léon Blum (12/1946-1/1947) cũng không tán thành, nhưng chuyển cho người kế vị là Paul Ramadier (1947).(47) Dẫu vậy, d'Argenlieu vẫn gửi Cousseau qua Hong Kong để liên lạc với Bảo Ðại vào đầu năm 1947. Ðồng thời lưới tình báo nhân dân của Hội Truyền giáo Pháp–qua Tổng Giám Mục Drapier, và các giáo sĩ như Giám Mục Quảng Châu Fourquet, Linh mục Vircondolet, Giám đốc Hội truyền giáo Hong Kong, và Yolle–tiếp tục “bảo vệ” Bảo Ðại. (48)

 

Sự thành hình của chính phủ Ramadier ngày 21/1/1947, và quyết định thay d'Argenlieu bằng Dân biểu Emile Bollaert ngày 5/3/1947 mang lại một không khí mới. Viên chức Pháp nghĩ đến một chính phủ Liên bang Việt Nam, với ba chính phủ địa phương tại ba kỳ, và một chính phủ trung ương tượng trưng sự thống nhất lãnh thổ. Vấn đề đặt ra là ai sẽ cầm đầu chính phủ trung ương đó. Hồ Chí Minh và Bảo Ðại trở thành hai tâm điểm của các cuộc thảo luận.

Một số chính khách Pháp nghĩ phải nối lại thương thuyết với Hồ. Theo họ, dù Hồ và các thuộc hạ thân tín là Cộng Sản, đa số cấp lãnh đạo Việt Minh chỉ là những người yêu nước. Hơn nữa, Hồ và các thuộc hạ có khả năng nhất. (49) Một số khác chủ trương loại Hồ, thương thuyết với Bảo Ðại. Theo họ, Bảo Ðại có một số người theo ở Trung Kỳ; và được sự ủng hộ hoặc chấp thuận của nhiều nhân vật có uy tín tại Bắc cũng như Nam Kỳ.(50)

 

Ngày 1/4/1947 tân Cao Ủy Bollaert tới Sài Gòn với lệnh tái thiết lập những guồng máy cũ, nhưng đừng để lộ ra là Pháp muốn tái lập nền quân chủ.

Thời gian này, Bảo Ðại sống ẩn dật tại Hong Kong. Rời Hà Nội ngày 16/3/1946 trong phái đoàn thăm thân hữu Trung Hoa, nhưng đến ngày về, Bảo Ðại được thư Hồ khuyên nên du lịch thêm một thời gian. Cựu hoàng bèn sang Hong Kong, sống tại đây với một vũ nữ, dưới một tên giả trong khách sạn Saint Francis Hotel. Mùa Thu 1946, Bảo Ðại tuyên bố với một ký giả Pháp, Jacques Sallebert, là với cựu hoàng, “chính trị đã chết.” Bảo Ðại cũng bày tỏ lòng kính phục Chủ tịch Hồ, và tiết lộ rằng sự thoái vị của mình là chiều theo ý dân.(51) Bảo Ðại còn xin qua định cư ở Morroco, và Bộ Ngoại Giao Pháp chấp thuận. Tuy nhiên, Giám Mục Hong Kong khuyên Bảo Ðại bỏ ý định trên.

Nhiều cá nhân và lãnh tụ chống Cộng cũng tìm đến, lôi kéo Bảo Ðại khỏi cảnh huống “về hưu” non ở tuổi 33. Trong số này có các nhóm Nguyễn Tường Tam, Vũ Kim Thành, Trần Trọng Kim v.. v... Vào cuối năm 1946, đầu năm 1947, số người ủng hộ Bảo Ðại được tăng cường thêm Hộ pháp Cao Ðài. Mới hồi hương vào tháng 8/1946 sau gần 5 năm lưu đầy, Phạm Công Tắc chủ trương hợp tác với Pháp để chống Cộng. Chính Tắc và Trần Quang Vinh, Tư lệnh lực lượng võ trang Cao Ðài từ năm 1943, đã yểm trợ Y sĩ Lê Văn Hoạch lên cầm đầu chính phủ Nam Kỳ tự trị sau cái chết của Y sĩ Thinh ngày 10/11/1946, hầu loại bỏ Trần Văn Tỉ. Cuộc tổng tấn công ngày 19/12/1946 của Hồ giúp Tắc mạnh bạo hơn. Ngày 1/1/1947, nhân dịp Bộ trưởng Moutet đang tham quan Ðông Dương, Tắc yêu cầu Moutet đưa Bảo Ðại về nước; và hứa sẽ ủng hộ Bảo Ðại.(52)

Nhưng các chính phủ tại Paris–với sự tham dự của Ðảng Cộng Sản Pháp–chưa muốn đoạn tuyệt với Hồ. Vì nhiều lý do, viên chức Pháp khẳng định vẫn muốn thương thuyết, nhưng đặt thêm điều kiện căn bản–đó là thảo luận trên thế mạnh, không để bạo lực chi phối, và sau khi đã vãn hồi trật tự. Ngày 20/12/1946, khi ra trước Quốc Hội điều trần, và tuyên bố sẽ qua Ðông Dương tham quan, Moutet nhấn mạnh:

Nước Pháp muốn hoà bình, tôn trọng những nguyên tắc đã tuyên bố, nhưng không chịu khuất phục trước bạo lực. Chính sách của Pháp là bảo vệ quyền lợi nước Pháp và làm cho những quyền lợi ấy được tôn trọng.( 53)

 

Dù chỉ là một bình phong cho việc tái chiếm miền Bắc bằng võ lực, hay phát xuất từ lòng chân thành, những điều kiện tiên quyết này mở ra một câu hỏi then chốt–đó là thương thuyết với ai? Thêm vào đó, là giới hạn của những nhượng bộ Pháp có thể chấp thuận. Mặc dù bản tuyên cáo ngày 24/3/1945 qui định “năm xứ Ðông Dương” của de Gaulle đã bị các biến cố ở Việt Nam biến thành dĩ vãng, đa số giới lãnh đạo Pháp vẫn nhấn mạnh Ðông Dương phải là một thành phần của Khối Liên Hiệp Pháp [L’Union Francaise]; không thể thống nhất ba miền Bắc, Trung, Nam vì miền Nam là một thuộc địa, tức phần lãnh thổ bất khả phân của Pháp như phần dẫn nhập của Hiến Pháp 1946 đã qui định; và, chính phủ VNDCCH của Hồ chỉ là một trong những phe phái mà người Pháp có thể thương thuyết.

Ngày 23/12/1946, Dân biểu André Mutter của hạt l'Aube–người từng yêu cầu bắt Hồ tại Paris sau khi hội nghị Fontainebleau đổ vỡ–tuyên bố không thể đàm phán với chính phủ Hồ được nữa vì đó là “bọn phản bội” [traitres]. Mutter nhấn mạnh:

Chúng ta không thể coi Hồ Chí Minh như đại diện của một tiểu bang tự do [Etat libre]; đó là một kẻ sát nhân [assassin].(54)

 

Sau khi tham quan Ðông Dương về, tảng lờ lời Hồ kêu gọi tái thương thuyết, ngày 18/3/1947, Moutet khẳng định không thể nói chuyện với Hồ nữa, vì Hồ không những chỉ coi việc ký Hiệp ước như một phương tiện tranh đấu; mà còn chủ trương bạo động.(55)

Mặc dù vẫn còn những người như Pierre Cot chưa dứt khoát–đề nghị đừng nên qui lỗi cho một phe nào–phe cực hữu ngày thêm mạnh. Ngày 13/4/1947, Paul Reynaud tuyên bố trước Quốc Hội Pháp:

Hồ Chí Minh là một tên tội phạm [un criminel] và không thể thương thuyết với hắn; hoặc hắn đã bị điều khiển [manoeuvré] và tự chứng tỏ thiếu khả năng để bắt chính quân đội của mình tuân lệnh, vậy thì, đó là kẻ thiếu khả năng và cũng chẳng nên thương thuyết với hắn nữa.(56)

 

Hôm sau, 14/4, Dân biểu Maurice Violette còn đi xa hơn, khẳng định: “Tinh thần quốc gia ở Việt Nam là phương tiện; cứu cánh là thực dân Liên Sô.”(57) Lời cáo buộc này khiến phe Cộng Sản Pháp, kể cả Marcel Cachin, cực lực phản đối. Ramadier phải công nhận cho tới thời điểm đó, Liên Sô Nga hoàn toàn trung lập. Nhưng từ ngày này, dù công khai hay phía sau hậu trường, các viên chức Pháp, vì những lý do dễ hiểu, không ngừng tố cáo nguồn gốc Quốc Tế Cộng Sản [QTCS] của Hồ.(58)

Phe cổ võ cắt đứt thương thuyết còn đưa ra thêm lý do khác là từ ngày 19/12/1946, chưa ai gặp được Hồ. Sự biến dạng này khiến không thể không hoài nghi rằng Hồ đã chết; và, những phần tử quá khích như Võ Nguyên Giáp cùng Hạ Bá Cang (Quận thọt) đang chi phối Tổng bộ Việt Minh. Những văn thư ký tên Hồ gửi cho Pháp trong những tháng cuối năm 1946, đầu năm 1947–kể cả bản kiến nghị do Trần Ngọc Ranh trao cho Pháp tại Paris vào tháng 2/1947–bị coi là đã giả mạo chữ ký Hồ.(59)

Song song với chiến dịch hạ uy tín Hồ là việc tách rời Hồ khỏi khối đại đa số người Việt yêu nước. Ramadier, khi ra thuyết trình trước Quốc Hội vào tháng 2/1947, đã mở đầu cho khuynh hướng này. Tiếp đó, Moutet khẳng định Hiệp ước sơ bộ 6/3/1946 đã được ký kết với một chính phủ liên hiệp Việt Nam, mà không phải với cá nhân Hồ.

Trong khi HCM chủ trương “còn nước cứ tát,” Bảo Ðại chuyển dần sang lập trường chống Cộng, từ bỏ ý định qua Morroco định cư. Từ ngày 17/2/1947, những người ủng hộ Bảo Ðại thành lập tại Nam Kinh Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhứt Toàn Quốc “ngõ hầu đạt tới lý tưởng tối cao . . . tranh thủ Ðộc lập và Thống nhứt quốc gia, củng cố chánh thể Cộng hòa dân chủ, thực thi chế độ dân chủ chân chánh.” (Bản ký kết thành lập MTQGTNTQ; 10H xxx [4201]). Qui tụ Việt Nam Cách Mệnh Ðồng Minh Hội (Nguyễn Hải Thần), Việt Nam Quốc Dân Ðảng (Nguyễn Tường Tam), Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Ðảng (Nguyễn Hoàn Bích), Việt Nam Quốc Gia Thanh Niên Ðoàn (Trần Côn tức Văn Tuyên), và Ðoàn Thể Dân Chúng (Lưu Ðức Trung tức Lưu Bá Ðạt). Mặt Trận cử một phái đoàn gồm Thần, Tam, Bích và Côn xuống Hong-Kong gặp Vĩnh Thụy. Hơn một tháng sau, trong cuộc họp báo ở Hong Kong ngày 29/3, Bảo Ðại tuyên bố chính phủ HCM không đủ khả năng đại diện dân Việt Nam; và, Bảo Ðại chống lại Việt Minh. Tại buổi họp báo này, phổ biến tài liệu Mặt Trận Thống Nhứt Quốc Gia Việt Nam [Front d'Union Nationale du Viet-Nam], danh hiệu mới của MTQGTNTQ mở rộng–mới mời thêm được các tổ chức miền nam và trung như Việt Nam Quốc Gia Ðộc Lập Ðảng (Nguyễn Văn Sâm), Cao Ðài (Phạm Công Tắc), và Liên Ðoàn Công Giáo (Trần Văn Lý-Ngô Ðình Diệm). Mục tiêu của Mặt Trận mở rộng hơn, tức “thống nhất mọi tổ chức cách mạng, đảng phái chính trị, đoàn thể tôn giáo và xã hội để đấu tranh giành độc lập và thống nhất lãnh thổ, củng cố chế độ cộng hoà, dân chủ, hợp tác toàn diện với tất cả các quốc gia trên thế giới trên căn bản công bằng và tự do để vãn hồi trật tự thế giới.” Về Việt Nam, Mặt Trận khẳng định cuộc kháng chiến hơn một năm qua không phải là công trình của một đảng nào, mà là của toàn dân. Chính phủ HCM không còn được nhân dân tin tưởng và đã mất vị thế trên thế giới trong cuộc tranh đấu giành độc lập. Bởi vậy, Mặt Trận ủng hộ cựu hoàng Bảo Ðại Nguyễn Vĩnh Thụy để thành lập một chính phủ dân chủ thực sự. (60)

 

B. SỨ MỆNH CAO ỦY BOLLAERT:


Ðể đánh dấu sự thay đổi chính sách, Ramadier quyết định thay d'Argenlieu vì Linh mục/Cao ủy  bị chỉ trích là còn nặng đầu óc thực dân; và vì d'Argenlieu có những khó khăn trong quan hệ với những người mà ông ta phải làm việc chung. D’Argenlieu không chịu từ chức, muốn níu giữ Ðông Dương chờ de Gaulle–mới đột ngột từ chức ngày 24/1/1946–trở lại chính quyền. Ramadier chẳng còn cách nào khác hơn cách chức d’Argenlieu.

Bài diễn văn được coi như bản tuyên bố chiến tranh lạnh ngày 12/3/1947 của Tổng thống Harry Truman (1945-1953) và kế hoạch viện trợ tái thiết Tây Âu ít tháng sau của Ngoại trưởng George C. Marshall–được biết như “Kế hoạch Marshall”–khiến Ramadier nghiêng về phía loại bỏ Hồ, “một cán bộ QTCS.” Tuy nhiên, dự định của Paris nhằm biến hoá cuộc tái xâm lăng Việt Nam thành một điểm nổ của cuộc chiến tranh lạnh Tư Bản-Cộng Sản (1947-1991)–hầu xin viện trợ Mỹ và thiết lập chính nghĩa mới –không đạt được tốc độ mong muốn. Oat-shinh-tân, dù không muốn thấy “một chế độ tay sai của Mat-scơ-va thống trị bán đảo Ðông Dương,” nhưng cũng không muốn bị mang tiếng ủng hộ Pháp tái thiết lập chế độ thuộc địa kiểu tiền chiến, chỉ khuyên Pháp nên tìm ra một “chí sĩ quốc gia chân chính” lên cầm đầu cuộc chiến chống Cộng. Bởi thế, suốt năm 1947, Bollaert gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm một giải pháp cho Việt Nam. Dẫu vậy, Bollaert đặt xuống những nền tảng cho việc thực thi thí nghiệm Bảo Ðại. Giai đoạn đầu là những bước ngoại giao để loại bỏ Hồ.

