Trước năm 1975, mỗi dịp
Tết âm lịch, văn gia và dân chúng miền nam
thường làm lễ kỷ niệm chiến thắng Tết Kỷ Dậu (1789) của Quang
Trung Nguyễn Huệ (1753-1792). Ðây là một trong những
võ công lịch sử vệ quốc của dân tộc Việt chống lại
âm mưu thôn tính của bắc phương từ ngày
giành được độc lập năm 938–sau khi Ngô Quyền phá
quân Nam Hán ở sông Bạch Ðằng, khai sinh ra một
vương quốc mới, tức Ðại Việt (từ năm 1054) hay Việt Nam (từ năm
1804).
Võ công lừng
lẫy này–ngoài tư liệu Trung Hoa và quốc sử
Lê-Nguyễn–còn có thêm tư liệu Pháp,
qua các nhà truyền giáo, và tư liệu
Lào-Thái Lan, giúp tái dựng một cách
khá trung thực. Tuy nhiên, vẫn còn những khoảng
trống cần được điền vào hoặc sửa chữa lại trong tương lai.
Lý do thứ nhất là trong khi viết ra những tài liệu
tuyên truyền cho sự chính thống của họ Nguyễn (1802-1945),
hay nhà Thanh (1644-1911), sử quan Nguyễn và Thanh chỉ
nhấn mạnh vào công đức của Nguyễn Chủng (Gia Long,
1802-1820) hay Hoằng Lịch (tức Càn Long [Quainlong] hay Cao
Tông, 1736-1796, TTH, 1796-1799). Trong khi đó, tài
liệu truyền giáo Ki-tô hay “sử” Lào và
Thái Lan đều nghiêng về phía Nguyễn Chủng. Mặc
dù từ năm 1945, và nhất là từ thập niên
1970, chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa [VNDCCH]
đã cho lệnh viết lại về nhà Tây Sơn, mục tiêu
chính trị giai đoạn thống trị, nên những cung văn về một
cuộc cách mạng của nông dân dưới ngọn cờ đào
trở nên thái quá. Văn gia Trung Hoa–từ Bắc Kinh
cũng như Ðài Loan–phản công bằng cách
công bố những văn kiện ngoại giao giữa Tây Sơn và
Hoằng Lịch, hạ thấp giá trị võ công vệ quốc Kỷ Dậu,
cũng như những biểu, sớ do nhóm Ngô Thì Nhiệm thảo
ra, với giọng điệu “sự đại chi lễ” [phép nước nhỏ thờ nước lớn],
như con với cha, môi với răng quen thuộc từ triều Ðinh, Tiền
Lê, tới họ Mạc, họ Lê-Trịnh. (1)
Bài khai
bút đầu Xuân này muốn tóm lược lại những
nét chính về võ công Kỷ Dậu, quan hệ ngoại
giao Thanh-Tây Sơn trong hai năm 1789-1790 và sự đe dọa
của Liên Minh Nguyễn Chủng-Rama I-Giáo sĩ Ki-tô. Kết
luận sơ khởi của chúng tôi là khó thể
có việc Quang Trung–dưới tên Nguyễn Quang
Bình–đã lên Bắc Bình dự lễ thượng thọ
bát tuần (80) của Hoằng Lịch vào năm 1790.
I. TRẬN ÐÁNH
KỈ DẬU (1789):
Cuộc xâm lăng của
Tôn Sĩ Nghị vào cuối năm 1788, đầu năm 1789, cho đến nay,
chỉ được ghi lại một cách sơ sài và thiếu nhất
quán.
A. TỔNG SỐ QUÂN THANH:
1. Tài liệu quốc
sử Thanh không nhắc đến tổng số quân thủy bộ tham dự cuộc
xâm phạm này. Chỉ nói cho lệnh điều động quân
Lưỡng Quảng, Vân Nam và Quí
Châu.
Ngày 15/11/1788 [20/10
Mậu Thân Thanh], Tôn Sĩ Nghị ra khỏi ải Nam Quan. Mang quân thuộc bốn tỉnh
Hoa Nam,
chia
làm
hai
[2] cánh tiến vào đất Bắc.
a. Cánh quân
phía Ðông, chia làm ba [3] mũi:
(1) Mũi chủ lực do
Tôn Sĩ Nghị và Hứa Thế Hanh ra cửa Trấn Nam Quan, tiến
vào Lạng Sơn, xuống Kinh Bắc, rồi Thăng Long.
(2) Mũi thứ hai do Sầm
Nghi Ðống, tri chi phủ Ðiền Châu, mang theo 2,000
quân Nùng tiến vào Cao Bằng, đến Thái
Nguyên.
(3) Mũi thứ ba, tiến từ
Khâm Châu vào Quảng Ninh, Hải Dương.
b. Cánh quân
Vân Nam phía tây, dưới quyền Ðề đốc Ô
Ðại Kình, từ Mông Tự tiến vào Tuyên
Quang, Việt Trì trên bờ sông Thao.
Lực lượng xung
kích gồm 10,000 kị mã, do Hứa Thế Hanh chỉ huy, để bảo vệ
Tôn Sĩ Nghị.
c. Ngoài ra, còn
10,000 quân bản xứ “phò Lê.” Một trong những nhiệm
vụ chính là làm cầu phao cho quân Thanh qua
sông. Và, trừng trị những người hợp tác với
Tây Sơn, kể cả ba chú vua, bị chặt chân. (2)
2. Chính
sử
nhà
Nguyễn,
tức Khâm Ðịnh Việt Sử Thông
Giám Cương Mục và Ðại Nam Thực Lục đều không
ghi rõ số quân Thanh tiến vào Ðại Việt, chỉ
nói mù mờ [theo Thanh sử và Ðại Thanh Thực
Lục] rằng Tôn Sĩ Nghị điều động quân bốn tỉnh Quảng
Ðông, Quảng Tây, Vân Nam và Quí
Châu; [và, quân Thanh bị chết, bị thương đến
quá nửa dưới tay “giặc” [Tây Sơn]. (3)
Sử quan Nguyễn phụ
trách soạn bộ Ðại Nam Liệt Truyện ghi tổng số quân
Thanh lên tới “20 vạn” [200,000]. [“Nghị độc phụng chiếu xuất
Lưỡng Quảng Vân Quí lượng lộ binh nhị thập vạn, phân
vi lưỡng đạo.”( 4)
Ai đó có
thể hoài nghi con số “20 vạn” vì các sử quan Việt
hay phóng đại sự thực. [Giống như số phi cơ Mỹ bị CSVN bắn hạ
(xem Phùng Thế Tài, 2001) hay “600,000” quân Trung
Cộng tràn vào Bắc Việt trong Bài học 30
ngày (17/2-19/3/1979)! (thực sự chỉ có 320,000, theo một
tư liệu Trung Cộng)
Có thể sử quan
Nguyễn đã dựa theo tài liệu tuyên truyền của cả
nhà Tây Sơn lẫn nhà Thanh. Tây Sơn có
thể đã nâng số quân Thanh lên 20 vạn để tự
quảng cáo chiến thắng vĩ đại của mình. Nhà Thanh
tuyên truyền rằng mang 20 hay 50 vạn quân xâm phạm
Ðại Việt để kinh động nhân tâm, hầu “thanh oai.”
Theo
Hoàng Lê Nhất Thống Chí, trong tờ hịch của
Tôn Sĩ Nghị phát ra trước khi xâm phạm Ðại Việt,
quân Thanh lên tới “50 vạn” [500,000]. (II, tr. 153) Con số
này khó tin, vì nhà Thanh chủ trương “thanh
viện” [đánh tiếng giúp] vua Lê hơn thực sự giao
chiến với Tây Sơn–dù phía sau chủ trương “thanh
viện” ấy là âm mưu chia nước ta làm hai vương quốc
nhỏ, một giao cho họ Lê, một cho anh em Tây Sơn, rồi đồn
trú quân ở chỗ hiểm yếu hầu thực sự chiếm đóng
Ðại Việt. (HLNTC, II, tr. 147)
3. Ngụy Nguyên
(1794-1854), một học giả đời Thanh, trong bài “Càn Long
Chinh vũ An Nam ký,” của tập tài liệu tuyên truyền
Thành Vũ Ký (1842)–nhằm khích động tinh thần
quân sĩ Thanh giữa cuộc chiến tranh nha phiến 1834
[1839]-1842)–ghi rằng riêng cánh quân Tôn Sĩ
Nghị từ Lạng Sơn kéo xuống Hà Nội có 10,000 người,
dùng 2,000 ở lại Lạng Sơn, lấy 8,000 làm tiên phong
kéo thẳng xuống Hà Nội. Ðề đốc Vân Nam Ô
Ðại Kình đem 8,000 quân theo đường qua cửa Mã
Bạch, vượt sông Chúc, vào cõi Giao Chỉ
(Tuyên Quang), theo đường cũ của Mộc Thạnh nhà Minh.
