Năm Thứ 4889

www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com



  Quan Điểm


Quan Điểm Về Truyền Thông

Thông tin đa chiều là thể hiện tinh thần Dân Chủ & Đa Nguyên và đồng tiến bộ với nhân loại trong thiên niên kỷ mới.




Quan Điểm Về Sách Lược Đ
ấu Tranh

"Bất chiến tự nhiên thành" chi kế

Văn Hiến ngàn năm sử đă đề
Giải trừ quốc nạn bằng Tâm Lực
"Nhân Chủ (Tự Chủ) - An Vi (An Lạc)" khai lối về




Quan Điểm Về Phá Quân Xâm Lược

"Bất chiến tự nhiên thành" chi kế
Văn Hiến ngàn năm sử đă đề
 
Phá quân Hán tặc bằng Tâm Lực
Khôi phục biển Đông vẹn nguyện thề
(chi tiết trong video Kế Phá Giặc Hán)



Quan Điểm Về Thế Lực Quốc Tế

Nước nhỏ và nghèo nên bị "đồng minh"
Chẳng ai thương dân Việt bằng chính ḿnh
V́ quyền và lợi thế lực chia-chạy
Mỹ, Nga, Tàu, Pháp...: Ngu dại mới tin

(Một nhà lănh đạo anh minh là biết vận dụng thế lực quốc tế trong nhất thời để giành được Tự Chủ mà không bao giờ tin tuởng vào những hứa hẹn để bị lừa gạt và khống chế như đảng CSVN đang bị Tàu nô dịch hiện nay !)


Quan Điểm Về Hành Động


Lấy Nhân Tâm làm phương tiện
Dụng Dân Tâm làm sách lược An Dân & Lạc Quốc
Là Kim Chỉ Nam của thể chế Dân Chủ Văn Hiến.


Lấy T́nh Người thay cho hận thù và dối trá
Lấy Nghĩa Làm Người thay cho tham nhũng và độc quyền
Là Phương Châm hành xử của một Nghĩa Sỹ Văn Hiến











  Đề Tài



8- Có Nên Tin Hoa Kỳ Không?(bấm vào để đọc)
7 - Không Thoả Hiệp (bấm vào để đọc)
6- Con Ngướ Nhân Chủ Việt Nho
5- Nhân Chủ (Tự Chủ)
4- An Vi Luận
3- Lập Trường Về Hoàng Sa và Trường Sa
2- Nhận Định và Tuyên Cáo về Hoàng Sa và Trường Sa
1- Tôn Trọng Quan Điểm Của Người Khác




Con Ngướ Nhân Chủ Việt Nho
Việt Nhân


   Khi có đi vào đời sống Tâm linh mà tu dương ḿnh th́ ta mới gặp được Tâm, tức là
nguổn T́nh, khi có T́nh th́ ta mới có Lương tâm. Khi có sống sung măn ở Đời th́ Lư trí
mới được phát triển, chừng nào lư trí phát triển toàn diện th́ mới có sự hiểu biết tṛn đầy
nghĩa là Chu tri.
Biết sống theo đời sống lưỡng thê, sống sao cho “T́nh Lư tương tham “ nghĩa là
trong cuộc sống hàng ngày, khi đối diện với bất cứ việc nào, nhờ Lương tâm nhạy cảm
đánh thức Lư trí giúp ta suy xét sự việc theo tiêu chuẩn Lư công chính, th́ ta mới có Ư
thức đứng đắn về vấn đề cũng như có hành xử thích đáng về vấn đề đó, miễn là ta luôn
an trú trong Hiện tại, tức là Hiện tại miên trường, cứ măi ôm vào quá khứ huy hoàng hay
khổ đau là ngưng sống, và hy vọng vào tương lai mà quên hiện tại là ảo tưởng.
V́ thế mà Cha ông chúng ta mới bảo “ Tâm bất tại yên, thị bất kiến, thính bất văn,
thực bất tri kỳ vị: trong cuộc sống hàng ngày trong hiện tại, nếu không chú Tâm về
những ǵ xẩy ra quanh ta, th́ dẫu có nh́n tới mà chẳng thấy rơ ràng, có nghe cũng chẳng
hiểu, có ăn cũng chẳng biết mùi vị. ngon dở ”

Qua những ǵ xẩy ra trong đất nước hiện nay, bao nhiêu con người bị sa đọa, xă hội đầy
rẫy bất công, đất nước đang ở trên bờ vực thẳm, thế mà nhiều người vẫn không thấy
không nghe không biết đến những vấn đề hệ trọng đó, vẫn b́nh tâm lao đẩu vào cuộc ăn
chơi trác táng, đạp lên nhau mà sống.

Cừ nh́n qua hoạt động của các vị lănh đạo tinh thần, cũng như các vị trí thức, cùng toàn
dân chúng, ta đánh giá được sức sống của “ thành phần đầu tàu dân tộc” và “ đoàn tàu
mọi người “ như thế nào.
Cha ông chúng ta cũng có nói: “ Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách: Trước sự
tồn vong của quốc gia, người dân hèn mọn nào cũng có trách nhiệm “, huống hồ chi đến
những vị ăn trên ngồi trốc trên cao!

Ngày xưa trong phong trào Đông Du, Cụ Phan bội Châu và Cụ Phan Chu Trinh cũng
dùng mọi cách để lay tỉnh Ư thức con dân Việt vùng lên để chống Pháp cứu nước, nhưng
xem ra mọi người vẫn ngũ mê chưa thức dậy nổi, vỉ bị nô lệ đă quá lâu!.