Nguyên từ cuối tháng 12/1946, đầu tháng 1/1947, Hồ nhiều lần xin nối lại thương thuyết. Ngày 20/2/1947, ít tuần trước ngày Ðại Hội Các Quốc Gia Á Châu tại New Dehli, Ðài Việt Minh công bố một lá thư của Hồ gửi Ramadier và Moutet, kêu gọi thương thuyết. Việt Minh cũng nhờ đại diện Hồng Thập Tự Quốc Tế chuyển cho Lãnh sự Bri-tên một thư nghị hoà, nhưng viên chức Pháp ở Paris đều nói không nhận được. Mãi tới ngày 26/3, viên chức Ngoại giao Pháp mới nói với Ðại sứ Mỹ Caffery là nhận được thư này, nhưng không ai dám khẳng quyết Hồ còn sống.(61)

Cũng ngày này, tân Bộ trưởng Ngoại giao Hoàng Minh Giám khẳng định muốn “độc lập trong Liên Hiệp Pháp.” Ngày 18/4/1947, Giám nhờ Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế chuyển cho Miguel de Pereyra, tân Ủy viên Cộng Hoà Bắc Việt, một công hàm yêu cầu ngưng bắn tức khắc và nối lại thương thuyết.(62) Hôm sau, 19/4, Giám lại tuyên bố sẵn sàng điều đình, nhưng vì Pháp đòi Việt Minh phải nộp 50% khí giới, phóng thích tù binh Pháp, VM không chịu, vì như thế là đầu hàng. Việt Minh còn cử Thứ trưởng Ngoại Giao Phạm Ngọc Thạch tới Bangkok và các nước Ðông Nam Á để vận động. Thạch hai lần bí mật tiếp xúc Tùy viên Quân sự Toà Ðại sứ Mỹ ở Bangkok, Trung tá William Law, trao cho Mỹ một số văn kiện, nhưng không đạt kết quả nào.(63)

Tháng 5/1947, Bollaert cử Paul Mus, cố vấn kinh tế, tìm cách liên lạc với Giám. Ngày 9/5, Mus gặp Giám ở Cầu Ðuống, rồi được dẫn đi gặp Hồ ngay tại tỉnh lị Thái Nguyên. Tuy nhiên, khi nghe Mus đọc thuộc lòng các điều kiện của Bollaert–tức Việt Minh phải buông súng đầu hàng–Hồ chẳng có lựa chọn nào khác hơn từ chối.(64)

Bollaert cũng xúc tiến mạnh hơn việc thành lập các cơ cấu hành chính lâm thời tại vùng chiếm đóng. Khởi đi từ Ủy Ban Chấp Chánh Lâm Thời [Comité administratif provisoire] ở Huế (12/4/1947) và Hội đồng An Dân Bắc Việt [Comité provisoire de gestion administrative et d'action sociale] ở Hà Nội (19/5/1947), các ủy ban hay hội đồng hàng tỉnh, hàng quận tiếp tục được thiết lập.

Trong hai tháng cuối Xuân, đầu Hạ 1947, Hồ lại mở chiến dịch kêu gọi thương thuyết. Ngày 19/6, Hồ tuyên bố muốn được độc lập trong Liên Hiệp Pháp. Một tháng sau, ngày 19/7, Hồ cải tổ chính phủ. Hai nhân vật “ôn hoà”–Hoàng Minh Giám và Tạ Quang Bửu, rất thân thiết với Võ Nguyên Giáp–lên nắm Bộ Ngoại Giao và Quốc Phòng. Chu Bá Phượng, một lãnh tụ VNQDÐ vẫn được “nắm” chức Cứu tế, Xã hội (dù trên thực tế đang bị giam lỏng). Nguyễn Văn Tố, Ðặng Văn Hướng, Bồ Xuân Luật là ba Bộ trưởng không bộ nào. Vũ Ðình Tụng, Bộ trưởng Cựu Chiến binh, và Ngô Tử Hạ, Thứ trưởng Cựu Chiến binh, đại biểu giáo dân Ki-tô. Tôn Ðức Thắng mất chức Bộ trưởng Nội Vụ; Giáp lên chức Tổng Tư lệnh Quân đội.(65)

Giới ngoại giao ghi nhận việc cải tổ chính phủ này như một nỗ lực của Hồ để nối lại thương thuyết. Tuy nhiên, khi trở lại Paris ngày 29/7, Mus tuyên bố khó thể có hoà bình vì cả hai bên đều không tin nhau. Thực ra, Bollaert vốn có ý định cắt đứt liên hệ với Hồ; và bí mật thương thuyết với Bảo Ðại cùng các phe phái chống Cộng. Mus là một trong những đặc sứ, nhưng quan trọng nhất vẫn là Cousseau, nhân viên tình báo có nhiệm vụ kiểm soát và nuôi dưỡng Bảo Ðại trong cảnh lưu vong qua trung gian các giáo sĩ và Lưu Bá Ðạt. Nhưng ông vua cuối nhà Nguyễn, người được Ðại diện Vatican ca ngợi như thân Pháp nhất tại Việt Nam, đã phần nào thay đổi.(66)

Bảo Ðại, và nhất là những cộng sự viên buổi đầu như Kim, Thành, Diệm, Sâm mới trải qua một cơn sốt váng vất độc lập, thống nhất—và, phần nào vì mặc cảm—–đòi hỏi Pháp nhân nhượng nhiều hơn những gì đã nhân nhượng với Hồ. Gặp Cousseau ở Hong Kong vào tháng 1/1947, chẳng hạn, Kim đưa ra 7 điều kiện để hợp tác: 1/ thống nhất 3 kỳ; 2/ tự trị; 3/ định rõ vị trí của VN trong Liên Hiệp Pháp; 4/ VN phải có quân đội; 5/ VN phải có cơ cấu tài chính; 6/ Pháp nên định một hạn kỳ trao trả độc lập cho VN; 7/ VN có đại biểu ngoại giao với các nước Á Ðông và buôn bán với các nước khác.( 67)

Tuy nhiên, Pháp không chịu nhượng bộ. Quá tự tin ở sức mạnh quân sự—ít nữa đủ sức đánh tan quân đội chính qui Việt Minh—ai nấy hy vọng chiến thắng không xa. Tình hình quân sự những tháng đầu năm 1947 phần nào thắp sáng ngọn lửa lạc quan. Ngày 17/2/1947, bộ đội Việt Minh rút khỏi Hà Nội. Gần một tháng sau, ngày 11/3, Pháp làm chủ Nam Ðịnh. Tại miền Trung, Pháp tái chiếm Hội An [Faifo] ngày 15/3, Quảng Nam ngày 16/3; rồi đổ bộ Ðồng Hới ngày 27/3. Riêng Hòa Bình, ngày 15/4 Pháp làm chủ được tình thế. Bởi vậy, Bollaert và cố vấn tìm cách kéo dài thời gian, chờ đợi kết quả chiến dịch mùa khô 1947—một chiến dịch mà Tướng lãnh Pháp tin tưởng sẽ bẻ gãy xương sống quân đội Việt Minh. Ðể chuẩn bị cho chiến dịch này, ngày 16/5 Bollaert cử Tướng Raoul Salan—một nhân vật quen thuộc với Ðông Dương, từng tham gia cuộc thương thuyết với Trung Hoa và Hồ năm 1946—làm Tư lệnh miền Bắc. Viện binh Pháp cũng lục tục kéo tới, nhiều nhất là lính Lê-dương [Légions étrangères] gốc Ðông Âu và lính da đen Phi Châu.

Bollaert cũng cho cải tổ những chính phủ “Tề” tại miền Bắc và miền Trung. Ngày 19/5/1947, Y sĩ Trương Ðình Tri–nguyên Bộ trưởng Y tế trong chính phủ Liên Hiệp 2/3/1946 của Hồ–được cử làm Chủ tịch Hội Ðồng An Dân Bắc Việt. Tại miền Trung, Trần Văn Lý cầm đầu Ủy ban Chấp Chính Lâm Thời Trung Kỳ. Nguyễn Khoa Toàn, Tỉnh trưởng Thừa Thiên từ năm 1946, nắm Hội đồng Thẩm nghị [Tư vấn] Trung Kỳ. Tại miền Nam, mặc dù coi chính phủ Lê Văn Hoạch là gánh nặng của mình, Bollaert biến hoá dần sản phẩm của nhóm Gaullist này. Ngày 19/5, Bollaert trả Dinh Thống Ðốc cho Hoạch. Ðồng thời, áp lực Hoạch cải tổ chính phủ và tách biệt dần khỏi khuynh hướng tự trị.

Tại miền Bắc, nhóm Ðặng Vũ Lạc (1902-1948), Lê Thăng (1901-1987?), Ðỗ Văn Năng (1915-1950) bắt đầu qui tụ các đảng viên Ðại Việt và VNQDÐ, thành lập Ðại Việt Quốc Dân Ðảng hay Tân Ðại Việt. Nhượng Tống Hoàng Phạm Trân cùng Ngô Thúc Ðịch và một số người khác tái tổ chức VNQDÐ.

Tại miền Trung, VNQDÐ và Ðại Việt tái xây dựng tại vùng Tề. Tổ chức Ðại Việt Phục Hưng của Diệm cũng hoạt động trở lại. Do Nguyễn Khoa Toàn đề xướng, Trần Văn Lý và Trần Thanh Ðạt lập nên Việt Nam Quốc Gia Liên Hiệp làm cánh tay chính trị. Một nhân vật đang lên khác tại miền Trung là Phan Văn Giáo (1901-1963?). Giáo, một Dược sĩ Ki-tô gốc Ninh Hoà từng nổi danh là cây vợt tennis tên tuổi, bị Việt Minh bắt giữ vào tháng 8/1945 vì liên hệ với VNQDÐ, và lên án 6 năm khổ sai, tịch biên gia sản vào tháng 2/1946. Thoát ra Hà Nội tháng 11/1946, Giáo qua Hong Kong với Bảo Ðại. Tháng 3/1947, được Bảo Ðại ủy về nước vận động thành lập chế độ quân chủ lập hiến.

Tại miền Nam, thế chống Cộng của các phe nhóm gia tăng hơn nữa sau khi Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ (1917-1947) của đạo Hoà Hảo bị Việt Minh sát hại ngày 20/4/1947. (68) Các phe nhóm tự trị thay đổi lập trường, tuyên bố không chống đối việc thống nhất, miễn mỗi xứ vẫn có tự trị về kinh tế và chính trị. Những nhóm chống Cộng khác tổ chức biểu tình khắp nơi. Ngày 12/8, Huế biểu tình yêu cầu Bảo Ðại về nước chấp chánh. Ngày 1/9 và rồi 14/9, biểu tình được tổ chức ở Sài Gòn.

Các viên chức vùng Tề khắp ba miền cũng tới tấp đi lại giữa Việt Nam và Hong Kong để “van xin” Bảo Ðại đứng ra nhận trách nhiệm. Có những nỗ lực liên hiệp giữa Lê Văn Hoạch và MTQGTNTQ của Nguyễn Văn Sâm, sau khi Hộ Pháp Tắc tuyên bố ủng hộ tổ chức này ngày 16/8. Ðiều kiện của Sâm là ghế Bộ trưởng Nội Vụ hoặc Quốc Phòng. Sau đó, MTQGTNTQ ủy Hoạch tiếp xúc Bảo Ðại để cầm đầu phong trào quốc gia và thống nhất đất nước. Ngày 5/9, Bảo Ðại tuyên bố muốn tiếp xúc với các lãnh tụ VN để bàn luận thời sự. Cùng ngày, dù không được mời, Sâm qua Hong Kong gặp Bảo Ðại. Ngày 9/9, Bảo Ðại tiếp kiến 24 đại diện ba miền. Trong số những đại diện này có Nguyễn Văn Tâm, Bộ trưởng Quốc Phòng của chính phủ Hoạch. Bảo Ðại tuyên bố sẽ đứng ra hoà giải các phe phái sau khi đã thương lượng với Pháp.(69)

Giới giáo dân Ki-tô cũng âm thầm yểm trợ thí nghiệm Bảo Ðại. Từ đầu năm 1947, Giám mục Từ đã cho một số chính khách chống Cộng vào ẩn náu tại Phát Diệm mà Hồ cho hưởng đặc ân tự trị. Vợ chồng Ngô Ðình Nhu và Trần Văn Chương một thời tá túc tại đây, trước khi bí mật vào Nam, rồi cư ngụ ở Ðà Lạt. Các chi nhánh Ðại Việt Duy Dân, VNQDÐ và Ðại Việt cũng bắt đầu được tái sinh. Trong khi đó, Từ mượn những chuyến thăm viếng giáo dân với danh nghĩa vận động kháng chiến chống Pháp để tuyên truyền nhu cầu thánh chiến chống Cộng. Tại giáo phận Vĩnh Long, Giám mục Thục cắt dần liên hệ với Việt Minh. Nhưng nhiệt tình chống Cộng hơn cả là các giáo mục tại vùng Bến Tre và Mỹ Tho. Họ công khai yểm trợ các đơn vị lưu động bảo vệ giáo xứ [UMDC] của Trung úy Jean Léon Leroy, thủ diễn vai trò “chính trị viên” cho các binh sĩ thêu trước ngực hình thập tự giá. Tại các vùng Pháp mới tái lập kiểm soát như Kẻ Sặt (Hải Dương), Quảng Bình, Quảng Trị, Kontum, v.. v... nhiều đơn vị tự vệ của giáo dân Ki-tô được tổ chức để chống Cộng. Pháp còn sử dụng các giáo sĩ Ki-tô để móc nối với những cộng đồng giáo dân tại các giáo phận Việt Minh kiểm soát. Khâm sứ Drapier không những ban phép lành cho phong trào thánh chiến này mà còn đẩy mạnh hơn vai trò Diệm và họ Ngô trong thí nghiệm Bảo Ðại.(70)

Mặc dù có kẻ thù chung là Cộng Sản, các tổ chức chính trị và giáo phái không đạt được sự đoàn kết cần thiết. Màu sắc tôn giáo, địa phương chi phối nặng nề, khiến phần đông hữu danh vô thực. Nguy hiểm nhất là tệ nạn sứ quân. (Lansdale từng ví phe chống Cộng như “một rổ cua” [un pannier de crabes])

Dĩ nhiên, phe Việt Minh không chịu bó tay. Ðài phát thanh Việt Minh không ngừng đả kích những tên “Việt Gian” đang âm mưu lập nên một “chính phủ bù nhìn tay sai” chống lại chính phủ hợp pháp VNDCCH. Tại miền Nam, Nguyễn Bình (Nguyễn Phương Thảo) phát động chiến dịch khủng bố và ám sát. Ðã có lúc, Việt Minh nghĩ đến việc gửi Phạm Khắc Hoè sang Hong Kong thuyết phục Bảo Ðại. Và, khi công bố chính phủ đổi mới vào tháng 7/1947, Hồ vẫn liệt kê Bảo Ðại như cố vấn tối cao.