Ngoài ra, còn hai cánh quân Lưỡng Quảng
khác, và một đạo thủy binh từ Quảng Ðông
đáp thuyền vào đất Hải Ðông [Quảng Yên].
Tổng đốc Vân Quí [Vân Nam-Quí Châu]
là Phú Cương xin đi, nhưng Càn Long chỉ cho coi
việc vận tải quân lương trong nội địa để tránh cảnh tranh
chấp tướng lệnh với Tôn Sĩ Nghị.
Ngoài
ra,
còn
hơn
2,000 lính Nùng của thái
thú Sầm Nghi Ðống [từ chi phủ Ðiền Châu, tiến
vào Cao Bằng, rồi Thái Nguyên], và hơn
10,000 quân lính nhà Lê. Nhưng “Tiếng rằng
đại binh có vài chục vạn.” (5)
4. Tài liệu truyền
giáo ghi tổng số quân Thanh ước lượng 280,000 người. Một
nửa đóng quanh Hà Nội. Một nửa ở bên kia
sông. Các làng mạc đánh trống ăn mừng.
Giáo sĩ Pháp La Mothe ghi nhận:
Ngày
17[/1/1789], một phần quân đội Trung Hoa vào thủ đô
cùng với Vua Chiêu Thống. . . . Viện binh
Trung Hoa gồm độ 280,000 người, một nửa đóng trong thành
phố, nửa còn lại ở bên kia sông... (6)
Con số “280,000”
quân Thanh, do nguồn tin tình báo đại chúng
của La Mothe, vượt trên ước lượng của sử quan Nguyễn. Chắc chắn
con số này không chính xác vì cả La
Mothe lẫn hậu thế chẳng có cách nào kiểm chứng.
Nhưng báo cáo của La Mothe hay Giám mục Jean
Bartette ở Ái Tử, Quảng Trị–người tạm thay Pigneau de
Béhaine coi Giáo phận Ðường Trong (Cohinchine)–khi về
tới Macao, Pondichéry hay Paris, hẳn có phần đóng
góp vào quyết định không tôn trọng hòa
ước 1787 giữa Pháp và Pigneau de Béhaine (đại diện
Nguyễn Ánh).
(Từ năm
1788, các viên chức Pháp đã có khuynh
hướng ủng hộ lập trường Thomas de Conway là cuộc viễn chinh
Ðại Việt quá tốn kém. Sau khi nhận được báo
cáo ngày 15/3/1789 của Thống đốc de Conway rằng đảo Poulo
Condore và Hội An vô giá trị; phí tổn viễn
chinh khó thể đền bù bằng thu nhập trong một thời gian
ngắn, ngày 16/4/1789, Bộ Hải Quân thông báo
cho Pigneau biết không thể có cuộc viễn chinh Cochinchine.
Tuy nhiên, Pigneau không biết quyết định này,
vì ngày 15/6/1789, đã [lên tàu
Méduse] qua Gia Ðịnh. (Launay, III:199). [Ngày
18/3/1789, Pigneau còn viết thư cho Conway, thông
báo Chủng đã lấy lại được năm [5] tỉnh Nam Kỳ và
xin gửi một lực lượng tượng trưng qua giúp Chủng]. Ngày
30/1/1790, Chủng mới viết thư hủy bỏ hiệp ước 1787, và sai
Pigneau dịch qua tiếng Pháp)
5. Năm 1960, Tưởng
Quân Chương, một tác giả Ðài Loan, còn
ghi Sĩ Nghị chỉ đưa “6,000 kị mã” vào Hà Nội.
Con số này
quá thấp, do một dụng ý nào đó.
Trong cuộc phản công Tết
Kỷ Dậu (1789), chỉ riêng ở Thăng Long quân Thanh chết hơn
7,000 tại trận. Cầu phao [nổi] bắc ngang sông Hồng [do quân
sĩ Lê Duy Kỳ xây dựng] bị sập, khiến khoảng 3,000 người
chết đuối, nước sông bị nghẽn. (ÐNCBLT,
q. 30 [Ngụy Tây], tr. 34B) Các chi tiết trên
cũng thấy trong Lê triều dã sử, hay Hoàng Lê
Nhất Thống Chí. Dĩ nhiên, lối diễn tả “người chết khiến
nước sông bị nghẽn” là lối diễn tả ước lệ trong sử văn
Trung Hoa, và các tác giả Việt có thể
đã chỉ bắt chước.
Cách
nào
đi
nữa,
với lệnh chỉ
được
thắng,
ngoài thời điểm tiến quân vào mùa Thu để
giảm thiểu ảnh hưởng khí hậu nhiệt đới, Tôn Sĩ Nghị
không thể mang theo “6,000 kị mã,” tức tinh binh của
nhà Thanh như Tưởng Quân Chương hoang tưởng. Chỉ cần
chút kiến thức quân sự sơ đẳng cũng hiểu rằng khi
xâm phạm một nước láng giềng, phải có lực lượng khả
dĩ bảo đảm sẽ chiến thắng hoặc rút lui an toàn. Ví
thử chỉ dùng “8,000” (hay “6,000 kị binh”, “600 kị binh,” nếu
muốn) cần mang theo số biền binh gấp 5, 10, hay 20 lần con số kể
trên hầu trấn giữ các vị trí chiếm đóng
được. Ðó là chưa kể công tác tiếp vận
lương thực, vũ khí. Lực lượng quân Lê và
dân công, kể cả phụ nữ, có thể được trưng dụng,
nhưng tư liệu Thanh và Việt im lặng về yếu tố cực kỳ quan trọng
này.
Nên thêm, kế
hoạch đánh cướp Việt Nam đã được đích thân
Hoằng Lịch duyệt xét và phê chuẩn, nên từ
việc tiếp vận quân lương tới điều động lực lượng, và ngay
cả tuyên truyền đều được bàn định kỹ càng.
Cánh quân chủ lực của Tôn Sĩ Nghị và Hứa Thế
Hanh được bảo vệ khá kỹ: Quân Vân Nam
từ Tuyên Quang xuống tới Việt Trì. Sầm Nghi Ðống
và đạo quân Nùng Quảng Tây tới Thái
Nguyên. Thủy quân từ Khâm Châu kéo
vào Quảng Yên, Hải Dương. Ðó là chưa kể
chi tiết Sĩ Nghị mang theo đại pháo, một loại vũ khí
tương đối mới mẻ với chiến trường Á châu.
Như thế, tổng số
quân Thanh đâu đó trong khoảng 20,000 tới 50,000
người, hoặc nhiều hơn. Sử quan Nguyễn có thể đã dựa theo
tư liệu dã sử nhà Lê hay truyền khẩu sử, và
sửa lại đôi chút. [Riêng học giả Trần Trọng Kim chỉ
lập lại con số 200,000 (20 vạn) của sử quan Nguyễn một cách
máy móc, khiến dễ gây ngộ nhận rằng 200,000
quân Thanh chỉ đóng ở kinh đô Thăng Long và
vùng phụ cận].
B. THỜI ÐIỂM THIẾU CHÍNH
XÁC:
Giống như bất cứ cuộc
chiến vệ quốc nào của Việt Nam, vấn đề thời điểm
thường có sự dị biệt trong các tài liệu Hoa
và Việt. Ngày quân Thanh tiến vào Thăng Long
là một thí dụ. Suốt hai thế kỷ sau võ công
lừng lẫy của Quang Trung (1788-1792)–một kẻ thù không đội
trời chung của họ Nguyễn và Trịnh–vẫn còn tranh luận về
ngày chết của Quang Trung hay những chi tiết về chiến dịch
Xuân Kỷ Dậu.
Khi đổi từ ngày
âm lịch sang dương lịch, còn trở ngại về sự khác
biệt giữa lịch Thanh, với Tây Sơn, và lịch Ðường Trong
(của chúa Nguyễn). Chúng tôi sử dụng bộ Lịch Vạn
Niên của Lý Quí Ngưu, và so sánh một
số ngày, tháng do các giáo sĩ sử dụng
vào đầu thế kỷ XX. Việc này giúp phát hiện
sử quan Nguyễn đã sử dụng một số thông tin từ tư liệu
Thanh khi viết lại về “Ngụy Tây.” Sự khác biệt giữa
các văn gia Lê và dã sử Nguyễn cũng xuất
hiện khi ghi lại các biến cố trong giai đoạn 1773-1789.
1. Theo Tôn Sĩ
Nghị, đại quân Thanh qua cửa Trấn Nam Quan ngày 15/11/1788
[20/10 Mậu Thân lịch Thanh]. và tới Hà Nội một
tháng sau, ngày 15/12/1788 [20/11 Mậu Thân lịch
Thanh]. Tài liệu Việt và Hội truyền giáo
Ki-tô đưa ra những thời điểm khác.