Theo đúng kịch bản, ngày 10/9/1947, Bollaert đọc diễn văn lần thứ hai tại Hà Ðông. Trong diễn văn này, Bollaert đưa ra khẩu hiệu mới là “Ðộc lập trong tương trợ [L'Indépendance dans l'interdépendance].” Mục đích chính không phải là hứa hẹn sẽ trao độc lập cho Việt Nam mà chỉ thỏa mãn đòi hỏi của người Việt bằng cách tạo một tiền lệ nhắc đến hai chữ “độc lập”–từ năm 1945, Pháp chưa hề nhắc đến hai chữ “quốc cấm” này, và chỉ có cặp Ramadier-Bollaert mới không sợ hãi chúng. Việc này sẽ chứng tỏ tinh thần “cấp tiến” của Paris.(71) Những đề nghị của Bollaert cũng được cân nhắc sao cho Hồ không thể chấp nhận được; và như thế, tạo lý do chính đáng để phát động chiến dịch mùa khô 1947 sắp tới nhằm cắt đứt trục tiếp vận của Việt Minh từ Hoa Nam, tiêu diệt lực lượng võ trang Việt Minh, và bắt sống Hồ cùng những cán bộ lãnh đạo.(72)

Diễn văn của Bollaert cũng mở cửa cho Bảo Ðại. Mặc dù chẳng trọng vọng gì cựu hoàng, Pháp miễn cưỡng chấp nhận cho Bảo Ðại về nước cầm đầu một chính phủ thống nhất chống Cộng. Bollaert hy vọng rằng việc đả bại Việt Minh sẽ khiến Bảo Ðại bớt cứng rắn trong những điều kiện hợp tác.( 73) Ngày 18/9–tức 4 ngày sau cuộc biểu tình rầm rộ ở Sài Gòn mời Bảo Ðại về nước–Bảo Ðại ra tuyên cáo chấp nhận sự ủy thác của quốc dân và sẵn sàng thương thuyết. Ngày 20/9, cựu hoàng nói sẵn sàng gặp đại diện Pháp ở Hong Kong hay Ðông Dương. Theo Giám đốc Mật Thám Ðông Dương, Perrier, nói với Lãnh sự Mỹ tại Sài Gòn ngày 22/9, Bảo Ðại đã đồng ý thương thuyết, nhưng tạm trì hoãn để khỏi mang tiếng do Pháp dựng lên. Pháp chẳng kỳ vọng gì ở Bảo Ðại, chỉ mong Bảo Ðại sẽ có một số người ủng hộ. Sợ rằng Bảo Ðại khó lôi kéo số lớn người quốc gia trong hàng ngũ Hồ. Vậy mà Bảo Ðại đòi hỏi độc lập rộng rãi hơn những gì Bollaert đã hứa.(74)

Ngày 29/9/1947, Hoạch từ chức. Hai ngày sau, 1/10, Xuân–mới từ Pháp về ngày 15/9–được Hội Ðồng Tư Vấn Nam kỳ ủy thác lập chính phủ lâm thời. Một tuần sau, Xuân công bố danh sách chính phủ Lâm thời Nam Phần.(75) Ðây là bước chủ yếu để trao quyền thống nhất lãnh thổ cho Bảo Ðại.


C. CHIẾN DỊCH MÙA THU 1947 (LÉA-CEINTURE):


Ngày 7/10, Pháp mở chiến dịch “Léa” (10-11/1947) tấn công Việt Bắc. Léa là tên một ngọn đèo cao 1,362 mét trên đường số 3, giữa Nguyên Bình (Cao Bằng) và Bắc Kạn. Lực lượng mũi nhọn gồm các toán biệt kích Dù được thả xuống ngay tỉnh lỵ Bắc Kạn và thị trấn Chợ Mới, nhằm chộp bắt cơ quan đầu não của chính phủ Hồ. Tuy nhiên, Hồ đã sớm di tản đến một khu vực khác. Trường Chính Ðặng Xuân Khu đang chủ tọa một buổi họp tại Bắc Kạn kịp thời trốn xuống hầm trú ẩn. Chỉ có Nguyễn Văn Tố, Bộ trưởng không bộ nào, bị bắt sống và tình nghi là chính Hồ. Ngoài ra, còn có phụ tá của Lê Văn Hiến, Bộ trưởng Tài chính, cùng một số nhân viên thứ hạng khác.

Ngày 7/10, Pháp cũng chiếm Tong và Sơn La. Nhưng hai mũi chủ lực Pháp gồm một cánh thiết giáp có Bộ binh tùng thiết di chuyển từ Lạng Sơn lên Cao Bằng trên đường số 4, dưới quyền Trung tá Beaufré; và một đoàn giang hạm, mang theo hai tiểu đoàn Bộ binh, do Communal chỉ huy, từ Hà Nội ngược sông Hồng lên sông Lô, rồi sông Gầm. Hai cánh quân này sẽ như hai gọng kìm vây chặt an toàn khu Việt Minh, phá hủy đài phát thanh, các kho tàng, tiêu diệt chủ lực, và yểm trợ việc thiết lập các tiền đồn dài theo biên giới để cắt đứt đường tiếp vận của Trung Hoa. Ðiểm hẹn là Ðài Thị, đông bắc Chiêm Hoá 12 cây số.

Vì mực nước sông Hồng lên cao, hai ngày sau, cánh quân hỗn hợp thủy-bộ của Ðại tá Commumal mới từ Hà Nội ngược sông Hồng lên sông Lô, hướng về Tuyên Quang.

Trong khi đó Nhảy Dù tiếp tục truy kích hàng ngũ lãnh đạo Việt Minh. Ngày 9/10, Tướng Salan thả thêm 300 Nhảy Dù ở phía Ðông Nam Cao Bằng, tăng cường cho lực lượng cơ giới của Beaufré. Một chiếc Junker 52 bị bắn hạ. Ðại tá Lambert, Tham Mưu Phó của Salan, cùng 10 sĩ quan tùy tùng bị tử nạn. Việt Minh tịch thu được toàn vẹn kế hoạch hành quân Lea, và 4 ngày sau chuyển về Bộ Tổng Tư lệnh của Võ Nguyên Giáp.

Ngày 13/10, Nhảy Dù Pháp chiếm Bắc Kạn, Cao Bằng; 20/10, chiếm Yên Báy; 21/10, chiếm Chapa; và 30/10, chiếm Lào Kay.

Ngày 20/11/1947, Salan mở thêm chiến dịch Ceinture [Vòng Ðai hay Thắt Lưng]. Ðây là giai đoạn II của chiến dịch Việt Bắc. Chiến dịch này nhằm lùng bắt cho bằng được cơ quan đầu não của Việt Minh (tại khu vực núi đá Ðình Cả) và phá nát căn cứ địa trong khu vực tứ giác Tuyên Quang-Thái Nguyên-Việt Trì-Phủ Lạng Thương. 9 tiểu đoàn từ Hải Dương tiến lên tảo thanh phía Ðông, Ðông Bắc và chính Bắc Hà Nội. Ðồng thời lập thế cản để đón đường các đơn vị từ phía rút Bắc về.

Ngày 19/12/1947, Chiến dịch mùa Thu chấm dứt. Mặc dù có những thắng lợi đáng kể, Salan không đạt được mục tiêu chiến lược. 60,000 quân Pháp cùng giang hạm, không quân và thiết giáp chỉ có thể tịch thu và phá hủy một số kho tàng của Việt Minh cùng ba trạm phát tuyến. Mục tiêu chính, tức toàn bộ chính phủ Hồ, đều chạy thoát. Ðài phát thanh Việt Minh tiếp tục hoạt động. Trong khi đó, những đợt phản công của Việt Minh gây tổn thất đáng kể cho lực lượng Nhảy Dù Pháp.( 76)

Ðáng sợ hơn nữa, từ ngày 12/10, Hồ ra lệnh “tiêu thổ kháng chiến.” Làng mạc bị thiêu hủy. Ðường xá, cầu cống bị phá hoại. Nền kinh tế quốc gia ngày một phá sản. Qua đầu năm 1948, tuyến giao thông từ Lào Kay [Cai] tới Cao Bằng của Việt Minh trở lại tình trạng tự do như cũ.( 77) Tại miền Nam, việc điều quân Pháp ra Bắc tạo cơ hội cho Việt Minh tăng gia hoạt động. Mặc dù Việt Minh không tạo được chiến thắng lớn nào, những vụ phá hoại đồn bót, cầu cống, ám sát, thủ tiêu diễn ra khắp nơi. Hai vụ ám sát gây tiếng vang nhất là cái chết ngày 10/10/1947 của Nguyễn Văn Sâm (1898-1947) tại Sài Gòn và Trương Ðình Tri ở Hà Nội.(78)

 

D. THỎA ƯỚC HẠ LONG 6-7/12/1947:


Như mũi tên đã rời khỏi giây cung, thí nghiệm Bảo Ðại tiếp tục chu trình tiến hoá. Báo chí Paris nhập cuộc. Ngày 18/11/1947, Le Monde đăng bài của André Blanchet, đề nghị trả độc lập cho một nước Việt Nam độc lập dưới quyền lãnh đạo của Bảo Ðại. Các đoàn thể, tổ chức chống Cộng người Việt chuẩn bị đón Bảo Ðại về nước. Quan trọng hơn, Bollaert quyết định gặp Bảo Ðại để thương thuyết. Ngày 6-7/12/1947, hai bên gặp nhau ở Hạ Long. Bollaert ký với Bảo Ðại một tạm ước [protocol], theo đó, Bảo Ðại sẽ trở lại Ðông Dương thành lập chính phủ thống nhất ba miền. Việt Nam sẽ được trao trả độc lập trong khối Liên Hiệp Pháp. Về ngoại giao, Pháp sẽ chịu trách nhiệm, nhưng sẽ đưa viên chức Việt vào ngạch ngoại giao. Về quốc phòng, Việt Nam có quân đội riêng, nhưng quân đội này phải hứa sẽ tham chiến trong khối LHP. Quan trọng nhất là mật ước Pháp sẽ ngưng thương thuyết với Hồ.(79)

Ngày 12/12, Bollaert về Pháp báo cáo. Ba ngày sau, 15/12, Paris tuyên bố sẽ cho Bollaert “toàn quyền hành động và thương thuyết cần thiết để tái lập hoà bình và tự do tại Việt Nam.” Bản tuyên cáo này nhấn mạnh rằng vì Hồ đã bác bỏ đề nghị của Bollaert trong diễn văn ngày 10/9 tại Hà Ðông, Pháp đã ngưng mọi nỗ lực thương thuyết với Việt Minh. Bốn ngày sau nữa, 19/12, Tướng Xuân qua Hong Kong yết kiến Bảo Ðại. Ngày 23/12, chính phủ Pháp lại ra tuyên cáo là thể theo lời yêu cầu của Paul Coste-Floret, Bộ trưởng Pháp quốc Hải ngoại, Bollaert được phép xúc tiến việc thương thuyết với tất cả các phe phái ở Việt Nam.

Trong khi đó, chính phủ Truman bắt đầu lo ngại về sự sụp đổ của chế độ Tưởng Giới Thạch ở Trung Hoa lục địa. Tướng Marshall được gửi qua Trung Hoa, hy vọng tìm một giải pháp chính trị. Tuy nhiên, Mao Trạch Ðông và Ðảng Cộng Sản Trung Quốc đã quyết định ngả theo Nga, công kích mãnh liệt chính sách Mỹ. Bầu không khí chiến tranh lạnh khiến Mỹ chú tâm hơn đến Ðông Dương, trực tiếp ủng hộ cuộc tái xâm lăng Việt Nam của Pháp.

Ngày 29/12/1947, báo Life đăng bài “The Saddest War” [Cuộc chiến buồn thảm nhất] của William C. Bullitt, cựu Ðại sứ Mỹ tại Pháp và Liên Sô, cổ võ việc trao trả độc lập cho Việt Nam theo kiểu Philippines; giao phó cho người Việt quốc gia chân chính [true nationalists] trách nhiệm lôi cuốn những phần tử quốc gia trong hàng ngũ Việt Minh và tập sự cai quản đất nước. Mặc dù không nhắc đến Bảo Ðại, và cũng chỉ đăng hình Bollaert cùng Hồ, “phần tử quốc gia” mà Bullit nhắc đến được diễn giải như Bảo Ðại. Thực ra, Bullitt chỉ đề nghị duy trì một chế độ chống Cộng thân hữu ở Ðông Dương.(80)

Từ ngày 7/1/1948, Bollaert và Bảo Ðại lại gặp nhau tại Geneva để thương thuyết về điều kiện hợp tác. Nhưng hai bên không đạt được kết quả nào. Một mặt, vì mặc cảm trước sự công kích, chửi rủa tục tằn của hệ thống tuyên truyền Việt Minh Cộng Sản, Bảo Ðại nói không thỏa mãn với những điều thỏa thuận tại Hạ Long, và đòi nhiều nhượng bộ hơn. Mặt khác, Bảo Ðại không tin tưởng Bollaert, và lo ngại mình đang trở thành con cờ của Pháp trong việc hoà đàm với Việt Minh. Bởi thế, thương thuyết tạm ngưng sau ngày 12/1.