2. Khâm Ðịnh Việt Sử
Thông Giám Cương Mục [CM] không ghi rõ
ngày. Chỉ chép tháng
10 Mậu Thân [29/10-27/11/1788], Sĩ Nghị mang quân xâm
phạm “An Nam.” Lê Duy Kỳ trở lại Thăng Long (Ðông Kinh)
trong dịp này, nhưng tháng 11 Mậu Thân
[28/11-26/12/1788] mới được Sĩ Nghị phong vương. (8)
3. Ðại Nam Thực Lục, ghi
mơ hồ Lê Duy Kỳ khôi phục đô thành vào
tháng 10 Mậu Thân [29/10-27/11/1788]. (9)
4. Ðại Nam Liệt Truyện
chép tướng Tây Sơn là Phan Văn Lân tấn
công quân Thanh tại Thị Cầu, nhưng thua to. Hỏa lực Thanh
phá tan các chiến thuyền Tây Sơn, khiến người chết
vì súng đạn, người chết đuối. (10)
5. Ngày 16/12/1788
[21/11 Mậu Thân Thanh], Tôn Sĩ Nghị niêm yết sắc
phong Lê Duy Kỳ của Hoằng Lịch. (11)
Như thế, Nghị vào
Thăng Long ngày 15/12/1788 [20/11 Mậu Thân], đúng
như tài liệu Thanh. Tuy nhiên, các tác giả
ÐNCBLT không ghi rõ là lịch Thanh hay Việt. Nếu
lịch Thanh, tương ứng với ngày 15/12/1788; lịch Việt,
ngày 17/12/1788.
d. Tài liệu truyền
giáo ghi ngày 17/1/1789:
Theo các giáo sĩ
Pháp thì khoảng một tháng sau ngày vượt
biên giới, “ngày 17 [tháng 1/1789, tức 22/12 Mậu
Thân Việt, 24/12 Mậu Thân Thanh], một phần quân đội
Trung Hoa vào thủ đô cùng với Vua Chiêu
Thống....” (12)
e. Dã sử
không chính xác.
(1) Theo Hoàng Lê
Nhất Thống Chí [HLNTC], Tôn Sĩ Nghị vào
thành Hà Nội ngày 8/12/1788 [tức 11/11 Mậu
Thân]. Hôm sau, [9/12] Nghị phong vương cho Duy Kỳ. (II:165-6)
[Có lẽ không
đúng. Ðây chỉ là thời điểm quân Thanh
đang tiến đến sông Thị Cầu, chuẩn bị qua sông. Ðả bại
Phan Thế Lân.
(2) Lại có tin
Nghị tới Hà Nội ngày 16/11/1788 [19/10 Mậu Thân].
Có Lê Chiêu Thống theo.
[Chi tiết này
có lẽ không đúng. Theo tài liệu Thanh,
ngày 15/11/1788 [20/10 Mậu Thân Thanh], Tôn Sĩ Nghị
mới ra khỏi Trấn Nam
Quan.
(3) Một tài liệu
dã sử nhà Thanh ghi tiền quân Thanh tới sông
Thị Cầu (bến Ðáp Cầu) ngày 10/12/1788 [15/11 Mậu
Thân Thanh]. Cho lệnh quân Lê bắc cầu phao qua
sông. (13)
II. CUỘC PHẢN
CÔNG CỦA QUANG TRUNG:
Cuộc phản công của
Nguyễn Huệ tiến hành trên ba lãnh vực: chính
trị, quân sự và ngoại giao.
A. CHÍNH TRỊ:
Như trong biểu
Tôn Sĩ Nghị trình lên Hoàng Lịch,
“chính nghĩa” xâm lăng Ðại Việt” hay “An Nam”
là lời xin giúp đỡ của mẹ con Lê Duy Kỳ–một cơ hội
bằng vàng.
Mặc dù năm 1786
Nguyễn Huệ đưa Lê Duy Kỳ lên ngôi sau khi diệt họ
Trịnh, nhưng những biến cố trong hai năm kế tiếp–từ việc đòi đất
Nghệ An không thành, tham vọng phục hưng nghiệp
chúa của họ Trịnh, tham vọng của Nguyễn Hữu Chỉnh, rồi đến
chuyến ra bắc dẹp Chỉnh của Võ Văn Nhậm (hay Sĩ), con rể
Thái Ðức Nguyễn Nhạc cuối năm 1787, đầu năm 1788–khiến Duy
Kỳ phải bỏ kinh thành chạy đi khắp nơi tị nạn.
Tháng
11 Ðinh Mùi [9/12/1787-7/1/1788]: Võ Văn Nhậm ra
Thăng Long đánh Nguyễn Hữu Chỉnh. (ÐNTLCB, I, 2:70-1)
Tháng Chạp Ðinh Mùi [8/1-6/2/1788] Thăng Long:
Chiêu Thống chạy lên Kinh Bắc. Võ Văn Nhậm chiếm
thành Thăng Long. Chiêu
Thống
chạy
về
Gia Ðịnh [Gia Bình].
Trong hai tháng kế
tiếp, các cựu thần nhà Lê, kể cả một số
Hoàng thân ở Thanh Hóa và Hoàng đệ
Duy Chí ở Thái Nguyên dấy binh chống Tây Sơn.
Thổ hào Thái Nguyên và Tuyên Quang đều
hưởng ứng. Tháng 4-5/1788, từ Lạng Giang, Duy Kỳ xuống hịch
chống Tây Sơn. Nhân dịp này, Nguyễn Huệ ra bắc lần
thứ hai, diệt Võ Văn Nhậm. Vì không thuyết phục
được các Hoàng thân tôn mình
làm vua, Nguyễn Huệ đặt anh vợ là Lê Duy Cận
làm Giám quốc, Ðại Tư Mã Ngô Văn Sở
làm trấn phủ, rồi rút về Huế. (14)
Giống
như
hầu
hết
các nhà cầm quyền bị thua cuộc nào, mẹ
con Duy Kỳ cùng các thuộc hạ tìm cách cầu
viện nhà Thanh. Nguyên
trước đó, Lê Duy Kỳ sai bọn Trần Danh Ân và
Lê Duy Ðản mang thư sang Nam Kinh xin cầu viện nhưng
không thành công. Tháng 8/1788 [Tháng
7 Mậu Thân, 2-30/8/1788], mẹ Duy Kỳ chạy lên Cao Bằng, sai
đốc đồng Nguyễn Huy Tú đem thư sang Long Bằng [Long Châu
và Bằng Tường] xin cầu viện. Bị quân Tây Sơn truy
kích, bọn Nguyễn Huy Túc, Hoàng Ích Hiểu,
Lê Quýnh, Nguyễn Quốc Ðống đưa Hoàng
Thái Hậu chạy qua ải Thủy Khẩu, sang Long Châu. Rồi
kéo nhau đến Nam Ninh, khóc lóc thảm thiết trước
Tuần phủ Quảng Tây Tôn Vĩnh Thanh và Tôn Sĩ
Nghị, Tổng đốc Lưỡng Quảng–người chịu trách nhiệm việc ngoại
giao với Nam Man di và Tây phương. Vì Quảng
Châu là hải cảng duy nhất các thuyền buôn
ngoại quốc tới “thông hiếu,” Sĩ Nghị trên thực tế là
người phụ trách ngoại giao, và gọi tôn lên
là “Phó vương.”
Tôn Vĩnh Thanh
không muốn can thiệp. Chiến công
phá Xiêm (1785), diệt Trịnh (1786) của Nguyễn Huệ
và chủ trương ôn hòa khiến Vĩnh Thanh e ngại. Nhưng
Sĩ Nghị lại muốn nhân cơ hội này mở rộng ảnh hưởng. Nguyễn Chủng và
các nhà truyền giáo phần nào đóng
góp vào quyết định của Sĩ Nghị. Từ mùa Thu 1787,
nhân cơ hội anh em Tây Sơn bất hòa, gây cuộc
tương tàn, Chủng đã bí mật rời Krung-thêp về
miền nam, mang theo lê dương đủ quốc tịch, tái chiếm
Sài Gòn (Gia Ðịnh thành). Chủng cũng
liên minh với Xiêm và Lào, dự trù mở
thêm mặt trận phía tây, tấn công vào
Thuận Hóa hay Nghệ An. Vua Viêng Chăn Nanthasen
(1781-1795) và em là Inthavong hay Chao In [Chiêu
Ấn] công khai chống lại Tây Sơn. Nguyễn Chủng gửi người tới
mua chuộc nhà Thanh–nó rõ nội tình
Tây Sơn và tự nguyện giúp đỡ quân lương nếu
Sĩ Nghị tấn công An Nam. Bởi thế, Sĩ Nghị cho gọi bọn Lê
Quýnh tới tra hỏi tình hình, rồi sai binh bị đạo
Tả Giang (Tô Châu) đưa mẹ Duy Kỳ sang Nam Ninh chăm
sóc. Rồi dâng biểu lên Hoằng Lịch xin cứu
giúp Lê Duy Kỳ, mà tổ tiên đã cống lễ
cả ba trăm năm. Hoằng Lịch bàn với Nội các đại học sĩ
Hòa Khôn, và đồng ý cho Sĩ Nghị sử dụng lực
lượng từ Quảng Tây can thiệp, giúp Duy Kỳ tái chiếm
ngôi vua. Tiếp đó, truyền dụ cho Sĩ Nghị ra hịch cho
dân Việt về ý định “phò Lê.” Sĩ Nghị xin Hoằng Lịch co
phép dùng một hòn đá ném hai chim,
giúp đưa Duy Kỳ lên ngôi ở Hà Nội, rồi chia
quân đóng giữ miền bắc, và tùy theo diễn
biến áp lực Nguyễn Huệ phải chấp nhận cắt đất xin hàng. Tôn Vĩnh Thanh
không đồng ý, nói nên chờ đợi cho Tây
Sơn và Lê tranh hùng, sau đó sẽ quyết định.