Ðể trấn an Bảo Ðại, ngày 29/1/1948 Pháp bắt giam Blokov Trần Ngọc Ranh, trưởng phái đoàn VM ở Paris. Hôm sau, 30/1, Bollaert tuyên bố là Pháp nhất định không thương thuyết với Việt Minh nữa. Nhờ vậy, hai bên lại bắt đầu nói chuyện ngay tại Paris từ 5 tới 10/2. Nhưng Bảo Ðại vẫn còn do dự chưa muốn về nước. Sau khi ghé ngang Cannes, Bảo Ðại qua Geneva, và tuyên bố sẽ về lại Hong Kong vào tháng 3/1948, đồng thời hủy bỏ cuộc họp dự trù ngày 13/2/1948 (tức mồng 4 Tết Mậu Tý).( 81)

 

E. “KHO VŨ KHÍ CỦA THẾ GIỚI TỰ DO”:


Từ năm 1947, Ngô Ðình Diệm đã liên lạc với viên chức Mỹ, xin viện trợ. Ðây chẳng phải là sáng kiến mới mẻ gì của họ Ngô. Hầu hết chính khách Việt đều nhận rõ vị thế siêu cường của Mỹ, nhưng không có đường giây móc nối như anh em họ Ngô. Ngay chính Hồ cũng đã hoạt động cho Sở tình báo chiến lược [OSS] Mỹ trong hai năm 1944-1945, và lực lượng võ trang đầu tiên của Việt Minh được OSS Mỹ trang bị và huấn luyện. Hồ còn được đặt cho bí danh Lucius. Ðiều khiến Mỹ e ngại, và cuối cùng theo đuổi chính sách “hands-off” [không nhúng tay] khi Pháp tái xâm lăng Việt Nam là thành tích hoạt động cho QTCS của Hồ. Việc Hồ quyết định giải tán Ðảng CSÐD từ ngày 11/11/1945 vẫn chưa đủ thuyết phục các viên chức Mỹ–những người vẫn chủ trương chỉ có Âu Châu mới đáng chú tâm hàng đầu.(82) Dẫu vậy, trong hai năm 1945-1946, chính phủ Truman vẫn dành cho Hồ và Việt Minh đôi chút thiện cảm. Có lẽ nhờ sự can thiệp của Mỹ, Moutet đã đồng ý ký modus vivendi ngày 14/9/1946 cho Hồ an toàn trở lại Việt Nam vào hạ tuần tháng 10/1946. Hơn một tháng sau, dù biết rõ liên hệầ giữa Hồ với QTCS, Bộ Ngoại Giao Mỹ vẫn chỉ thị cho đặc sứ Moffat tìm cách gặp Hồ để giải quyết sự khác biệt Việt-Pháp bằng đường lối ngoại giao.(83)

Sau khi Bollaert ký thông cáo chung Hạ Long (6-7/12/1947) với Bảo Ðại, ngày 21/12, Diệm cùng Trần Văn Lý lên Hong Kong gặp cựu hoàng. Trước khi qua Geneva ngày 24/12, Bảo Ðại ủy Diệm về nước tham khảo ý kiến các phe phái để thành lập chính phủ thống nhất. Diệm từ chối vì những nhượng bộ của Pháp quá ít. Ngày 26/12, Diệm trở lại Sài Gòn chờ đợi tình thế chuyển biến.

Ðiều ít ai biết là phía sau hậu trường, ngày 24/12/1947, Diệm bí mật gặp George D. Hopper, Tổng lãnh sự Mỹ tại Hong Kong, trình bày về nội tình VN và giải pháp Bảo Ðại. Mục đích chính của “Giệm,” theo Hopper, là xin viện trợ Mỹ. Hopper chỉ ghi nhận mà không hứa hẹn gì.(84)

Tại Việt Nam, đa số các chính khách chống Cộng đã tạm thời thỏa mãn. Ngày 25/12, mặc dù không ưa Xuân, Hoạch thành lập Việt Nam Quốc Gia Liên Hiệp [Rassemblement National Vietnamien] để ủng hộ Bảo Ðại.(85)

Riêng Diệm, qua đường giây Giám mục Thục, tổ chức một nhóm chống Cộng thân Mỹ. Tại miền Bắc, Diệm có những thân hữu cũ như Trần Trung Dung, Nguyễn Xuân Chữ, Nguyễn Ðình Thuần, v.. v... Tại miền Trung, Trần Văn Lý thành lập Ðảng Xã Hội Công Giáo. Tại miền Nam, Diệm được Nguyễn Phước Hậu, Bertin, Nguyễn Bửu, Trần Tử Hoàng, v.. v... yểm trợ.(86) Tuy nhiên, vai trò Diệm bị lu mờ trước những khuôn mặt được Pháp chọn lựa. Một trong những lý do là thành tích hợp tác với Nhật của Diệm.

Chuyến viếng thăm Sài Gòn ngày 25/5/1948 của Hồng y Francis Spellman mở thêm liên hệ với Mỹ cho anh em Diệm. TGM Sài Gòn, Cassaigne, mời Thục tham dự buổi tiếp đón Spellman.(87) Trong tháng 6/1948, Trần Văn Lý chính thức thành lập Ðảng Xã Hội Công Giáo, do Thục bảo trợ. Diệm được coi như lãnh tụ tối cao của đảng này. Trần Trung Dung làm đại diện miền Bắc đảng Xã Hội Công Giáo; và Giám mục Từ quí mến nếu không phải chịu ảnh hưởng Diệm.(88) Tại Ðà Lạt, Nhu cùng nhóm Linh mục Parrell tụ họp hạt nhân đầu tiên của chủ thuyết “Nhân vị.” Thuyết này dựa theo thuyết Personalisme [Nhân vị] của Emmanuel Mounier, đặt trên cơ bản thần quyền Ki-tô giáo.

Cuối tháng 6/1950, trước ngày Diệm và Thục đi Mỹ, tổ chức Phong Trào Quốc Gia Quá Khích, có liên hệ với Diệm, ra đời ở Trung và Nam phần.

 

F. CHÍNH PHỦ LÂM THỜI & THỎA ƯỚC HẠ LONG II (5/6/1948):


Trong khi đó, tại nội địa, các chuẩn bị cho Bảo Ðại hồi hương vẫn tiếp tục. Ngày 27/1/1948, Cao Ðài và Hoà Hảo ký hiệp ước tương trợ. Ngày 8/2, Việt Nam Quốc Gia Liên Hiệp họp ở Huế.

Sau khi chính phủ Ramadier khẳng định vẫn tin cậy Bollaert trong việc thương thuyết với Bảo Ðại, cuối tháng 2/1948, Diệm lại qua Hong Kong. Ngày 14/3, Bảo Ðại về tới Hong Kong. Sau đó, tiếp kiến Chủ tịch các Hội Ðồng An Dân Hà Nội và Hội Ðồng Chấp Chánh Huế. Tướng Xuân và Lê Văn Hoạch cùng những người khác yêu cầu Bảo Ðại xúc tiến nhanh hơn việc thương thảo. Xuân cũng đồng ý thống nhất ba miền. Ðại diện Hoà Hảo-Dân Xã là Trần Văn Soái, Lê Văn Kính (tức Lương Văn Tường, Lương Trọng Tường hay Kinh Lý Tường), Phan Khắc Sửu và Nguyễn Hữu Ðạt (?) qua Hong Kong gặp Bảo Ðại từ ngày 19 tới 26/3/1948. Bởi thế, Bảo Ðại sai Diệm về Sài Gòn báo cho Bollaert biết là “Nguyện vọng của dân Việt vượt quá những điều ký kết ở Hạ Long.”( 89)

Mặt khác, ngày 26/3, Bảo Ðại viết thư cho đại diện những đoàn thể chính trị và tôn giáo, khẳng định chấp thuận việc thành lập chính phủ lâm thời trung ương để thương thuyết với Pháp. Cuối tháng 4/1948, Xuân qua Hồng Kông gặp Bảo Ðại; được chấp thuận cho lập chính phủ trung ương lâm thời. Ðầu tháng 5/1948, Paris phê chuẩn việc Xuân làm Thủ tướng, và sẽ trực tiếp ký Hiệp ước với Bollaert, với sự “chứng kiến” của Bảo Ðại.(90) Ngày 15/5, Bảo Ðại gửi thông điệp cử Xuân thành lập Chính phủ trung ương lâm thời.(91) Năm ngày sau, 20/5, một nhóm 37 người, có cả Phạm Công Tắc, họp Ðại hội tại Sài Gòn, ký quyết nghị “Vâng thánh ý” lập Chính phủ Trung ương lâm thời Việt Nam. Tại Ðại hội này, các đại diện ra tuyên cáo: Việt Nam là một nước đồng minh mà không phải “liên hiệp” [associés]; VN có quyền gửi các lãnh sự ngoại giao; VN có những nhân viên ngoại giao ở hải ngoại; VN có thể được các nước ngoài nhìn nhận, mà như thế được tình trạng “dominion” như của Bri-tên.(92)

 

Ngày 21/5/1948, chính phủ Trung ương Lâm Thời thành hình. Hai ngày sau, 23/5, Nguyễn Văn Xuân ký Sắc lệnh số 1, thành lập “Chính phủ Trung ương lâm thời Việt Nam,” do Xuân “chủ tọa.”(93) Ngày này, Bollaert và Xuân trao đổi văn thư về việc thành lập chính phủ trên. Bốn ngày sau, 27/5, Xuân trình diện chính phủ lên Bảo Ðại ở Hong Kong.(94) Ngày này, Robert Schumann “ghi nhận” sự thành lập chính phủ Xuân. Ngày 1/6/1948, Xuân công bố danh sách chính phủ. (95)

Ngày 3/6, khi Xuân ra trước Hội đồng Tư Vấn Nam Kỳ, yêu cầu được yểm trợ trước khi đi Hạ Long, Ðảng Quốc Gia Ðộc Lập, mới thành lập, công kích Xuân là bán đứng Nam Kỳ. Dẫu vậy, ngày 5/6/1948, Bollaert và Xuân cùng các đại diện chính quyền ở ba miền (Nghiêm Xuân Thiện, Ðặng Hữu Chí [Bắc], Phan Văn Giáo, Nguyễn Khoa Toàn, Ðinh Xuân Quảng [Trung], và Trần Văn Hữu, Lê Văn Hoạch [Nam]) gặp nhau trên chiến hạm Duguay-Trouin, “dưới sự chứng kiến” của “đế “ Bảo Ðại. Sau đó ra Tuyên ngôn chung (Déclaration Commune) ba [3] điểm; theo đó, điều 1 xác định: “Nước Pháp long trọng nhìn nhận sự độc lập của nước Việt Nam. Từ rày về sau, việc tự do thực hiện nền thống nhất quốc gia tùy nơi nước Việt Nam. Về phần mình, nước Việt Nam tuyên bố chịu gia nhập vào Liên Hiệp Pháp với danh nghĩa một quốc gia đồng hội với nước Pháp.”(96)

Ngoài Tuyên Ngôn Chung nói trên, còn có một phụ bản mật, với nội dung tương tự như mật ước ngày 7/12/1947. Bảo Ðại, Nguyễn Văn Xuân và Bollaert cũng ra ba tuyên cáo riêng lập lại những điều căn bản trên.(97) Ngay sau đó, Bảo Ðại rời Hong Kong qua Paris.

Ít nữa thì “Hiệp ước” Hạ Long cũng mang lại vài tin vui. Ðiều khiến Pháp hài lòng nhất là ngày 17/6/1948, Bảy Viễn bỏ Việt Minh mang quân Bình Xuyên về hợp tác với Bảo Ðại. Ngày Chủ Nhật, 1/8/1948, Xuân bổ nhiệm Bảy Viễn làm Ðại tá tạm thời, tùng sự dưới quyền Trần Văn Hữu.(98)

Ðể làm vui lòng giáo phái Hòa Hảo, Xuân cử Lê Công Bộ làm Thứ trưởng Nội vụ, và ngày 26/6/1948, phong Trần Văn Soái lên Thiếu tướng thực thụ.

 

G. HIỆP ƯỚC ELYSEE (8/3/1949):


Mặc dù đã ký Tuyên Ngôn Chung Hạ Long II, dư luận Pháp vẫn chưa muốn trao trả độc lập và thống nhất cho Việt Nam. Bollaert rất bất mãn, tuyên bố chỉ trở lại Việt Nam nếu Quốc Hội Pháp công nhận thỏa ước này. Ngoại trưởng Marshall nỗ lực can thiệp, nhưng cả hai chính phủ Robert Schumann và André Marie đều ngần ngại.( 99)

Trong khi đó, Bảo Ðại không chứng tỏ dấu hiệu nào sẽ về nước ngay. Có nhiều nguyên do. Trước hết là phản ứng dữ dội của phe Việt Minh Cộng Sản. Ngày 27/4/1949, khi nước đã cạn, ngọn lửa “thánh chiến chống Cộng” ngày càng bốc mạnh, và Mao đã chiếm Bắc Kinh, Hồ lên án tử hình Bảo Ðại, rồi công khai chống “đế quốc đầu xỏ Mỹ.” Ðồng thời xiết chặt quan hệ với Ðảng CSTH–qua những cuộc hành quân hỗn hợp tiêu diệt và ngăn chặn tàn binh Tưởng tràn vào Bắc Việt, hay đánh phá Thập Vạn Ðại Sơn, nằm sát biên giới Quảng Tây-Cao Bằng. Ngày 7/6, Hồ gay gắt phản đối việc “bọn bù nhìn” [fantoche] ký kết hòa ước với bất cứ nước ngoài nào. Cơ quan tuyên truyền Việt Minh phát động chiến dịch bôi nhọ từ Bảo Ðại tới những người khác trong chính phủ Xuân. Việt Minh cũng gia tăng hành động khủng bố –kể cả chôn sống–để ngăn chặn phong trào về tề.( 100) Xuân và các cộng sự viên cũng bị lên án tử hình.

Mặt khác, Bảo Ðại vẫn nhấn mạnh đòi hỏi thống nhất lãnh thổ và độc lập thực sự.( 101)

Quan trọng hơn cả là sự chống đối của thành phần bảo thủ Pháp. Theo một viên chức Mỹ, Phụ tá Tây Âu Vụ Bộ Ngoại Giao Mỹ, Wallner, chính phủ Schumann đang chuẩn bị ra điều trần về ngân sách quân sự và quĩ yểm trợ kinh tế trước khi QH tái nhóm ngày 15/7, nên có lẽ chẳng dám ném ra thỏi thuốc nổ Ðông Dương. Trong khi đó tại QH các đảng Cộng Sản, Gaullist và PRL chắc chắn sẽ chống đối. Số dân biểu Xã Hội chống lại có lẽ không nhiều, mặc dù nghị quyết về vấn đề thương thuyết với HCM đã thông qua. Có lẽ Schumann sẽ không đưa vấn đề ra trước Quốc Hội, nhưng Bollaert thì nhất quyết đòi Quốc Hội thảo luận, hoặc sẽ từ chức. Wallner đề nghị Marshall nên cảnh giác Schumann là Pháp đang đối diện hai con đường: chấp nhận ngay nguyên tắc Việt Nam độc lập trong khối Liên Hiệp Pháp và thống nhất ba kỳ; hoặc, sẽ mất cả Ðông Dương.( 102)

Thêm vào đó, ngày 28/8/1948 chính phủ André Marie (26/7-28/8/1948) bị đổ. Ngày 11/9, Henri Queuille được cử lập chính phủ mới, với Schumann làm Ngoại trưởng, Ramadier nắm Quốc Phòng. Tháng 10/1948, Bollaert về nước. Ngày 20/10, Queuille cử Léon Pignon làm Cao Ủy Ðông Dương.( 103) Pignon vội xúc tiến ngay việc thương thuyết với Bảo Ðại, vì lúc này áp lực của Liên Bang Mỹ ngày một mạnh.( 104)

Những chiến thắng liên tiếp của Mao Trạch Ðông tại lục địa khiến Pháp hối hả hơn trong việc thực hành thí nghiệm Bảo Ðại. Ngày 22/1/1949, Tưởng Giới Thạch từ chức, rồi bay ra Ðài Loan. (Lý Tôn Nhân lên thay). Ðang điều đình với Bảo Ðại, Chủ Nhật, 24/1/1949, Cao ủy Pignon phải hối hả bay về Ðông Dương đối ứng tình thế mới. Ðầu tháng 2/1949, Ðảng CSTQ chiếm Bắc Kinh.