Nhưng dù đã gần 80 tuổi, Hoằng Lịch vẫn nuôi tham
vọng mở rộng thánh đức, chấp thuận đề nghị của Sĩ Nghị, truyền
lệnh:
“Viện quân
nên từ từ, không nên hấp tấp. Hãy nên
đưa hịch truyền thanh thế đi trước, và cho các quan
nhà Lê về nước cử họp nghĩa binh tìm tự quân
nhà Lê đem ra đứng đầu để đối địch với [Nguyễn Huệ] thử
xem sự thể thế nào. Nếu lòng người nước Nam còn
nhớ nhà Lê, có quân ta đến, ai chẳng
giúp sức. [Nguyễn Huệ] tất phải tháo lui.
Vĩnh Thanh
bèn cáo ốm xin nghỉ, phó mặc cho Sĩ Nghị tổ chức
và điều động 200,000 binh mã Lưỡng Quảng, Vân Nam
và Quí Châu đưa Duy Kỳ về nước. (15)
Ðiều cả Sĩ Nghị
lẫn Hoằng Lịch sai lầm là uy thế của nhà Lê
đã phá sản trong dân chúng. Sau hơn 200 năm
thủ vai hình nhân giát vàng của chúa
Trịnh, dòng giõi Lê Lợi chỉ còn sự ủng hộ
của một thiểu số tham vọng tự xưng trung thần. Sau khi Nghị sai Lê
Quýnh cùng Nguyễn Quốc Ðống mang mật thư về trao cho
Duy Kỳ chuẩn bị đón Thanh binh và ấn vàng An Nam
Quốc Vương ở Hà Nội, nhóm cố vấn của Nguyễn Huệ
khuyên nên nhân cơ hội nhà Thanh can thiệp, đi
tìm cho mình sự chính thống hay thiên mệnh
mới–dù chỉ là một bản sắc phong cùng con ấn An Nam
Quốc Vương bằng bạc.
B. QUÂN SỰ:
Ngày 4/11/1788 [6/10
Mậu Thân], từ Phú Xuân, Nguyễn Huệ viết thư cho
Ngô Văn Sở [không ghi ngày], dặn dò chiến
thuật phòng thủ. Khi quân Thanh
vừa vượt qua biên giới, Sở cùng Giám quốc Lê
Duy Cận lui giữ Thanh Hóa. Ðêm 11-12/12/1788
[16-17/11 Mậu Thân Thanh], Phan Văn Lân thua trận Thị Cầu,
thiệt hại khá nặng. Ngày 12/12, quân Thanh qua
sông. Ba ngày sau, ngày 15/12/1788 [20/11 Mậu
Thân Thanh], Sĩ Nghị vào tới Hà Nội. Chia
quân một nửa đóng quanh Hà Nội. Một nửa ở bên
kia sông. Các làng mạc đánh trống ăn mừng].
Ngày 16/12 [21/11
Mậu Thân Thanh], Sĩ Nghị niêm yết sắc phong Duy Kỳ của
Càn Long. Trù tính sau khi ăn Tết xong sẽ tấn
công Tây Sơn.
Trong khi đó, Duy Kỳ
và thuộc hạ ra tay đền ơn, báo oán. Mổ bụng
đàn bà có thai với quan tướng Tây Sơn. Chặt
chân ba chú vua. Từ Nam Ninh về tới thủ đô, thấy
hành động của Duy Kỳ, Hoàng thái hậu phải than
lên: “Thôi diệt vong đến nơi rồi.” (16)
Ngày 22/12/1788
[25/11 Mậu Thân], tại Phú-Xuân, Nguyễn Huệ tự xưng
Hoàng đế. Lấy đế hiệu Quang Trung. Ngay trong ngày, mang
quân ra bắc.
Ngày 26 hay 27/12/1788
[29/11 hay1/12 Mậu Thân], Quang Trung tới Nghệ An.
Ðóng quân ở đây hơn 10 ngày. Lấy
thêm 80,000 quân Nghệ An và Thanh Hoa. Cứ 3 đinh lấy
1 lính. Quân Thuận-Quảng chia làm bốn [4] doanh,
tiền hậu, tả hữu. Tân binh Nghệ An làm trung quân.
Gồm hơn 100,000 quân, voi chiến vài trăm thớt. Duyệt đại
binh trước trấn dinh, rồi kéo ra bắc. (17)
Theo Liệt Truyện, ngày
15/1/1789 [20/12 Mậu Thân Việt], Quang Trung tới núi Tam
Ðiệp, ranh giới Thanh Hóa và Ninh Bình. Vua
cho lệnh ăn Tết trước, rồi hẹn ngày 7 tháng Giêng
[1/2/1789] sẽ ăn Tết ở Ðông đô.( 18)
Ngày 15/1/1789
này, theo tài liệu truyền giáo, quân
Tây Sơn đốt trọn một làng lớn gần Kẻ Vinh, Nam-Ðịnh. Lý do
là hương chức không nạp đủ số lính đòi hỏi.
Ðây là trụ sở giáo phận Tây Ðường
Ngoài của Giám mục Jacques Benjamin Longer (1752-1831). (19)
Ngày 16/1/1789
[23/12 Mậu Thân Thanh], quân Thanh được tin Quang Trung ra
tới Thanh Hóa, cho lệnh chuẩn bị chiến đấu.
Ðại quân
Tây Sơn chia làm ba mũi tiến về Hà Nội. Ðại Tư
Mã Sở và Nội hầu Lân chỉ huy mũi tiên phong.
Hố Hổ Hầu cùng đại đô đốc Lộc, đô đốc Tuyết đem hậu
quân và thủy sư vượt biển tiến về phía sông
Lục Ðầu. Ðô đốc Tuyết chỉ huy tuyến Hải Dương. Ðại
đô đốc Lộc tiến đánh Lạng Giang, Phượng Giang, Yên
Thế, nhằm chặn đường rút của quân giặc. Ðại đô
đốc Bảo, đô đốc Mưu đem Hữu quân và voi ngựa tăng
cường. Ðô đốc Mưu xuyên qua huyện Chương Ðức, tiến
đến làng Nhân Mục huyện Thanh Trì để tấn công
ngang hông quân Vân Nam. Ðô đốc Bảo
dẫn voi và quân đánh làng Ðại Áng
huyện Thanh Trì.
Tài điều binh
khiển tướng của Quang Trung cộng thêm khí thế bách
chiến bách thắng của Tây Sơn khiến quân
Lê–khâu yếu nhất của liên quân
Thanh-Lê–chưa đánh đã tan. Ngày 25/1/1789
[30 tháng Chạp Mậu Thân], quân Lê ở Sơn Nam tự
động rã ngũ. Quang Trung thúc
quân vượt sông Giản Thủy trong đêm trừ tịch. (20)
Ðúng Nguyên
đán Kỷ Dậu [26/1/1789, hoặc 24/1/1789 theo lịch Thanh] Quang
Trung ra tới Hà Hồi, thuộc huyện Thường Phúc, phủ Thường
Tín, Hà Ðông. Một số đơn vị từ núi
kéo xuống phối hợp đại quân tấn công quân
Thanh.
Mồng 3 Tết [28 hay 26/1/1789],
Ngô Văn Sở tiến đánh một số vị trí quân Thanh
ở Hà Ðông. Quân Tây Sơn tiến sát
thành Hà Nội. Trong đêm dùng loa kêu
gọi. Vài vạn người về hàng. (21)
Hôm sau, mồng 4 Tết
[29 hay 27/1/1789], quân Thanh phản công. Tử thủ được
các vị trí ở Hà Ðông. Trong
đêm
4-5/1
[30-31
hay 28-29/1/1789], quân Tây Sơn tổng
tấn công. Từ Thăng Long đến lũy Ngọc Hồi, quân
Thanh đáp đồn, đặt bảo chi chít, trí đại
bác trên lũy, lại đặt ngầm địa lôi chung quanh.
Ðích thân
Quang Trung cưỡi voi tham chiến. Sau, bỏ voi, cưỡi
ngựa. Nguồn tin các giáo sĩ ghi:
“Theo lời
đồn, ông đeo hai đoản đao và chạy ngang dọc chém
đầu nhiều sĩ quan và binh lính Thanh, làm nhiều
người chết dưới tay ông. Ông
luôn
miệng
hô
xung phong và lúc nào
cũng ở tuyến đầu.”
Theo các sử quan
nhà Nguyễn, quân Tây Sơn tiến sát đồn Ngọc
Hồi. Trên lũy đạn bắn xuống như mưa. [Nguyễn Huệ] cho lệnh binh
lính núp vào ván gỗ để xung trận,
còn mình cưỡi voi đốc chiến ở phía sau.... Hứa Thế Hanh, Tổng
binh Trương Sĩ Long và Thượng Duy Thăng chết tại Hà Hồi
và Ngọc Hồi. Thái thú Ðiền Châu Sầm Nghi
Ðống treo cổ tự tử ở Ðống Ða. Sĩ Nghị vội vã
rút quân về hướng bắc. Cầu sập, khoảng 3,000 binh Thanh
chết đuối. Khoảng 7,000 người khác bỏ xác tại trận.
Ngày ấy, Huệ xua
quân nhập thành, áo chiến bào biến
thành màu đen vì thuốc súng. [Thị nhật Huệ khu binh nhập thành, sở phục chiến
bào biến vi tiêu hắc sắc, giai hỏa dược khí
dã]. (Ngụy Tây, tr. 34B)
Người
nhà Thanh [ở gần biên giới] chấn động dữ dội, già
trẻ giắt dìu nhau chạy về hướng bắc. Cả trăm dặm tuyệt
không có người và khói [bếp]. [Thanh
nhân
đại
chấn
tự quan dĩ bắc lão ấu phù huề
bôn tẩu, số bách lý tuyệt vô nhân
yên]. (22)
Ngày 2/2/1789 [9/1 Kỷ
Dậu Thanh], Tôn Sĩ Nghị mới chạy thoát vào Trấn Nam
Quan. Duy Kỳ [Chiêu Thống] cùng Hoàng
thái hậu cũng chạy theo. Tới Trấn Nam Quan, Duy Kỳ muốn ở lại
kháng chiến, nhưng Sĩ Nghị thuyết phục vua sang thành Quế
Lâm, sẽ có quân tăng viện. Duy Kỳ bèn
cùng 25 người khác vượt biên qua TH.
Quang Trung
và các cố vấn không đuổi tận, diệt tuyệt. Sau
đó Quang Trung trở lại Huế, chuyển chiến lợi phẩm về miền Trung
bằng đường bộ; gồm đại bác, tiền bạc, v.. v... Cử Quang
Thùy coi Bắc thành, Võ Văn Dũng phụ tá;
Quang Bàn giữ Thanh Hoa; Nguyễn Văn Duệ trấn thủ Nghệ An.
Giám Mục La Mothe
nhận định:
“Ông ta
[Quang Trung] đã cho đem về Phú Xuân và về
tân Kinh đô của ông bằng đường bộ chứ không
phải bằng đường thủy . . . . hai, ba
nghìn cỗ đại bác và súng thần công,
không biết bao nhiêu là súng dài
và khí giới khác cùng với số tiền bạc
và tất cả những vật liệu quý giá bắt được của
quân Trung Hoa. Ðó, kết quả của cuộc chinh phạt ấy
là như vậy, nó đem đến đau đớn và nhục nhã
cho quân Trung Hoa và lợi lộc cùng vẻ vang cho
quân Tây Sơn...
“Tiếm Vương dũng cảm
và tàn bạo, chúa tể [Bắc Ðường Trong]
và [Ðường Ngoài] không mấy lo sợ quân đội
gồm người Ấn Ðộ, Xiêm, Trung Hoa và Bồ Ðào
Nha... Ngay đến Hoàng đế Trung Hoa cũng có vẻ vì
nể Tân Attila này vì ngài vừa mới phong
ông làm vua [Ðường Ngoài] qua trung gian một vị
đại sứ, quên cả việc 50,000 binh lính Trung Hoa đã
chết vì tay Tiếm Vương năm ngoái chỉ trong một trận giao
chiến thôi.” (23)
Những điều Trần Trọng
Kim, Hoa Bằng viết về Quang Trung hay nhà Tây Sơn hầu như
trích dẫn nguyên văn từ sử Nguyễn. Nói cách
khác, Trần Trọng Kim có thể ghét nhà Nguyễn
(trước ngày lên làm Thủ tướng vào
tháng 4/1945), nhưng việc ca tụng vua Quang Trung chẳng
dính nhập gì đến sự yêu ghét của riêng
ông.
C. NGOẠI GIAO:
Từ ngày
14/1/1789 [21/12 Mậu Thân Thanh], có tin Hoằng Lịch bỗng
đổi ý, sai chạy ngựa trạm qua Hà Nội, lệnh cho Sĩ Nghị
triệt thoái. Tuy nhiên quá chậm. Lệnh chưa tới nơi,
Nghị đã thua trận. (24)
Hoằng Lịch
bèn sai Phúc Khang An làm Tổng đốc Lưỡng Quảng;
và dự định đưa quân qua phục thù. Kinh nghiệm “thông hiếu” gần tám thế
kỷ khiến Quang Trung lùi một bước, sai sứ xin cầu hòa.
Theo Liệt Truyện,
trong khi đánh nhau với nhà Thanh, Tây Sơn bắt được
sắc thư của Càn Long [Qainlong] cho Sĩ Nghị về kế hoạch
đánh chiếm Ðại Việt. Sau đó, có Thang
Hùng Nghiệp, binh bị đạo Giang Tô [Tả], viết thư
khuyên Quang Trung nên vào chầu nhà Thanh,
vì Hoằng Lịch không có chủ tâm lấy lại nước
Việt. Dù coi khinh nhà Thanh, Quang Trung vẫn muốn
tránh việc binh đao, nên sai tướng là Hố Hổ Hầu
mang biểu qua xin sắc phong. Trong tờ biểu, qui trách tội lỗi
cho Sĩ Nghị. Thang Nghiệp không dám chuyển đạt. Quang
Trung cho Ngô Thì Nhiệm và Phan Huy Ích phụ
trách việc bang giao, rồi rút quân về Huế. (25)
Sau Phúc
Khang An đến Việt Tây, ngỏ ý muốn giảng hòa, đưa
thư chiêu dụ. Tháng 2-3/1789
[tháng 2 Kỷ Dậu, 25/2-26/3/1789], Ngô Thì Nhiệm
bí mật gặp Khang An.
Tháng 4-5/1789 [4 Kỷ
Dậu, 25/4-24/5/1789], Khang An tới Quế Lâm. Tuyên bố trời
nóng nực phải tạm ngưng việc binh, và yêu cầu Duy
Kỳ gióc tóc theo nhà Thanh để chuẩn bị về
đánh Tây Sơn. Lê Chiêu
Thống nghe theo, chạy qua Quế Lâm cùng 25 người
khác. Sau
đó, Khang An mật tâu Duy Kỳ đã xin nhập nhà
Thanh, tiếp sứ Tây Sơn. (26)
Mùa Hè
1789, Nguyễn Huệ sai cháu là Nguyễn Quang Hiển
cùng Vũ Huy Tấn mang vàng bạc qua xin yết kiến Càn
Long. Ðọc được tờ sớ do Phúc Khang An giúp phần soạn
thảo, Càn Long vui lắm, đồng ý phong vương cho Quang
Trung–lúc này đã đổi tên thành Nguyễn
Quang Bình, có lẽ do thuộc hạ Hoằng Lịch đề nghị; hẹn năm
sau khi Quang Bình tới Yên Kinh mừng thượng thọ 80 tuổi,
sẽ chính thức phong làm An Nam Quốc Vương. Nhưng sau
đó, đồng ý cho sứ đoàn Nguyễn Quang Hiển mang về
sắc phong từ ngày 1/12/1789 [15/10 Kỷ Dậu]. (27)
Quang Trung gửi một
phái đoàn lên Yên Kinh tạ ơn, hứa sẽ qua dự
lễ thượng thọ bát tuần của Hoằng Lịch vào tháng 8
Canh Tuất [9/9-7/10/1790]. Ðồng thời, gửi một
phái đoàn khác qua nạp cống lễ theo định kỳ.
Lượng trên như trời
đất cha mẹ, khó thể hình dung, [Thiên địa phụ
mẫu chi vi lượng, cố mạc đức nhi hình dung],
Phận nhỏ
mọn như hạt bụi, bọt nước, biết cách nào báo
đáp. [Trần nhưỡng quyên
tích chi chí vi, thật hà giai nhi báo xứng!]
Ngày
15
tháng
10
[1/12/1789], kính cẩn lãnh thụ ngự thi
và sắc thư, từ nay chăn dắt đất Nam Giao, thần đời đời con
cháu, tuân theo thánh huấn, mãi mãi
phụng sự nhà Ðại Thanh. [vu thập nguyệt thập ngũ nhật kính cẩn lĩnh thụ ngự
thi sắc thư, tòng thử ti mục Nam Giao, thần thế thế tử
tôn, khác tuân thánh huấn, vĩnh phụng Ðại
Thanh].