Biến cố này khiến thương thuyết Pháp-Bảo Ðại vượt nhanh qua những trở ngại kỹ thuật. Buổi tối ngày Thứ Tư, 17/2/1949, Bửu Lộc, Chánh văn phòng của Bảo Ðại, từ Cannes về Paris, cho Ðại sứ Mỹ Caffery biết rằng Bảo Ðại sẽ được Tổng thống Pháp Vincent Auriol mời lên Paris ký Hiệp ước vào tuần sau, và trở về Việt Nam bằng tàu chiến vào đầu tháng 4/1949.( 105) Ngày 25/2, báo chí Paris công bố nội dung thỏa ước Pháp-Bảo Ðại. Rồi, ngày 8/3/1949 Auriol trao đổi công hàm với Bảo Ðại, theo đó “Pháp long trọng công nhận” một nước Việt Nam độc lập và dân chúng có quyền tự do quyết định sự thống nhất lãnh thổ của mình, theo tinh thần Hiệp ước Hạ Long, kèm theo một phụ bản các điều thỏa thuận với Pignon.( 106)

Phía sau hậu trường, Bộ trưởng Hải ngoại Coste-Floret vận động Quốc Hội Pháp biểu quyết cấp thời một sắc luật thành lập một Hội đồng Lãnh thổ Nam kỳ (Assemblée Territoriale de Cochinchine, HÐLTNK), gồm 12 đại diện Pháp và 24 đại diện Việt, để quyết định số phận Nam Kỳ. Viên chức Pháp cũng giữ kín nội dung “Hiệp ước Elysée” tới ngày Bảo Ðại về nước, dự trù vào 25/4/1949 để có một “kích xúc tâm lý” (choc psychologique).( 107)

Ngày Thứ Năm, 9/3, Quốc Hội Pháp bắt đầu thảo luận về Thỏa ước Elysée và vấn đề Nam Kỳ. Báo Franc-Tireur của Ðảng Xã hội Gaullist đăng thư đề ngày 17/1/1949 của Guy Mollet gửi Thủ tướng Queuille: Bác giải pháp Bảo Ðại, và kêu gọi thương thuyết với Hồ. Theo dân biểu Jean Guillon, “Giải pháp quân sự không thể thắng; Bảo Ðại chẳng có một chút uy thế nào ở Việt Nam. Việt Nam đứng sau lưng Hồ Chí Minh. Trước tiên phải thương thuyết với Hồ Chí Minh.”(108) Hôm sau, 10/3, nhiều dân biểu Cộng Sản và Gaullist tiếp tục phản đối. Dân biểu Guillon cho đó là “sự sao chép vụng về của Hiệp ước [sơ bộ] 6/3/1946, chỉ là một thứ hình thức (facade).” Việc làm của Coste-Floret, theo Guillon, “thiếp vàng lại một ông vua mất chức, được biết nhiều ở các sân golf tại Cannes hay những tay bồi rượu ở các hộp đêm hơn là trong lớp nông dân.”(109)

Guillon cũng cho rằng chính phủ Pháp đã chịu áp lực của Mỹ, đề cập đến chuyến thăm Ðông Dương của Bullit, cựu đại sứ Mỹ ở Paris, vào tháng 9/1948; rồi cảnh cáo rằng thanh niên Pháp đang bị giết để bảo vệ quyền lợi kinh tế của Mỹ. Theo Guillon: “Thực ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh không làm hài lòng ông Bullit, vì trong thời gian Nhật đầu hàng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từ chối những đề nghị do Tướng Gallagher nhân danh Washington đưa ra.” Guillon cũng dẫn lời của Cuisinier, trên báo Revue socialiste [Tạp chí Xã hội] số tháng 7/1948, nhận định về Hồ:

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã qui tụ được những người quốc gia không đảng phái cũng như một số đông những người Ki-tô giáo yêu nước. Chống lại ông ta chỉ có cựu quan lại, cựu công chức, vài trưởng giả giàu có–mà không phải tất cả họ–và những cá nhân, dưới chế độ Nhật cũng như Pháp, đã nghĩ đến sự gia tăng quyền lợi bản thân mà họ có thể rút ra từ phe này hay phe kia, dù không vì bất cứ phe nào, trước khi nghĩ đến tổ quốc hay việc bảo vệ một lập trường chính trị.” (110)

 

Guillon còn dẫn lời cựu Thủ tướng Léon Blum, trên báo Le Populaire ngày 6/8/1947:

“Thưa vâng, người ta phải thương thuyết với những đại diện thực [authentiques] và xứng đáng [qualifiés] của dân chúng Việt Nam, bất kể họ là ai, bất kể chính kiến hay cá nhân nào. Vâng, Hồ Chí Minh chưa chết, dù ai có nói gì đi nữa, ông ta còn sống, đã tiếp kiến ông Paul Mus, đã gửi cho tôi một công hàm ít ngày trước, là đại diện chính thức và xứng đáng của dân chúng Việt Nam.”(111)

 

Dẫu vậy, ngày Thứ Bảy, 11/3, Quốc Hội Pháp chấp thuận lập Hội đồng Lãnh thổ Nam Kỳ [HÐLTNK] với số phiếu 387/193. Dự thảo luật này chuyển lên Thượng viện [Conseil de la République] để biểu quyết ngày hôm sau. Ngày Chủ Nhật, 12/3, Thượng Viện Pháp, với số phiếu 185/97, chấp thuận dự luật thành lập HÐLTNK với vài sửa đổi. Sau đó, gửi trả lại Hạ Viện. Hạ Viện chấp thuận. Luật này được in trên Công báo [JOF] ngày 24/3/1949. Thủ tục này dựa theo Ðiều thứ 75 của Hiến pháp: Một phần lãnh thổ của Cộng Hoà Pháp hoặc Liên Hiệp Pháp có thể biến đổi, do Luật của Quốc Hội, sau khi đã tham khảo với Hội nghị địa phương và Hội đồng Liên Hiệp Pháp. Như thế, theo Ðiều 27 của Hiến pháp, không cần phải trưng cầu dân ý [referendum]. Thứ Ba, 14/3/1949, Pháp ban hành Luật tổ chức HÐLTNK. Hội đồng gồm 16 Pháp (12 nghiệp đoàn, thương gia; 4 tự do) và 48 Việt (8 Sài Gòn, Chợ Lớn; 40 cho các tỉnh). Ngày 23/3, ban hành Nghị định áp dụng luật ngày 14/3/1949 tại Ðông Dương. Ngày 10/4, HÐLTNK bầu xong, gồm 54 thành viên, 14 Pháp và 40 Việt. Ngày 24/4, HÐLTNK đồng ý tái nhập Nam Kỳ vào Việt Nam.(112) Ngày 24/4/1949 này, Bảo Ðại lên đường về nước. Bốn ngày sau, 28/4, Bảo Ðại từ Singapore về tới Sài Gòn, nhưng lên thẳng Ðà Lạt.( 113)

Mãi tới ngày 10/6/1949–sau khi Quốc Hội Pháp chấp thuận cho Nam Kỳ sát nhập vào Việt Nam (3/6/1949) và Tổng thống Auriol ban hành Luật công nhận Việt Nam thống nhất (4/6/1949), đồng thời báo chí Pháp công bố một thư Auriol gửi Bảo Ðại khẳng định QH Pháp đã thông qua luật sát nhập Nam Kỳ vào Việt Nam; như thế “độc lập và thống nhất của Việt Nam, trong Liên Hiệp Pháp, đã trở thành sự thực” (6/6/1949)–Bảo Ðại mới xuống Sài Gòn trao đổi văn kiện với Pignon và ra mắt quốc dân.

Trong thời gian chờ đợi, Bảo Ðại vận động xin viện trợ Mỹ. Ngày 2/6, Ðại sứ Mỹ Bruce từ Paris điện báo “Quốc trưởng” Bảo Ðại muốn được Mỹ nhìn nhận trên thực tế (de facto recognition), được viện trợ kinh tế trực tiếp, và giúp vũ khí qua trung gian Pháp (50,000-60,000 súng). Cũng muốn Mỹ gửi đến những phái đoàn thiện chí, và nâng Toà Tổng lãnh sự lên hàng Phái bộ (Legation).(114) Tuy nhiên, đa số chuyên viên Mỹ đều cho rằng Thỏa ước Elysée “quá ít, quá chậm” (too little, too late). Pháp cần rộng rãi hơn nữa trong việc diễn dịch và thi hành thỏa ước, vì giải pháp Bảo Ðại chỉ có khoảng 50-50 thành công. Giám Ðốc Tây Âu vụ, Douglas MacArthur II, khẳng định các quan điểm cho rằng Mỹ sẽ đổ viện trợ vào Ðông Dương để ngăn chặn vùng này lọt vào tay CS, hay quân viện Mỹ sẽ giúp Pháp đạt một chiến thắng quân sự, hoàn toàn sai lầm và nguy hiểm.(115)

Bởi thế, mặc dù trong thông điệp chúc mừng Bộ Ngoại Giao Pháp về Hiệp ước 8/3/1949, Bộ Ngoại Giao Mỹ nhấn mạnh “Dân tộc Việt Nam sẽ mắc phải một lầm lỗi tai hại nếu

không ủng hộ chính phủ thành lập qua Hoà ước 8/3/1949.” Ngày 2/5, Ngoại trưởng Dean Acheson chỉ thị cho Tổng lãnh sự Abbott ở Sài Gòn: “Phải cố tránh gây sự hiểu lầm là Mỹ trên thực tế nhìn nhận chế độ Bảo Ðại.”(116) Cho tới ngày 7/10/1949, sau khi Mao tuyên bố thành lập Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, chính phủ Mỹ vẫn cảm thấy chưa tiện công nhận chính phủ Bảo Ðại.

Sự trì hoãn của Mỹ phản ảnh sự khác biệt sâu đậm giữa Pháp và Mỹ. Ðông Dương, với Pháp, là quyền lợi chính trị, kinh tế và văn hóa. Với Mỹ, chiến lược chống Cộng là bản căn. Buổi nói chuyện ngày 13/4/1949 giữa W. Walton Butterworth, Giám đốc Viễn Ðông vụ, và Charles S. Reed, Ðông Nam Á vụ, với Jean Daridan, Cố vấn Toà Ðại sứ Pháp, phần nào phản ảnh tâm ý các viên chức Mỹ. Khi Daridan đặt câu hỏi liệu Mỹ có yểm trợ Bảo Ðại hay chăng nếu sau một thời gian kế hoạch Bảo Ðại chứng tỏ có tiến bộ, Butterworth khẳng định chỉ muốn giúp những người chống Cộng.(117)

Ngày 10/5, Acheson chỉ thị cho Tổng Lãnh sự Abbott: Mỹ muốn thí nghiệm Bảo Ðại thành công vì chẳng có một lựa chọn nào khác hơn. Ðang chờ cơ hội thuận tiện để công nhận Quốc Gia Việt Nam, cũng như cho viện trợ vũ khí và kinh tế. Tuy nhiên, muốn Pháp có những nhượng bộ cần thiết trước khi chiến thắng của Mao Trạch Ðông tạo ảnh hưởng tại Ðông Dương. Với những người quốc gia, nếu Pháp nhân nhượng những điều cần thiết, có thể thuyết phục họ rằng: 1/ mục đích yêu nước của họ có thể thực hiện được qua sự thoả thuận Pháp-Bảo Ðại; 2/ chính phủ Bảo Ðại đại diện đích thực cho Việt Nam vì có thể bao gồm cả những phần tử không Cộng Sản hiện đang ủng hộ chính phủ Hồ Chí Minh; 3/ Bảo Ðại là giải pháp duy nhất bảo vệ Việt Nam trước những âm mưu xâm lấn (khuynh đảo) của Trung Cộng. Cũng cần cảnh cáo Bảo Ðại về sự nguy hiểm nếu mời Cộng Sản tham gia chính phủ. Mối quan tâm của Mỹ là liệu chính phủ Bảo Ðại có thể tồn tại được hay chăng. Abbott không nên đi Ðà Lạt tiếp xúc Bảo Ðại, nhưng có thể tiếp xúc không chính thức với những người thân cận của Bảo Ðại.( 118)

Ngày 20/5/1949, Acheson còn chỉ thị Lãnh sự Hà Nội William Gibson giải thích thêm cho Xuân những điểm sau: Nhìn vào quá khứ của Hồ, không thể có kết luận nào hơn rằng Hồ là Cộng Sản, nếu (1) Hồ không tuyên bố cắt đứt liên hệ với Liên Sô và chủ thuyết Cộng Sản, và (2) tiếp tục được báo chí Cộng Sản ca ngợi cũng như ủng hộ. Hơn nữa, Mỹ không thấy khía cạnh quốc gia của Hồ qua lá cờ đỏ sao vàng. Vấn đề Hồ vừa là Cộng Sản, vừa là quốc gia không đáng lưu tâm (irrelevant). Tất cả những cán bộ Stalin ở các nước [cựu] thuộc địa đều là người quốc gia. Sau khi đã đạt được mục đích quốc gia (tức độc lập), mục tiêu kế tiếp sẽ là biến quốc gia thành phụ thuộc cho mục đích Cộng Sản, và tận diệt không những chỉ người chống đối, mà cả các phần tử bị nghi ngờ là không đúng đường lối.... Nếu mời Hồ và CS gia nhập chính phủ Bảo Ðại, chỉ đình hoãn việc Việt Nam trở thành độc lập, hay một vệ tinh của Cộng Sản cho tới lúc thời cơ của những người quốc gia bị kém sút. Dĩ nhiên, trên lý thuyết, có thể thiết lập một chế độ Cộng Sản quốc gia như Yugoslavia [của Tito] tại bất cứ vùng nào ở xa vòng kiềm toả của Hồng quân Liên Sô. Nhưng Việt Nam đang trong vòng kiềm tỏa của Hồng quân Trung Hoa. Nếu Pháp đồng ý thực hiện Thỏa ước Elysée một cách cấp tiến, việc quan trọng nhất của Bảo Ðại và Xuân là phải lôi kéo được sự ủng hộ của dân chúng. Như trong trường hợp Trung Hoa, nước Mỹ không “bỏ rơi” (wrote it off) chính phủ Thạch, mà chính những người quốc gia Trung Hoa yếu kém quá mức và không có ý chí tranh đấu.( 119)

Chẳng hiểu có sự tiến cử của Reed hay chăng–lúc này Reed đã về Ban Viễn Ðông vụ ở BNG Mỹ–dịp này đích thân Bộ trưởng Hải Ngoại Coste-Floret cố thuyết phục Diệm lập chính phủ, nhưng không thành công. Diệm nêu lý do sợ giáo dân Ki-tô bị VM thảm sát.(120)

Ngày 1/7/1949, Bảo Ðại ký sắc lệnh số 1-CP công bố danh sách chính phủ.(121) Ngày 12/7, Bảo Ðại về Huế. Ngày 14/7, từ Huế, Bảo Ðại hiệu triệu quốc dân. Hai ngày sau, 16/7, ra Hà Nội.