Theo tài liệu Thanh,
năm sau, Nguyễn Quang Bình y hẹn, dẫn nhóm Ðại thần
Ngô Văn Sở, Ðặng Văn Chân, Phan Huy Ích, Vũ Huy
Tấn, Vũ Danh Tiêu, Nguyễn Văn Lỗ, Ðỗ Văn Công
cùng đi. Phúc Khang An và Tuần phủ Quảng Tây
Tôn Vĩnh Thanh tháp tùng. (ÐNTLCB,
I,
2:113-14)
Theo tài liệu Nguyễn,
thấy Quang Trung nhiều lần tìm cách trì
hoãn, Phúc Khang An đưa ra kế gửi một người giả giống
Quang Trung lên Yên Kinh. Tháng Ba
Canh Tuất [14/4-13/5/1790]: Nguyễn Huệ sai người đi sứ Yên Kinh. Huệ
cho
người
cháu
gọi bằng cậu là Phạm Công Trị,
nét mặt giống mình vào chầu Càn Long.
Có Ngô Văn Sở và Phan Huy Ích đi theo.
Càn Long phong Huệ làm An Nam Quốc Vương.
(28)
Biết hay không
biết sự thực, Ái Tân Giác La Hoằng Lịch vẫn ra sức
trình diễn sự hiện diện lịch sử của phái bộ “Nguyễn Quang
Bình” ở Nhiệt Hà, như vào chầu ra mắt, làm
lễ bảo tất [ôm đầu gối]. Hoằng Lịch còn
đích thân viết bốn chữ đại tự “củng cực qui thành”
[nghĩa là “chầu vào ngôi sao Bắc đẩu, hết
lòng qui phục] và một đôi câu đối. Sau
đó, ban một bài thơ có câu nhắc nhở với
ý chê trách tục cống tượng người vàng từ
thời nhà Lê. Trước khi về nước, còn cho gọi đến
bên giường, an ủi, vỗ về, tăng một chữ Phúc cùng
nhiều quà cáp. (29)
Một câu hỏi
không thể không đặt ra là nên tin vào
sử sách Thanh hay tài liệu Việt? Có ít nhất
ba lý do để tin sử quan Nguyễn hơn Thanh.
Thứ nhất, sử quan Nguyễn
khó có lý do để bịa đặt ra chi tiết Phúc
Khang An bày mưu cho Quang Trung đưa người giả mạo lên
Yên Kinh, vì quốc sử Nguyễn đã nhiều đời ra sức
lăng nhục và trừng trị anh em, con cháu nhà
Tây Sơn. Minh Mạng còn chứng tỏ bản chất man rợ qua việc
dùng đầu lâu anh em Tây Sơn làm đồ đựng nước
tiểu. Tới đời Thiệu Trị, khóa nhốt vào ngục thất. Quốc sử
thì dành cả một quyển Ngụy Tây để nêu
rõ tội trạng Tây Sơn.
Thứ hai, có
một luật bất thành văn trong giới lạnh đạo Việt–khởi đi từ kinh
nghiệm nhà Zhao [Triệu]: “không đích thân
vào triều cống.” Vua Trần đã hai lần chấp nhận cảnh binh
lửa thay vì “vào chầu” Qublai Khan [Hốt Tất Liệt]. Quang Trung cũng đang ở
vào thế mạnh, nuôi hùng tâm khôi phục
tất cả những đất đai đã mất.
Thứ ba, năm 1790 là năm
cực kỳ nghiêm trọng cho nhà Tây Sơn. Liên minh
Nguyễn Chủng-Rama I thế lực đang lên. Bí mật rời
Xiêm ngày 13/8/1887, Nguyễn Chủng đã chiếm lại
Sài Gòn từ ngày 7/9/1788 [8/8 Mậu Thân]. (30)
Tư lệnh Tây Sơn
miền nam là Phạm Văn Sâm rút về Ba Thắc, rồi đầu
hàng. Thế lực Chủng ngày một gia tăng, nhất là hải
quân. Lính Lê dương Pháp của Pigneau de
Béhaine lục tục kéo đến, ngày một đông đảo.
Các giáo sĩ Âu Châu, từ nam chí bắc,
đều phò “ông Chủng,” chống Tây Sơn.
Ðồng thời, Krungthêp
vẫn chưa nguôi ngoai mối hận bại trận năm 1785, sử dụng vua
Viêng Chăn Nanthasen (1781-1795) cùng em là
Inthavong hay Chao In mở mặt trận phía tây đối diện Nghệ
An và Thuận Hóa. (31)
Năm 1790, Quang
Trung sai đốc trấn Nghệ An Trần Quang Diệu làm tổng quản,
cùng đô đốc Nguyễn Văn Uyển đem 5,000 quân theo
thượng đạo đi đánh Viêng Chăn. Tháng 7-8/1790 [6
Canh Tuất, 12/7-9/8/1790], lấy được Trấn Ninh, Trịnh Cao, Qui Hợp. Tháng 11-12/1790 [10
Canh Tuất, 7/11-5/12/1790], tiến đến Vạn Tượng, sát biên
giới Xiêm La. Chém Phan Dung, Phan
Siêu, rồi kéo quân về Bảo Lạc. Quang Trung sai Vũ
Vĩnh Thành, Trần Ngọc Thị qua nhà Thanh báo tin.
Tiếng là kính thuận, nhưng ra để khoe. Là một danh
tướng, thật khó nghĩ Quang Trung phó mặc cho Trần Quang
Diệu đơn độc tiến hành chiến dịch có tầm mức an nguy cho
cả vương quốc, đi Yên Kinh dự yến, họa thơ. Hơn nữa, theo
tài liệu Thái, truyền giáo và nhà
Nguyễn, Trần Quang Diệu còn nhận nhiệm vụ chuẩn bị một chiến
dịch sử dụng đường thượng đạo Trường Sơn tấn công Sài
Gòn. (32)
Mặc dù tình
báo của Nguyễn Chủng, Xiêm La và các
nhà truyền giáo Pháp tiết lộ tin Quang Trung giả,
nhưng Hoằng Lịch và triều Thanh–do ảnh hưởng Phúc Khang
An–chỉ quay mặt làm ngơ. Thân ái mời Quang Trung
giả đến bên giường an ủi, ban tặng chữ “Phúc” cùng
nhiều lễ vật trước khi về nước. Sau đó, thỏa mãn mọi
yêu cầu của “Quang Trung,” từ mở chợ thông thương ở cửa ải
Bình Thủy, Cao Bằng, cửa ải Du Thôn ở trấn Lạng Sơn. Lập
nhà hàng ở Nam Ninh. Quang Trung
còn định đòi lại sáu [6] châu ở Hưng
Hóa, ba [3] động ở Tuyên Quang đã bị nhà
Thanh tằm thực vào cuối đời Lê. Sau khi tổng đốc Lưỡng Quảng
nhiều lần từ chối, Quang Trung móc nối với giặc biển Tề
Ngôi, Thiên Ðịa Hội, chuẩn bị binh thuyền nhòm
ngó Lưỡng Quảng. Lại thực hiện thẻ “tín bài” để
kiểm soát dân đinh.
Năm 1792, Quang Trung
còn cho soạn biểu xin cầu hôn công chúa
nhà Thanh. Tuy nhiên, bị bạo bệnh đột ngột từ trần,
nên dấu việc này đi.
Ðiểm đáng
chú ý là tài liệu truyền giáo im
lặng về chuyến đi này, trong khi cung cấp nhiều thông tin
về về mặt trận Ai Lao–dù chỉ là những nguồn tin loại
“hearsay” quen thuộc. Bởi thế, cho tới khi có tài liệu
chứng minh ngược lại, khó thể bác việc Quang Trung giả
đã tới Yên Kinh và Nhiệt Hà năm 1790.
III: TRUYỀN THUYẾT
“CHIÊU THỐNG:”
Phần Lê Duy Kỳ
và tùy tùng, tháng Chạp Kỷ Dậu
[15/1-13/2/1790], mới tới Yên Kinh. Ðược
nhà Thanh cho mũ áo tam phẩm. Sau đó thuộc hạ bị
phân tán đi các nơi, chỉ còn lại hai người
hầu cận.
Ngày
19/11/1793 [ngày Ất Tị, 16/10 Quí Sửu], Duy Kỳ chết tại
Yên Kinh. Hơn
mười
năm
sau,
tháng 3-4/1804 (tháng 2 Giáp
Tí, 12/3-19/4/1804), Ngung Diễm (Nhân Tông,
1796-1820 [Gia Khánh]) cho lệnh đưa về nước. Mở quan tài
ra, trái tim vẫn chưa tiêu. Tháng 12/1804
(tháng 11 Giáp Tí, 2-31/12/1804), táng ở
lăng Bàng Thạch. (33)
Dưới thời Pháp
thuộc–qua thứ kiến thức lịch sử lớp tiểu học–bùng lên
những lời buộc tội Chiêu Thống Lê Duy Kỳ thật nặng nề, như
“cõng rắn cắn gà nhà.” Loại lịch sử nhiều người
viết này–chẳng rõ ai là tác giả–đơn giản
hóa sự việc đến cùng cực.