Ngày, 15/7/1949, Giáo hoàng Pius XII (1939-1958) ra lệnh “rút thông công” bất cứ ai có liên hệ với Cộng Sản. Thánh lệnh này phần nào giải tỏa mối lo ngại của Diệm, nhưng Diệm vẫn chưa chịu hợp tác với Bảo Ðại. Trong khi đó, các cộng đồng Ki-tô ngày một nghiêng về phía Thế giới Tự Do, thắp hồng “cuộc thánh chiến” chống Cộng Sản.

Ngày 21/9, Diệm về Huế, sống ở nhà Ngô Ðình Cẩn (1911-1964), em trai áp út. Ngày 22/11–trong khi Hồng quân Trung Cộng đang tiến sát dần tới biên giới Việt-Hoa–Diệm rời Huế vào Sài Gòn, rồi Vĩnh Long, và Ðà Lạt (2/1950).

Tháng 3/1950, Giám mục Từ tại Phát Diệm sai Lê Quang Luật vào Nam yêu cầu Diệm đừng “chùm chăn” và “ngang bướng” nữa, cần yểm trợ Bảo Ðại.(122) Ngày 9/4/1950, Tổng lãnh sự Mỹ Edmund Gullion, XLTV Ðại sứ, báo cáo chính phủ Nguyễn Phan Long sắp đổ và Trần Văn Hữu có thể lên thay. Gullion nghĩ rằng Pháp hẳn muốn Diệm, nhưng Bảo Ðại không đồng ý.

Giữa năm 1950, Diệm có ý định thành lập một lực lượng thứ ba, thân Mỹ, chống Pháp để lôi kéo những người bất mãn trong hàng ngũ Việt Minh. Cuối tháng 6/1950, tổ chức Phong Trào Quốc Gia Quá Khích ra đời ở Trung và Nam Việt, có liên hệ với Diệm.

 

H. HỒ NGẢ THEO CỘNG SẢN:


Từ năm 1945-1948, Hồ Chí Minh bắt đầu có liên lạc chặt chẽ với Ðảng Cộng Sản Trung Hoa [Zhonghua gongshandang]. Một trung đoàn Trung Cộng [TC] tỉnh Quảng Ðông đã được Hồ cho phép hoạt động tại vùng Việt Bắc để tránh sự tận diệt của Tưởng Giới Thạch. Từ tháng 6 tới tháng 10/1949, một số đơn vị Việt Minh cũng tham dự chiến dịch Thập Vạn Ðại Sơn ở vùng ranh giới Vân Nam/Quảng Tây của Trung Cộng. Tuy nhiên, chỉ từ đầu năm 1950, Hồ mới công khai ngả theo phe Cộng Sản. Do sự khuyến khích của Bắc Kinh, từ thượng tuần tháng 1/1950, Hồ Chí Minh đi bộ 17 ngày đêm qua tới Nam Ninh (Quảng Tây), rồi được Lưu Thiếu Kỳ đón lên Bắc Kinh. Hồ cho biết mục đích của chuyến đi là xin viện trợ. Vì cả Mao Trạch Ðông lẫn Chu Ân Lai đã qua Mat-scơ-va, ngày 3/2, Lưu Thiếu Kỳ dàn xếp cho HCM qua Nga. Tại Mat-scơ-va, HCM được gặp Stalin. Stalin hỏi Hồ về lý do giải tán Ðảng Cộng Sản Ðông Dương (chính thức từ ngày 11/11/1945), rồi chỉ thị cho Mao tiếp tay Ðảng CSÐD. Ðây là lần đầu tiên Hồ được gặp “người thép” Nga, dù đã chính thức hoạt động cho QTCS từ hơn phần tư thế kỷ trước.( 123)

 

Ðể chuẩn bị cho chuyến viếng thăm Bắc Kinh, ngày 15/1/1950, đài phát thanh Việt Minh công bố chính phủ VNDCCH của Hồ chính thức công nhận chính quyền Cộng Sản Trung Hoa, và yêu cầu các nước Cộng Sản mở quan hệ ngoại giao với chính phủ VNDCCH. Ba ngày sau, 18/1, Bắc Kinh nhìn nhận VNDCCH. Ngày 30/1 đến phiên Mat-scơ-va. Các nước Cộng Sản khác liên tục mở bang giao với chế độ Hồ.

Ngày 17/2/1950, Hồ tháp tùng phái đoàn Mao và Chu Ân Lai rời Mat-scơ-va. Sau đó, Hồ ở lại Bắc Kinh tiếp tục thảo luận về viện trợ. Lưu Thiếu Kỳ, Phó Chủ tịch Trung Cộng, đích thân điều động công tác “nghĩa vụ quốc tế” này. Hồ xin Bắc Kinh cung cấp chuyên viên quân sự để cố vấn và chỉ huy từ cấp Trung đoàn và Sư đoàn trở lên, nhưng Lưu Thiếu Kỳ chỉ đồng ý gửi cố vấn. Luo Guibo [La Quí Ba] được chọn làm Cố vấn trưởng chính trị; trong khi Wei Guoqing [Vi Quốc Thanh] cầm đầu phái đoàn cố vấn quân sự với nhân số khoảng 280 người. Trung Cộng cũng hứa giúp huấn luyện và trang bị vũ khí cho 6 đại đoàn (sư đoàn) Việt Minh. Các trung đoàn đầu tiên qua Vân Nam huấn luyện thuộc Ðại đoàn Quân Tiên Phong (308) của Vương Thừa Vũ, và 312 của Lê [Trịnh] Trọng Tấn. Ðể bảo đảm cho việc tiếp vận từ Trung Cộng, Bắc Kinh giúp Hồ mở chiến dịch biên giới “Cao-Bắc-Lạng,” hay Lê Hồng Phong II (16/9-14/10/1950), nhằm tiêu diệt lực lượng đồn trú tại Lạng Sơn và Cao Bằng. Người thực sự chỉ huy trận này là Chen Geng [Trần Canh], Tư lệnh Quân Khu Vân Nam, do Hồ xin đích danh. Tướng Marcel Carpentier rúng động, phải cho lệnh triệt thoái tất cả những vị trí trú quân dài theo biên giới, chỉ giữ lại Tiên Yên-Móng Cáy và Lai Châu.( 124)

Từ ngày này, thế trận thay đổi hoàn toàn. Việt Minh bắt đầu chủ động chiến trường. Chính phủ Hồ được giao nhiệm vụ mới: Tiền đồn của Xã hội chủ nghĩa.( 125)

Trong khối Tự Do, ngày 4/2/1950, Mỹ nhìn nhận chế độ Bảo Ðại vì “Hồ đã để lộ bản chất thật sự Cộng Sản.” Rồi đến Bri-tên và một số nước khác. Từ ngày này Pháp tìm cách lôi kéo Mỹ và Bri-tên vào trận chiến chống Cộng ở Ðông Dương. Ðại sứ Donald Heath (1950-1954) của Mỹ thận trọng thêm vào mối đe dọa của Trung Cộng hai chữ “Nga Sô.” Việc Mỹ tham chiến ở Triều Tiên từ tháng 6/1950, và nhất là cuộc triệt thoái các tiền đồn biên giới Việt-Hoa, khiến cuộc chiến tranh lạnh Mỹ-Nga bắt đầu chi phối nội tình Việt Nam. Pháp bị đặt vào vị thế cực kỳ tế nhị. Một mặt, cần thành lập quân đội bản xứ để phụ giúp cho quân viễn chinh Pháp; và ngày càng tùy thuộc nhiều hơn vào viện trợ Mỹ. Mặt khác, giới thẩm quyền Mỹ không ngừng áp lực Pháp phải trao trả dần độc lập cho Việt Nam, và áp lực Mỹ gia tăng theo viện trợ.

Winston Churchill–người cực lực chống lại kế hoạch Quốc tế quản trị [International Trusteeship] Ðông Dương của Tổng thống Franklin D. Roosevelt, và tác giả thuật ngữ “bức màn sắt” ở Âu châu–sau ngày lên nắm chức Thủ tướng Bri-tên lần thứ hai, cũng muốn dựng “bức màn tre” ở Ðông Dương. Nhưng Churchill chỉ muốn góp ý mà không tán thành việc gửi quân tác chiến qua Ðông Dương.(126)

 

VI. “LÊ GÓT NƠI QUÊ NGƯỜI”:

 

Trong bài hát “Suy Tôn Ngô Tổng Thống,” để tô hồng cho thành tích cách mạng của Diệm, nhà văn Thanh Nam viết: “Ai bao năm từng lê gót nơi quê người, cứu đất nước, v.. v...” Thực tế, cuộc hành trình ra ngoại quốc của Diệm chẳng có vẻ gì gian khổ. Trước hết, qua Mỹ, được gặp gỡ những nhân vật quyền thế; rồi qua Vatican gặp Giáo hoàng Pius XII; trở lại Mỹ, tu học ở các tu viện và diễn thuyết đó đây; và cuối cùng qua Belgium, vận động làm Thủ tướng.

 

A. QUA MỸ XIN VIỆN TRỢ:


Ngày 18/6/1950, Giám mục Thục gặp XLTV Ðại sứ Gullion tại Sài Gòn, xin giấy nhập cảnh Mỹ trên đường qua Roma dự năm Thánh cho mình và Diệm. Tháng 7/1950, có tin Diệm nhiều lần bị Việt Minh đe dọa đến tính mạng. Ngày 15/7, Diệm về Huế thăm mẹ bị đau nặng. Ngày 2/8, Diệm trở lại Sài Gòn sau khi ghé ngang Ðàợ Nẵng. Ngày 14/8, Diệm cùng Thục rời Sài Gòn trên tàu La Marseillaise. Gặp Cường Ðểẩ ở Nhật, bàn việc lập một chính phủ chống Cộng.(127)

Ngày 2/9, Diệm và Thục tới Mỹ. Hơn hai tuần sau, ngày 21/9, William S. B. Lacy, Trưởng Nha Philippines và Ðông Nam Á, tiếp Diệm và Thục. Thục tuyên bố phải lập một quân đội quốc gia, lấy giáo dân Ki-tô làm hạt nhân để không sợ đào ngũ mang súng hàng VM. Lacy nhận xét rằng Thục mới là phát ngôn chính, trong khi Diệm chỉ tán thưởng ý kiến Thục.( 128)

Ngày 15/10, Diệm và Thục rời Mỹ qua Paris. Sau đó, xuống Roma, rồi trở lại Paris vào trung tuần tháng 11/1950. Ngày 8/12/1950, Thục rời Âu Châu trở lại Việt Nam. Cuối tháng đó, qua trung gian Bửu Kĩnh, Nghị viên Hội Ðồng Liên Hiệp Pháp, Diệm gửi cho Bảo Ðại một thư riêng, đề nghị một chương trình hoạt động.( 129) Sau đó Diệm lại sang Mỹ. Ngày 15/1/1951, Diệm khai với nhân viên Bộ Ngoại Giao Mỹ là mới từ Paris qua được khoảng một tháng để nghiên cứu về giáo lý và cơ cấu chính quyền Mỹ. Nói thêm là đã cho Bảo Ðại biết sẵn sàng làm Thủ Tướng với một số điều kiện.( 130)

Trong thời gian ở Mỹ, nhờ sự che chở của Francis Spellman, Hồng Y Giám đốc Tuyên úy Ki-tô Roma trong quân đội Mỹ, Diệm tá túc tại Tu viện Maryknoll, thuộc tỉnh Lakewood, tiểu bang New Jersey. Có dịp làm quen với Thẩm phán Tối cao Pháp viện William O. Douglas, nhiều Thượng Nghị sĩ, Dân biểu như Mike Mansfield (Montana), John F. Kennedy (Massachusetts), Walter Judd, v.. v... Diễn thuyết tại nhiều nơi. Từ ngày này, Diệm trở thành một lá bài “chí sĩ quốc gia chống Cộng” trừ bị của Mỹ. Diệm cũng thường tuyên bố mình là nhân vật được biết nhiều nhất tại Việt Nam, chỉ thua có Hồ Chí Minh.(131)

Ðại sứ Heath nhiều hơn một lần tiến cử Diệm trong các cuộc khủng hoảng chính phủ, nhưng cả Bảo Ðại lẫn Pháp chỉ muốn những người đáng tin cậy như Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn Tâm, v.. v... Ngày 12/5/1952, chẳng hạn, Heath đề nghị cho Bảo Ðại nắm chức Thủ tướng, và mời những người có khả năng như Nguyễn Hữu Trí hay Ngô Ðình Diệm vào nội các, với chức vụ Phó Thủ Tướng; Pháp ra tuyên ngôn về một chính sách “tiến hoá” (evolutionary statement) đối với nền độc lập của Việt Nam; sửa đổi một số điều khoản lỗi thời trong Hiệp định 8/3/1949 và Hiệp ước Pau; đẩy mạnh hơn việc thiết lập QÐVN.(132) Khoảng một năm sau, ngày 28/4/1953, Heath nhận xét rằng Bảo Ðại thông minh và hữu dụng như biểu hiệu đoàn kết Bắc-Nam, nhưng không có khả năng cỡ Churchill và đại loại; Tâm nhiệt tình và hữu hiệu, nhưng không đủ khả năng đoàn kết toàn quốc vì tính tình và lập trường thân Pháp; chỉ còn lại hai ứng cử viên Diệm và Trí. Hiện tại, Diệm không được vì cứng cổ [intransigence], chống Pháp, không được Bảo Ðại ưa, và không ưa Bảo Ðại. Chỉ còn lại Trí xứng đáng nhất.(133)

 

B. QUA ÂU CHÂU:


Sau khi Joseph Laniel (6/1953-6/1954) đồng ý trả độc lập hoàn toàn cho Việt Nam ngày 3/7/1953,(134) họ Ngô ráo riết vận động lên cầm quyền. Tại Việt Nam, Thục và Nhu mở rộng hoạt động với các tổ chức tôn giáo và chính trị. Nhu hợp tác với Lê Văn “Bảy” Viễn, Phạm Công Tắc, v.. v... mưu toan thành lập một liên minh chính trị vào cuối năm 1953. Ðầu năm 1954, Thục, Nhu cùng nhóm Tinh Thần của Y sĩ Trần Văn Ðỗ và Liên Ðoàn Thanh Lao Công của Trần Quốc Bửu lập ra tổ chức tiền thân của Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Ðảng, tức Cần Lao.( 135)

Diệm cũng từ Mỹ sang Belgium lo tiếp xúc Bảo Ðại, mới từ Việt Nam qua Pháp chữa bệnh sán gan. Ngày 14/5, Bảo Ðại gọi Diệm qua Paris, và Diệm đồng ý hợp tác. Ba ngày sau, Bảo Ðại cử Ngô Ðình Luyện làm “đặc phái viên” tại Hội nghị Geneva để bí mật tiếp xúc với Mỹ. Ngày 24/5, khi được nhân viên Tòa Ðại sứ Mỹ ở Paris tiếp kiến, Diệm tiết lộ đã được Bảo Ðại ủy quyền về Việt Nam nghiên cứu việc thành lập một chính phủ mới. Diệm dự định rời Pháp ngày 26/5, nhưng sau đó hủy bỏ.

Sau cuộc gặp gỡ này, Mỹ chấp thuận Diệm, không vì Diệm là nhân vật lý tưởng, mà vì những người tiền nhiệm quá kém cỏi, và Diệm có hậu thuẫn của một số giáo mục Ki-tô. Tuy nhiên, Ngoại trưởng Dulles còn chủ trương khuyến khích Pháp tiếp tục hiện diện ở Ðông Dương, nên chưa thuận yểm trợ trực tiếp cho QGVN như Bảo Ðại và Diệm yêu cầu. Phần Bảo Ðại cũng được nhóm cực hữu Pháp áp lực đưa Diệm lên thay Bửu Lộc. Nhưng cái giá Diệm đòi hỏi khá cao: Toàn quyền về dân sự và quân sự. Trước ám ảnh đại họa Pháp sẽ cắt nửa nước cho Việt Minh, và tổng tuyển cử trong một thời gian ngắn để giải quyết thể chế chính trị tương lai, Bảo Ðại đành nhân nhượng–chỉ bắt Diệm phải thề trước thập tự giá là tuyệt đối trung thành, và duy trì ngôi báu nhà Nguyễn.

Cuối cùng, ngày 16/6/1954, giữa lúc chính phủ Laniel đã từ chức và Pierre Mandès-France có nhiều triển vọng lên làm Thủ tướng, Bảo Ðại bổ nhiệm Diệm làm Thủ tướng toàn quyền. Ngày 25/6/1954, Diệm cùng một đoàn tùy tùng nhỏ lên đường về nước.

 

Phụ chú: Jean Baptiste Ngô Ðình Diệm:

 

1. Department of Defense, US-Vietnam Relations, 1945-1967, 12 books, (Washington, DC: GOP, 1971), Bk 11, tr. 36-41. Xem thêm chú 4 infra.

2. Bernard B. Fall, The Two Vietnams: A Political and Military Analysis (New York: Praeger, 1965), tr. 235, 475n3.

3. Xem Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối nhà Nguyễn, 1883-1945, 3 tập (Houston: Văn Hóa, 1999-2000). [Sẽ dẫn: Các vua cuối] Xem chú 18 infra.

4. Department of State, Office of Libraries and Intelligence Acquisitions, “Biographic Report: Ngo Dinh Diem, President of the Republic of Vietnam, To Visit Washington [May 8-10, 1957],” BR No. 203 (April 18, 1957); Richard Nixon Library (Yorba Linda, CA), Prepresidential Papers, PPS 320.99.33.1-2. [Sẽ dẫn, Diem (1957)] Tình báo Mỹ ghi Diệm sinh trong một gia đình đã theo đạo Ki-tô từ thế kỷ 17 và nhiều thế hệ đã sản xuất ra những bậc tu hành và quan chức nổi danh. Cha là Thượng thư bộ Lễ và Lord Chamberlain cho vua Thành Thái, từng du học ở Malaya; Diem (1957) [Giống tài liệu của Fall [The Two Vietnams, chú 2 supra] & Robert Shaplen [The Lost Revolution (New York: Harper & Row, 1966)]

5. Direction des Services Francais de Securité en Indochine [DSFSI], “M. Jean Baptiste Ngo Dinh Diem, dit Nguyen Ba Chinh;” SHAT (Vincennes), Indochine, 10H xxx. Tài liệu này hiện vẫn chưa giải mật. Xem phóng ảnh trong Nguyên Vũ, Paris Xuân 96 (Houston: Văn Hóa, 1997), tr. 165; Chính Ðạo, Cuộc thánh chiến chống Cộng (Houston: Văn Hóa, 2004), tr. 15-6. Những chi tiết không có phụ chú trong bài này đều trích dẫn từ tài liệu trên. Xem thêm Chính Ðạo, Việt Nam Niên Biểu [VNNB], Tập I-C: 1955-1963 (Houston: Văn Hóa, 2000), tr. 110; Idem., VNNB, tập III: Nhân vật chí, tái bản có bổ sung (Houston: Văn Hóa, 1997), tr. 262. Sẽ dẫn: Nhân vật chí, 1997.

6. Theo Lansdale, Diệm “đã cắt bỏ mối tình với người yêu đầu đời để dâng hiến cho tổ quốc” nên 60 tuổi vẫn còn độc thân. Xem chú 1 supra. Nhưng nhiều người đương thời, như Tướng Trần Văn Ðôn André, cho rằng Diệm thiếu khả năng tình dục.

7. Xem Ngô Ðình Diệm, “L’Encrier de S. M. Tu-Duc: Traduction des Inscriptions [Nghiên mực của vua Tự Ðức: Bản dịch những chữ khắc];” Bulletin des Amis du Vieux Hue [BAVH], Bộ IV, số 3 (Tháng 7-9/1917), tr. 209.

8. Phỏng vấn Kỹ sư Luyện ngày 2/11/1985 tại Paris. Xem thêm, Ngô Ðình Diệm, “L’Ambassade de Phan Thanh Gian (1863-1864);” [Sứ đoàn Phan Thanh Giản, (1863-1864)]; BAVH, Bộ VI, Số 1bis và 2 (Avril-Juin 1919), tr. 161. Ở đầu bài, Diệm được giới thiệu là “học sinh trường Hậu bổ,” và bài này đã được đọc tại các buổi họp [hôi thảo] ngày 27/8 và 3/12/1918, và 4/3/1919. Ibid. Diệm chỉ dịch một phần tập tâu của Phan Thanh Giản và Phạm Phú Thứ, dưới sự hướng dẫn của Nguyễn Ðình Hòe. Phần còn lại (thiếu đoạn đi sứ Espania) do Trần Công Tạn dịch; BAVH (1921), tr. 147-87.Tác giả đa tạ ông Nguyễn Ðắc Xuân đã cung cấp phóng ảnh bài viết này của Ngô Ðình Diệm.

9. Xem báo cáo về cuộc đàm thoại ngày 28/4/1955 giữa Bảo Ðại với William Gibson, Ðệ nhất thư ký Tòa Ðại sứ Mỹ; FRUS, 1955-1957, I:332-36; Chính Ðạo, Việt Nam Niên Biểu [VNNB], 1939-1975, tập I-C: 1955-1963 (Houston, TX: Văn Hóa, 2002), tr. 54-5.

10. Nguyên văn: “A year after his decision to give up becoming a priest. Diem falsified his age and took competitive examinations for the equivalent of a highschool diploma;” Robert Shaplen, The Lost Revolution (New York: Harper & Row, 1966), pp. 106-7. Bằng “Thành Chung” hay Diplôme là bằng cao nhất bậc Trung Học thời gian này.

11. Xem tiểu sử Thục trong CAOM (Aix), GGI, CP 125; Chính Ðạo, Nhân vật chí, 1997:312; Idem., Cuộc thánh chiến chống Cộng, 2004, I:464-65. Tại Việt Nam, nên ghi nhận, có tục lấy tên “mẹ già,” tức vợ chính thức, để khai sinh cho các con thê thiếp hoặc ngoại hôn.

16. Có tài liệu ghi Khả là Chưởng giáo đầu tiên của trường Quốc Học; E. Le Bris, “Le Quoc Hoc;” BAVH (1916), số 1, tr. 80. Ðây có lẽ dựa theo Dụ năm 1896 của Thành Thái, nhưng Toàn quyền Pháp không chấp thuận. Giám đốc trường này là một người Pháp. Về chức “Thượng thư” của Khả, chúng tôi chưa thấy một tài liệu nào. Trong bản dịch một bài thơ nói về chuyến du ngoạn của vua Tự Ðức–“Une ascension sur l’écran du roi: Poésie de S. M. Tu Duc, traduite par Ngô Ðình Khả, Ministre honoraire; BAVH, số 2 (4-6/1916), tr. 223-27–Khả chỉ ghi “hàm Thượng thư,” khác xa với Thượng thư thực sự, nói chi “Thượng thư đầu triều.” Trần Lục, hay Père Six ở Phát Diệm, tay chân tín cẩn của Giám mục Puginier, cũng được thưởng hàm Thượng thư và Bắc đẩu Bội tinh.

17. Lời chứng của Nguyễn Thi, cựu Ủy viên Hành Kháng tỉnh Ninh Thuận, trên báo Nhân Dân ngày 16/7/1954, dẫn trong Trần Văn Giàu, Miền Nam giữ vững thành đồng, 5 tập (Hà Nội: NXB Khoa Học, 1964-1978), tập I (1964), tr. 36. Hai tác giả khác ghi là việc Diệm dùng đèn cầy đốt hậu môn tù nhân CS khi làm Tri phủ Hòa Ða; Nguyệt Ðàm và Thần Phong, Chín năm máu lửa dưới chế độ gia đình trị Ngô Ðình Diệm (Sài Gòn: 1964), tr. 18. Theo hai tác giả này, nhân chứng là Cử nhân Nguyễn Trác, cựu Nghị viên trưởng An Nam. Xem thêm, Bùi Nhung, Thối nát (Sài Gòn: 1969); Hoàng Trọng Miên, Ðệ nhất phu nhân (Los Alamitos, CA: 1989), I:128-29. Theo tài liệu Bộ Ngoại Giao Mỹ, Diệm tốt nghiệp thủ khoa năm 1921; năm 1929 đã làm quan đầu tỉnh. Khi ở Quảng Trị năm 1930-1931, Diệm dùng những thủ đoạn nghiêm khắc để đàn áp, v.. v... [“From 1922 to 1929 he was a district chief in the territorial administration of Annam and during the next four years he served as a province chief. While in Quang Tri province during the 1930-1931 Communist-led insurrections he used drastic methods in repressing agitators and revolutionaries, thus incurring the enmity of left-wing nationalists. In 1932-1933 he headed a commission to investigate charges of corruption in the upper echelons of the Annamese administration;” Ngo Dinh Diem (1957) [p.5]].

18. Thư ngày 21/8/1944, Thục gửi Decoux; CAOM (Aix), PA 14, c. 2. Thư này do tác giả công bố lần đầu trong Luận án tại Ðại học Wisconsin-Madison năm 1984, rồi trên báo Lên Ðường (Houston) năm 1989; in lại trong Chính Ðạo, Việt Nam Niên Biểu [VNNB], 1939-1975, tập I-A: 1939-1946, tr. 200. Vài cá nhân đặt nghi vấn là Pháp ngụy tạo tài liệu trên. Nghi vấn này do sự thiếu hiểu biết về phương pháp bảo quản tài liệu văn khố (khác với thư viện) Hơn nữa thủ bút và chữ ký của Thục khó thể giả mạo. Tưởng cũng nên ghi thêm rằng một vài cá nhân (như Lê Trọng Văn, Bùi Kha) đã tự động tẩy xóa bút phê của Decoux cũng như ghi chú của nhân viên văn phòng Toàn quyền và dấu cùng chữ ký thị thực của Văn khố Aix-en Provence Pháp trên phóng ảnh tài liệu trên, in vào sách họ.

21. Tại hải ngoại, một cựu thẩm phán Cần Lao bịa đặt rằng Bài đã được hỏi ý từ trước, đích thân Phạm Quỳnh thông dịch, và các tân thượng thư đều có mặt. Thói trộm không khéo chùi mép này chứng tỏ sự thiếu lương thiện trí thức của một số người hoài Ngô. Xem thêm Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, III:1111-145.

22. TTLTQG 2 (TP/HCM), RSA/HC, HS 1869; Nam Phong số 184 (5/1933); Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, tập III:793, 1111-129. (Ðoàn sau này hợp tác với Hồ Chí Minh).

23. Theo Tổng Lãnh sự Hong kong, Diệm tuyên bố là bạn lâu đời của Bảo Ðại, đã phục vụ như “Tể tướng” những năm cũ, và hai gia đình có liên hệ gần gũi [Ngo Dinh Giem [Diem] claimed that he was an old friend of Bao Dai, had served as his Prime Minister in former years, and that their families enjoyed close relations.”]; CÐ 450, 30/12/1947, Hongkong gửi BNG; FRUS, 1947, VI:153. Việc tự đánh bóng để “bán mình” [sell yourself] cho Mỹ này không được tài liệu văn khố Pháp chứng minh. Thực tế, Diệm, như đã lược nhắc, chỉ được đặc cách lên hàng Thượng thư Bộ Lại, mà phận sự và quyền lợi đồng đều với bốn bộ khác, và năm 1935, chỉ được Bảo Ðại cho lại chức Thượng thư hàm. Xem chú 28 infra.

37. Chi tiết trong đoạn này, nhất là tư liệu báo chí như Cờ Giải Phóng (Hà Nội), Cứu Quốc, v.. v.. từ tháng 8 tới tháng 11/1945 dẫn từ Vũ Ngự Chiêu, “Social and Cultural Change,” Part II: The End of An Era,” chapt 9. Chúng tôi chỉ dẫn xuất sứ những nguồn tin mới phát hiện. Xem thêm Chữ 1996:284-90 về việc cướp chính quyền ngày 19/8/1945, và Vũ Ðình Hoè, Hồi Ký, tái bản (Hà Nội: Hội Nhà Văn, 2004), tr. 733-41.

38. Ðộc Lập, “Cơ quan tuyên truyền, tranh đấu, nghị luận của Việt Nam Dân Chủ Ðảng trong Mặt Trận Việt Minh”, xuất bản công khai số 1, Năm thứ 2, 4/9/1945 [loan tin “Ngày độc lập [2/9/1945] đã thu hút 50 vạn dân thành phố Hà Nội quanh vườn hoa Ba Ðình.”]; Cờ Giải Phóng, số 16, 12/9/1945.