Thừa hưởng võ
công phục quốc 1418-1427 của Lê Lợi, con cháu
nhà Hậu Lê (1428-1527) đã được sử dụng làm
vòng hoa vương giả chính thống, trong cuộc tranh đoạt
quyền lực giữa nhiều phe nhóm: nhà Mạc (1527-1593,
1595-1677), Nguyễn Kim (Cam, 1533-1545) và con cháu
(1600-1776, 1788-1802), họ Trịnh (1585-1787), Tây Sơn
(1773-1802), cùng các châu mục và thủ lĩnh
thiểu số ở tây bắc như Vũ Văn Mật, Hoàng Công Chất
(giặc Khâu Mắt), v.. v..
Lê Duy Kỳ
không phải là người đầu tiên hay cuối cùng
“cõng rắn cắn gà nhà.” Lịch sử “anh hùng
khất thực” và “cõng rắn” kéo dài tới năm
1975, do cả hai chế độ quốc-cộng tác động, với đầy đủ bi
hài.
Duy Kỳ, thực ra chỉ
là nạn nhân của tham vọng quyền lực, sự cận thị lịch sử,
nên huyền thoại khi chết đã hàng chục năm mà
trái tim còn đỏ đáng là bài học
ngàn đời, nhưng ít ai tìm hiểu. Là sản phẩm
của phe nhóm Nguyễn Kim và họ Trịnh ở Thanh Hóa–từ
Lê Trang Tông, “con” Lê Chiêu Tông, tới
Lê Hiển Tông, các vua Lê trở thành
Nghiêu Thuấn, chỉ buông tay áo cho người khác
cai trị. Không những nắm hết thực quyền, chúa Trịnh
đã duy trì con cháu nhà Lê vì
rất nhiều lý do ngoại trừ lòng trung thành với
nhà Lê. Các triều thần hầu như chỉ biết đến phủ
chúa (chính phủ) hơn điện vua. Mặc dù từ Lê
Anh Tông về sau, dòng giõi Lê Lợi đã
được phục hưng, nhưng chỉ những người mang giòng máu họ
Trịnh mới được đưa lên ngôi. Hiển Tông ngồi
trên ngai vàng được lâu dài nhờ đặc
tính nhẫn nhục, chấp nhận cả việc chúa Trịnh bắt con
trưởng mình mang đi thủ tiêu. Duy Kỳ–tên thực Duy
Khiêm–đích thân nghiệm chứng nỗi khủng hoảng ấy của
ông nội và cha. Ðược Nguyễn Huệ miễn cưỡng đưa
lên ngôi, Duy Kỳ sớm nhận chân được thân phận
một ông vua ở ngôi nhưng không cai trị. Những
tác nhân có thế lực–từ Ðinh Tích Nhưỡng,
Trịnh Bồng, Trịnh Lệ, tới Nguyễn Hữu Chỉnh–khiến Duy Kỳ chẳng được một
tháng yên ổn. Lưu vong khỏi kinh thành năm 1788,
Duy Kỳ được chuyền từ tay cường thần này tới thổ hào
khác. Nhờ vả đến nhà Thanh là biện pháp
cuối cùng–nhưng quái ác thay, đó là
con đường mòn quen thuộc của bất cứ con cháu một
nhà cai trị thất thế nào. Con cháu nhà
Trần, nhà Mạc, và ngay cả Nguyễn Kim (Cam)
đều
từng
kiện
đến triều Trung Hoa xin phân xử “tội cướp
ngôi” của đối thủ. Trường hợp Nguyễn Chủng (Gia Long), và
rồi Hường Nhiệm (Tự Ðức) còn có phần tệ hại hơn.
Nguyễn Chủng gọi Rama I là cha, xưng con, cúng hoa
vàng, hoa bạc, cắt đất xin viện binh, vì “chín đời
báo thù mới là đại nghĩa.” Hường Nhiệm (Tự
Ðức), lúc gần cuối đời, gọi người Việt là “Hán
nhân,” muốn đổi quốc hiệu thành “Tống,” rồi xin nội thuộc
Từ Hi Thái Hậu với ảo tưởng ở sự tốt bụng của thiên
triều–ngàn năm sau hẳn còn chịu trách nhiệm trước
lịch sử và dư luận.
Kêt Từ:
Dù đầy thiếu
sót, một số chi tiết về vua Quang Trung hay nhà Tây
Sơn trong các bộ quốc sử Nguyễn khá hữu ích cho
người nghiên cứu đời sau.
Hãy thử đọc về
Quang Trung dưới ngòi bút sử quan Nguyễn:
[Nguyễn Văn Huệ] tiếng
nói như chuông to, mắt lập lòe như ánh chớp,
là người thông minh, giảo hoạt, giỏi chiến đấu, người
người đều kinh sợ [thanh như cự chung, mục thiêm
thiểm nhược điện quang, giảo hiệt, thiện đấu, nhân giai đạn chi].
(34)
Nếu tạm quên hai
chữ “giảo quyệt” sử quan nhà Nguyễn đã để lại cho người
đời sau những nét phác họa khá chính
xác về vua Quang Trung: một đại tướng thiện chiến, thông
minh, tiếng nói như chuông, mắt sáng quắc, uy dũng
rất mực. Và nếu bỏ đi những chữ “ngụy” đằng trước tên
Nguyễn Huệ, hay các đại tướng nhà Tây Sơn, người
đọc có cảm tưởng sử quan nhà Nguyễn đã không
dấu vẻ khâm phục tài điều binh, khiển tướng của Quang
Trung:
Năm 1775, khi mới 23
tuổi, đã đánh phá được Phú Yên, được
Hoàng Ngũ Phúc phong làm Tây sơn hiệu Tiền
phong Tướng quân. Năm 1786, khi đã 34 tuổi, đánh
bại 30,000 quân Trịnh của Phạm Ngô Cầu, lấy được Phú
xuân. Giết hết quân Trịnh. (ÐNCBLT, q. 30 (1970), tờ 19)
. . . . Trịnh Khải chạy
lên Sơn Tây bị dân phản nghịch lừa bắt đưa đến nạp
cho quân Tây Sơn. Dọc đường, Khải cứa cổ tự tử. Nguyễn Huệ
vỗ thây Trịnh Khải, nói: “Ðáng tiếc một hảo Nam
tử. Lúc đầu nếu sớm đón rước mà đầu hàng
thì hẳn không mất phú quí. Sao lại khổ tự
hủy mạng?” [Khả tích hảo Nam tử. Ðương sơ nhược
tảo tảo nghinh hàng, đương bất thất phú quí,
hà khổ tự tương mệnh.]
Rồi dùng nghi lễ
bậc vương tử mà an táng Trịnh Khải. (35)
Những khiếm khuyết
nêu trên về nhà Tây Sơn, các vua Nguyễn
chịu trách nhiệm không nhỏ. Chỉ vì lòng hận
thù–nói theo vua Gia Long, “chín đời báo
thù mới là đại nghĩa”–họ đã hủy diệt hầu hết di
tích của nhà Tây Sơn, khiến những chiến công
như đại phá quân Xiêm và quân Thanh bị
mai một. Ngay đến Tự Ðức, người tự hào là sử gia
chân chính theo khuôn khổ Khổng giáo, cũng
không cho các sử quan nghiên cứu rõ
ràng hơn về nhà Tây Sơn. Thật đáng tiếc!
Nhưng các vua
nhà Nguyễn không phải là những người đầu tiên
hoặc cuối cùng đã có hành động mà
thế giới ngày nay lên án là “cultural
barbarism” [sự mọi rợ văn hóa].” Thực ra, họ cũng chỉ bắt chước
những Tần Thủy Hoàng ở Trung Hoa, quan tướng nhà Minh
vào đầu thế kỷ XV ở Ðại Việt, hay vua quan Roma sau thế kỷ
thứ III–tức hủy diệt bất cứ chứng tích nào đi ngược lại
sự “chính thống” hay “hồng ân” của những kẻ cầm quyền.
Những cuộc thảm sát dân Do Thái, hạ ngục và
đốt sống các trí thức lỗi lạc xảy ra hàng
sáu bảy thế kỷ trước ngày chủ thuyết Cộng Sản chào
đời. Giáo Hoàng John Paul XXII đã nhiều lần
công khai xin lỗi các nạn nhân, nhưng quá
chậm và quá ít.
Sau năm 1975, chế độ Cộng
Sản–cùng với các bạn đồng chí cách mạng
vô sản Khmer Ðỏ–cũng ra công đốt sách vở “ngụy,
và phản động,” viết lại lịch sử. Nhưng giấy nào
gói được lửa? Một sử gia trong nước còn cho biết
không có việc xe tăng húc nghiêng cổng Dinh
Ðộc Lập ngày 30/4/1975, mà cảnh này đã
được trình diễn quay phim về sau!