58. Tu liệu văn khố Nga và Trung Cộng mới giải mật cho biết Hồ chỉ chính thức nối lại liên hệ với Liên Sô Nga từ tháng 2/1950. Nhưng Stalin giao cho Bắc Kinh cai quản Ðông Dương. Theo một viên chức Trung Cộng, tối 16/2/1950, Stalin từ chối lời đề nghị của Hồ là Liên Sô và VNDCCH ký Hiệp ước hữu nghị giống như Nga mới ký với Trung Cộng.

59. Blokov Ranh (1909-1952?), em trai Trần Phú (1904-1931), Tổng thư ký đầu tiên của Ðảng CSÐD, từng theo học Ðại học Phương Ðông [KUTV] Mat-scơ-va và một thời gian là “bạn đồng hành” của Nguyễn Thị Vịnh (Minh Khai) (1910-1941) ở Trung Hoa; CAOM (Aix), SPCE, carton 367. Năm 1947, Ranh bị Pháp bắt giữ cùng Bourov Dương Bạch Mai (1904-1964), nhưng phải trả tự do vì áp lực của Ðảng Xã Hội và báo Le Figaro; AAN, 1947, 833; Ibid., 1949, II:1509. Năm 1949 Ranh qua Tiệp Khắc, sau bị khai trừ khỏi Ðảng CSÐD, khi tái lập Ðảng Lao Ðộng Việt Nam năm 1951 (cùng Lê Hy); Hoàng Văn Hoan, Giọt nước trong biển cả (Bắc Kinh: 1987), tr. 319-21.

80. William C. Bullitt, “The Saddest War” [Cuộc chiến buồn thảm nhất]; Life (29/12/1947); FRUS, 1947, VI:110.

81. CAOM (Aix), INF, Carton 154.

82. Văn khố Nga và Trung Cộng chưa công bố hết tài liệu về những cuộc gặp gỡ giữa Hồ và Stalin trong tháng 2/1950, nhất là lý do biện minh cho việc giải tán Ðảng Cộng Sản ngày 5/11/1945.

96. Nguyên bản tiếng Pháp: “La France reconnait solennement l’indépendance du Vietnam auquel il appartient de réaliser librement son unité. De son côté, le Vietnam proclame son adhésion à l’ờUnion FrancỄaise en qualité d’Etat associé à la France. L’indépendence du Vietnam n’a d’autres limites que celles que lui impose son appartenance à l’ờUnion FrancỄaise.” CBVN, I:2 [18/6/48]:18; CAOM (Aix), GGI, Amiraux, 50062. Ngoài ra, 2/Việt Nam bảo đảm tôn trọng những quyền lợi của công dân Pháp, tôn trọng các nguyên tắc dân chủ, và dành ưu tiên cho các cố vấn và chuyên viên kỹ thuật Pháp trong việc tổ chức nội bộ cùng kinh tế; 3/ sau khi thiết lập một chính phủ lâm thời, các đại diện Việt Nam và Pháp sẽ ký những thỏa ước về văn hoá, chính trị, quân sự, kinh tế, tài chính và kỹ thuật.

97. FRUS, 1948, VI:25. Ngày 6/6/1948, tại Hà Nội, Báo L’Entente, cùng hầu hết các báo chí loan tin về “Hiệp ước” (Accords) Hạ Long. Theo các báo này, Bảo Ðại đã ký hiệp ước với Bollaert, dưới sự chúng kiến của Nguyễn Văn Xuân. Theo Phó Lãnh sự Mỹ Edwin C. Rendall tại Hà-nội, cả ba người cùng ký, và Bảo Ðại dùng thêm hai chữ “S.M.” (Sa Majesté) trước tên mình; FRUS, 1948, VI:24. Hôm sau, 7/6, Hồ phản đối việc “bọn bù nhìn” (fantoche) ký kết hòa ước với bất cứ nước ngoài nào. Ngày 9/6/1948, Tổng Lãnh sự Abbott gặp Xuân và Hữu. Theo Xuân cần đạt hoà ước gấp, nếu muốn có cơ hội thành công. Việc thương thuyết sẽ tiếp tục ở cả Pháp và Việt Nam, do “Siêu Ðại sứ” Bảo Ðại thực hiện. Có thể Bảo Ðại sẽ hồi hương, nếu đó là kết quả của một cuộc trưng cầu dân ý. (Tướng Pierre Boyer de Latour du Moulin, Tư lệnh Quân Pháp ở miền Nam thì cho rằng Bảo Ðại sẽ hồi hương trong một thời gian ngắn). Xuân không mấy tin tưởng vào việc chiêu hồi những người Quốc Gia trong hàng ngũ Việt Minh. Việt Minh đang áp dụng những thủ đoạn hung bạo–kể cả chôn sống–để ngăn chặn phong trào về tề; FRUS, 1948, VI:25-6). Ngày 9/6/1948 này, Ferdinand Baeyens, Giám đốc Á Châu vụ Pháp, thông báo Ðại sứ Bruce: Chính phủ Pháp rất bi quan về chính phủ Xuân. Bảo Ðại không ưa Xuân, chỉ giữ Xuân cho tới lúc “tường đã khô.” Bộ Ngoại Giao và Hải ngoại Pháp đều muốn thay Xuân, chẳng hạn như Diệm; FRUS, 1948, VII:24-25. Sau khi Joseph Laniel (6/1953-6/1954) đồng ý trả độc lập hoàn toàn cho Việt Nam ngày 3/7/1953,(134) họ Ngô ráo riết vận động lên cầm quyền.

106. FRUS, 1949, VII:10. Thư ngày 8/3/1949 của Auriol gửi Bảo Ðại gồm 7 mục chính: Việt Nam thống nhất (Unité du Vietnam); Vấn đề ngoại giao (Question diplomatique); Vấn đề quân sự (Question militaire): Việt Nam sẽ có một quân đội riêng để duy trì trật tự, an ninh nội địa và bảo vệ đế quốc (la défense de l'Empire). Trong trường hợp tự vệ, có thể được các lực lượng Liên Hiệp Pháp yểm trợ (appuyé par les forces de l'Union francaise). Quân đội VN cũng tham dự vào cuộc bảo vệ biên cương của toàn Khối Liên Hiệp Pháp; Vấn đề chủ quyền trong nước (Souveraineté interne); Vấn đề tư pháp; Vấn đề văn hóa; Vấn đề kinh tế và tài chính (CP 290).

122. Ngày 24/3/1950, Luật tiết lộ với cơ quan tình báo Pháp (SEHAN) rằng Diệm không thân cận được với Bảo Ðại vì bản tính nhu nhược (faible) và thiếu cương quyết (indécis) của Bảo Ðại. Nếu lên nắm quyền, Diệm sẽ chống Cộng thẳng tay, mà muốn thế cần có sự tín nhiệm và yểm trợ tuyệt đối của Bảo Ðại. Ðiều này chắc không có. Ngoài ra, lập trường chính trị của Diệm cũng khác biệt. Thứ nhất Diệm muốn biết chắc thể chế độ chính trị của Việt Nam sẽ được tương tự như India trong Liên Hiệp Bri-tên. Nhưng sự bảo đảm chắc chắn này không được chứng tỏ qua thực tế, như việc bàn giao chủ quyền, hay qua sự tiến hoá của các khuynh hướng chính trị tại Pháp. Luật thêm rằng tại miền Bắc, Diệm chẳng có bao nhiêu người ủng hộ, ngoại trừ phe Ki-tô chịu ảnh hưởng Phát Diệm. Tại Hà Nội, theo Luật, có thể có Trần Văn Lai, Trần Trung Dung và Nguyễn Xuân Chữ. SHAT (Vincennes), Indochine, 10H xxx.

123. Một trong những biên khảo xuất sắc về liên hệ giữa QTCS với Ðảng CSÐD do học giả Anatoli Sokolov thực hiện. Ấn bản Việt ngữ của tác phẩm này, theo Sokolov, không được chính xác. Một số phụ chú đã bị cắt bỏ. Tác phẩm Ho Chi Minh: The Missing Years, 1924-1941 (2003) của Quinn-Judge và tuyển tập Lê Hồng Phong (Hà Nội: 2002) cũng chứa đựng nhiều tài liệu Nga giá trị. Xem thêm những công bố của học giả Việt như Ðỗ Quang Hưng, Trần Văn Hưng, v.. v... trong Tạp chí Lịch Sử Ðảng (1999-2000).

124. Hầu hết các chi tiết trên đã được công bố từ thập niên 1950. Tuy nhiên, ngày tháng và chi tiết mới được tài liệu Trung Cộng xác tín từ thập niên 1990. Xem Vũ Ngự Chiêu, “Chuyến Ði Cầu Viện Bí Mật Năm 1950 Của Hồ;” Hợp Lưu Magazine (Fountain Valley, CA), No. 109, Tháng 3-4/2010, tr. [5-25]; Việt Nam Thời Báo (San Jose, CA), số 5229, Thứ Ba, 12/1/2010, & 5230, Thứ Tư, 13/1/2010. Xem thêm Qiang Zhai, China & The Vietnam Wars, 1950-1975 (Chapel Hill: Univ. of North Carolina Press, 2000), tr. 15-20; Võ Nguyên Giáp, Ðường tới Ðiện Biên Phủ (Hà Nội: NXBQÐND, 2001), tr. 10-16.

125. Ðại tướng Giáp, trong tập hồi ký Ðiện Biên Phủ (1994) và trong các ấn bản mới của hồi ký (2001) đã ghi nhận sự thực lịch sử cay đắng này.

135. Xem chi tiết về tổ chức này trong Chính Ðạo, VNNB, Tập I-C: 1955-1963 (Houston: Văn Hóa, 2000) & Tập II-B: Các tổ chức chính trị (Houston: Văn Hóa, đang in). Xem thêm Phạm Văn Liễu, Trả Ta Sông Núi, I:333-342. Nên lưu ý, trong Chính Cương của Cần Lao, không hề đề cập đến thuyết “sáng tạo” hay “tạo hóa” mà đôi lần đề cập đến thuyết “tiến hóa.” Ðiều này chứng tỏ Nhu có thể là một tín đồ Ki-tô, nhưng “chống Giáo sĩ” [anti-clerical] như Nhu thú nhận với Phái đoàn điều tra LHQ vào ngày 28/10/1963; UNGA, Agenda Item 77, Doc. A/5630, 7/12/1963.

 



Giới Thiệu Sử Gia Chính Đạo


                                                  Tiến Sĩ Vũ Ngự Chiêu

(ảnh của PBase.com)


Chính Đạo là một trong hai  bút danh của  Vũ Ngự Chiêu. Bút danh kia là Nguyên Vũ, rất nổi tiếng ở Miền Nam trước năm 1975.  Trước 1975, Vũ Ngự Chiêu phục vụ trong binh chủng Pháo Binh Dù, QLVNCH, và đã có hơn 20 tác phẩm xuất bản. Sau khi ra hải ngoại, ông vừa tiếp tục cầm bút vừa đeo đuổi việc học. Tốt nghiệp Tiến Sĩ Sử tại Đại Học Wisconsin-Madison năm 1984, sau khi cùng gia đình di chuyển về Houston, ông là Giám Đốc nhà xuất bản Văn Hóa và tốt nghiệp Tiến Sĩ Luật tại Đại Học Houston năm 1999.  

    Những tác phẩm của Vũ Ngự Chiêu xuất hiện trước năm 1975 dưới bút danh Nguyên Vũ gồm có  Đời Pháo Thủ (bút ký), Những Cái Chết Vô Danh (tập truyện), Trở Về Từ Cõi Chết (truyện), Vòng Tay Lửa (trường thiên), Thềm Địa Ngục (truyện), Đêm Hưu Chiến (truyện), Sau Bảy Năm Ở Lính (bút ký), Đêm Da Vàng (trường thiên), v.v.  Tại hải ngoại, Vũ Ngự Chiêu đã in thêm các tập Xuân buồn thảm: Cuộc Sụp Đổ của Nam Việt Nam (bút ký), Trận Chiến Chưa Tàn (truyện), Giặc Cờ Đỏ (trường thiên), cùng hai tâm bút Paris: Xuân 1996, và Ngàn Năm Soi Mặt.  

    Về nghiên cứu sử học, ông đã in ba tác phẩm bằng tiếng Anh dưới tên thực, và 10 biên khảo bằng Việt ngữ với bút danh Chính Đạo. Biên khảo duy nhất bằng Việt ngữ ký tên thực của ông là bộ Các Vua Cuối Nhà Nguyễn, 1883-1945, gồm ba tập. Những tác phẩm ký tên Chính Đạo thường được viết cho độc giả không chuyên môn, dễ đọc hơn, không quá khô khan như các biên khảo đúng yêu sách bác học.  

   Ông vừa xuất bản tác phẩm mới nhất với tựa đề Cuộc Thánh Chiến Chống Cộng, 1945-1975, tập I, gồm 5 phần: Sơ lược tiểu sử Tổng thống Jean Baptiste Ngô Đình Diệm (1897-1963); Từ Điện Biên Phủ tới Geneva; Cuộc truất phế Bảo Đại; Mùa Phật Đản đẫm máu (1963); và “Phiến Cộng” trong Dinh Gia Long.  

    Sau năm 1975 ở hải ngoại, có những dòng thác ngụy tạo ngụy biện nhằm vặn méo sử kiện để chạy tội và biện minh cho sự vô minh của mình, Vũ Ngự Chiêu đã dần dần xuất hiện như  một nhà sử học khai sáng và can trường. Giá trị tinh thần của người trí thức không chỉ là tôn trọng sự thật mà còn nói lên sự thật và chấp nhận hậu quả của quyết định can trường đó. Đó là một sự đổi đời tâm linh có ý nghĩa đã hình thành nơi Vũ Ngự Chiêu. Huyền thoại và huyễn mị lịch sử đã làm cho người Việt xa nhau, chỉ có sự thật mới làm cho người Việt gần lại với nhau, trong tình dân tộc, nghĩa đồng bào. Những tác phẩm mới của Vũ Ngự Chiêu là một đóng góp sáng giá và có ý nghĩa trong chiều hướng đó.  

 Trích từ: http://www.chuyenluan.net






Trang mạng Việt Nam Văn Hiến
Trang Ngô Đình Diệm Là Ai ?
www.vietnamvanhien.net
email: thuky@vietnamvanhien.net

Trang mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi lưu trữ và phổ biến những biên khảo, sáng tác và ý kiến của quý vị và các bạn nhằm mục đích bảo tồn di sản văn hóa, tha71p sáng niềm tin Diên Hồng, phục hoạt nếp văn hiến và phục hồi nền an lạc & tự chủ của Việt tộc.


Trở lên đầu trang

Trở Lại Trang Mặt