Mặc dù Trung
Tâm Lưu Trữ Quốc Gia 2 tại thành phố Hồ Chí Minh
còn giữ các kho tư liệu Phủ Tổng thống Ðệ nhất Cộng
Hòa và Ðệ Nhị Cộng Hòa, cùng kho Phủ
thủ tướng, nhưng tình trạng bảo quản cần được cải thiện. (Hy
vọng các quốc gia Pháp, Mỹ, Nhật, v.. v... giúp
sớm thực hiện việc sao chụp vào máy vi tính
toàn bộ các tư liệu trên)
Houston, 16/2/2010
Xuân Canh Dần
Chính
Ðạo
© 2010, by
Chieu N. Vu. All Rights Reserved
Phụ
Chú:
Những chữ viết tắt:
BAVH: Bulletin des Amis
de Vieux Hué [Thành tích Hội Bạn Huế cổ, tức
Ðô thành hiếu cổ]
BEFEO:
Bulletin de l’Ecole francaise d’Extrême-Orient. [Thành
tích
trường
Viễn
Ðông Pháp, thường biết như
Viễn Ðông Bác Cổ]
CM, CB: Khâm
Ðịnh Việt Sử Thông Giám Cương Mục.
ÐNCBLT: Ðại Nam
Chính Biên Liệt Truyện: Bản dịch Sài Gòn:
1970, và Huế: 1993.
ÐNTLCB: Ðại
Nam
Thực Lục Chính Biên, 38 tập. Bản dịch Hà Nội.
1. Xem
Nguyên Vũ Vũ Ngự Chiêu, “Ðất đai Việt Nam bị Trung Hoa
Nhân Dân Cộng Hòa Quốc xâm chiếm;” Hợp Lưu
Magazine (Fountain Valley, CA), No. 105
(5-6/2009), tr. 5-32; Việt Nam Thời Báo (San Jose), số 5103, Thứ
Bảy-Chủ Nhật, 11-12/7/2009, & 5104, Thứ Ba, 14/7/2009; Ðặc San
Mũ Ðỏ (Nhảy Dù, San Jose), Xuân Canh Dần (2010), v..
v.. Xem thêm Lê Tắc, An Nam Chí Lược, bản dịch Trần
Kính Hòa et al. (Huế: Ðại học Huế, 1961), mục thư sớ,
và Phan Huy Chú, Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí,
bản dịch Viện Sử học, 3 tập (Hà Nội: 1992), q. 46-49: “Bang Giao
Chí,” III:165-218.
2. CM CB 47:35-39; 1998,
II:840-45.
3.
ÐNCBLT,
q.
1, [Việt
ngữ, (Hà Nội, 1963) II:81; CM, 47:41; 1998, tập II, tr. 847;)
4. ÐNCBLT, q. 30
[Ngụy Tây], tr. 30B; 1993, II:515]
5. Ngụy Nguyên,
“Càn Long Chinh vũ An Nam ký [1842];”dẫn trong
Hoàng Xuân Hãn, Toàn Thư, II:1341-42.
6. Ðặng Phương Nghi,
Một vài sử liệu về Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ, tr. 198.
7. ÐNCBLT, q. 30
[Ngụy Tây], tr. 34B.
8. CM,CB, XLVII:33-36;
[1998], II:838-39.
9. ÐNTLCB, I, 2:81)
10. ÐNCBLT, q. 30,
Ngụy Tây, 1993, II:516. Một dã sử Trung Hoa ghi trận
đánh này xảy ra đêm 11-12/12/1788 [16-17/11 Mậu
Thân Thanh]; Trần Nguyên Nhiếp [Lý Hoàn],
“Quân Doanh Kỉ Lược;” bản dịch Nguyễn Duy Chính. Ghi 423
tù binh cũng bị giết. Dọc đường tiến quân về Hà
Nội, 115 người khác bị giết).
11. ÐNCBLT,
q.
30, Ngụy Tây, (Sài Gòn: 1970);
(Huế: 1993),
II:517 [503-30] (Huệ).
12. Ðặng Phương Nghi,
Một vài sử liệu về Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ, tr. 198)
13. Trần Nguyên
Nhiếp [Lý Hoàn], “Quân Doanh Kỉ Lược;” bản dịch
Nguyễn Duy Chính). Tuy nhiên, nhiều chi tiết sai lầm như
vừa qua Trấn Nam Quan đã tới Mục Mã (phủ Cao Bằng từ đời
Tây Sơn), nơi cỏ hai bên đường chia đôi như ranh giới
tự nhiên! Nếu vừa qua biên giới đã thấy cỏ chia
đôi bờ bắc-nam, trục tiến quân có lẽ từ Khâm
Châu sang Quảng Yên. Người viết lại dã sử đã
hỗn loạn, thiếu hiểu biết về các địa danh dài theo
biên giới đông bắc Việt-Hoa.)
14. ÐNTLCB,
2:72;
CM
CB,
47:27-30; 1998, IIá:831-35.
15. ÐNCBLT, q. 30,
Ngụy Tây; 1993, II:514-15; ÐNTLCB, I, 2:81 [không ghi
ngày]; CM CB 47:32-33; 1998:837-38)
16. CM CB 47:35-39; 1998,
II:840-45.
17. ÐNCBLT,
q.
30; (1970), 13B-14B; 1993, II:517 [503-30] (Huệ); CM,
47:39-40,
1998, II:845; ÐNTLCB, I, 2:83; [không ghi ngày]
18. ÐNCBLT, q. 30;
(1970), 13B-14B [tr.57]; 1993, II:517 [503-530] (Huệ). Có tin
ngày 14/1/1789 [19/12 Mậu Thân Việt],
19. Tới Ðại Việt năm
1776, Longer từng thành lập tiểu chủng viện An Ninh ở cửa
Tùng (Quảng Trị), và lên chức Giám mục
ngày 3/4/1787. Chính thức thụ phong ở Macao ngày
4/12/1892. Chết ở Kẻ Vinh ngày 2/2/1831.
20. ÐNCBLT, q. 30; (1970), 13B-14B [tr. ]; 1993,
II:518 [503-30] (Huệ).
21. ÐNCBLT, q. 30; (1970), 13B-14B [tr. ]; 1993,
II:518-519 [503-30] (Huệ).
22. ÐNCBLT,
q.30,
Ngụy
Tây,
tr. 34B-35A)
23 Ðặng Phương Nghi,
op. cit., tr. 210-11.
24. D. M., “ Một
chút tài liệu về trận đánh quân Mãn
Thanh năm 1789;” NCLS, No. 170 (9-10/1976), tr. 81. [Dẫn Takashi
Inoguchi, Thử bàn về trật tự thế giới Ðông Á
truyền thống])
25. ÐNCBLT, q. 30,
1993, II:520-22 [Nguyễn Văn Huệ]).
26. CM, CB XLVII:43-44;
1998, II:849-50.
27. ÐNCBLT, q. 30,
1993, II:522-23 [Nguyễn Văn Huệ]).
28. ÐNCBLT, q. 30,
1993, II:524 [Nguyễn Văn Huệ]).
29.
ÐNTLCB,
I, 2:113-14; ÐNCBLT, q. 30,
1993, IIá:524-25 [Nguyễn Văn Huệ]).
30.
ÐNTLCB, I, 2:76-7; Thư ngày 24/12 Mậu Thân
[19/1/1789], Nguyễn Chủng gửi Jacques Liot; L. Cadière,
“Nguyễn
Ánh
et
la Mission;”
BAVH,
XIII,
1,
1926: 47-8)
31. Nanthasen là
con lớn vua Siribunyasan (1760-1779), bị chết khi Xiêm làm
cỏ Vạn Tượng năm 1779. Nanthasen từng chỉ huy quân sự chống cuộc
xâm lăng của Xiêm. Bị Bodinthondecha hay Ratchasuphawadi
bắt về Bangkok
cùng toàn gia. Năm 1781 Nanthasen được đưa về làm
vua Vạn Tượng. Năm 1792 [1790 hay 1791?] đánh nhau lớn với
Tây Sơn. Chiếm được Luang Prabang và Sam Nua. [Chao
Praikosa là bảo hộ] Năm 1795, Inthavong (1795-1804) lên
thay Nanthasen; với Anu, em út, làm Phó vương. Lưu
Phước Tường từng tới đây. Na Khi [Nanthasen] qui thuận. [II:143]
32. ÐNTLCB,
I,2:154-55; L. Cadière, “Documents relatifs
à l’époque de Gia Long;” BEFEO, 1912, p. 26; Pierre
Jacques Lemonier de Labissachère, État actuel du Tonkin,
de la Cochinchine et des royaumes du Cambodge, Laos et Lactho, 2 vols
(Paris: Edouard Champion, 1812, 1820), p. 51.
33. CM, CB XLVII:48;
1998, II:854.
34. Ngụy Tây, q.
30, tr. 17B [72-3 phần Việt ngữ])
35. ÐNCB
LT, q. 30, (1970), tờ 19, 22.
Nguồn:
http://www.hopluu.net
|