Đến năm 1954, nhân dân đă vùng lên cứu nước nhưng lại bị CS cướp công, nhân dân lại
phải sống trong một chế độ độc tài đảng trị c̣n “ Tham tàm và cường bạo “ hơn Kẻ thù
truyền kiếp Bắc phương và Đế quốc thực dân nhiều lần.

Đó là lư do chúng ta phải cùng nhau phục hoạt lại nền văn hoá Tổ tiên, tu dưỡng nguồn
T́nh và sống theo lư công chính, th́ ư thức của chúng ta mới bừng tỉnh, khi đó việc
cứu con người và đất nước mới có hy vọng thành công lâu dài.

Nói tóm lại, sở dĩ con người và xă hội bị hư đi là chính chúng ta đă hư đi, không c̣n biết
yêu thương kính trọng nhau và ăn ở công b́nh với nhau, cây đũa thần cứu con người
cứu đất nước bắt đầu từ Nơi ĐâyBây Giờ ở mỗi chúng ta, chứ không ở trên Trời
dưới Đất hay ở Tàu Tây Nga Mỹ ǵ ráo!

Công việc cứu nước là công việc của mọi người dân nên mỗi chúng ta đều phải yêu
thương và ăn ở công bằng với nhau để sống hoà với nhau, v́ không ḥa th́ không đoàn
kết với nhau được, mà chia rẽ là nô lệ như ngày nay là không thể tránh, ngay nô lệ với “
đồng bào đi hoang có tên là VC “ , lại nữa mỗi người không có hiểu biết th́ làm sai công
việc cũng như không có tư cách th́ làm bậy, do đó không thể xây dựng gia đ́nh và đất
nước được, v́ vậy cho nên việc tu thân là điều khần thiết và không bao giờ lạc hậu. Đi
t́m việc cứu con ngựi và đất nước mà t́m ngoài ḿnh và đất nước ḿnh là ảo tưởng.

Tôi xin đóng góp vài ư về việc Tu Thân: Tu là sửa, Thân là ḿnh, tức là sửa ḿnh, c̣ hai
loại sửa, sửa những cái ḿnh đă làm sai và sửa sai việc đáng làm mà ḿnh chưa làm.
Nên nhớ rằng nền văn hoá của Tổ tiên chúng ta là thống nhất, chung cho cả người có
học ( văn gia ) và người ít hay không có học ( chất gia ), chỉ khác nhau ở mức độ cao
thấp, nên nó phải dễ hiểu và dễ theo, dễ để cho ai cũng hiểu, kể cả kẻ vô học, giản dị nên
dễ theo, ai ai cũng làm theo được ( Dị tắc dị tri, giản tắc dị ṭng: dễ nên dễ hiểu, giản dị
nên dễ theo ).

Vậy sửa và làm những ǵ ? Thưa có hai phạm vị: Cách làm việccách đổi xử với
nhau, gọi là “ cách sống ở đời “.

Về cách làm việc th́ phải hoàn thiện mọi công việc từ lớn tới nhỏ, từ việc tư đến việc
công, ngay từ việc nấu ăn, quét nhà, học hành, làm việc, . . .cho đến những việc quốc gia
xă hội to lớn phải gắng làm cho ngày một trọn hảo luôn suốt đời.

Về cách đổi xử với nhau th́ đối với bất cứ ai, phải coi họ là con người, nên phải yêu
thương, tôn trọng và ăn ở công bằng với nhau, bắt đầu từ vợ chồng con cái trong nhà , rồi
ra với mọi người, mục đích là đạt tới cách ăn ỡ ḥa với nhau, v́ Hoà là hạnh phúc chung.
Phải ư thức Hoà là cứu cánh của cuộc sống hạnh phúc.

Ai phải tu thân? Thưa hết tất cả mọi người, không riêng ǵ cho các tu sĩ các tôn giáo,
thường các vị đó là những người “ Độc thiện kỳ thân: chỉ lo cho thân ḿnh được trọn
lành “ , c̣n đây là “ công việc thiện hóa xă hội “ , muốn xă hội ḥa b́nh, để mọi người
hạnh phúc th́ ai cũng phải làm, phải tu thân để biết cách hành xử Ḥa với nhau.

Công việc đơn giản lắm :
Về cách đối xử th́ phải yêu thương tôn trọng nhau, v́ con người dễ phạm lỗi nên phải
tha thứ cho nhau dễ gây ra bất ḥa, nguồn khổ đau của mọi người.
Về cách xử thế th́ phải ăn ở công bằng, có Đi có Lại cho toại ḷng nhau. Đơn giản chỉ có
thế, và cũng Dễ như thế nếu quyết tâm làm th́ ai cũng làm được.

Thế mà xă hội loài người cứ thất bại triền miên, từ lúc hoang sơ cho đến thời đại văn
minh ngày nay.
Khó là ở chỗ việc nhỏ, việc gần. . .v́ thiếu ư thức về hậu quả to lớn của nó nên khinh
thựng, thói thường nhất là những con người trí thức cứ mê say những cái lư tưởng, cái to
lớn, cái xa xôi, cái khó khăn, những cái trên trời mây, tâm hồn họ đă bơ bê chính ḿnh và
con người, họ coi những thực tế gần và cần thiết cho con người là những thứ thấp kém,
hèn mọn, nên không nhận ra trong những cái thấp kém đó lại chứa những cái cao thượng,
phi thường, c̣n những cái họ cho là cao xa đó chỉ là ảo tưởng. Chỉ có những ai kiên
tâm tŕ chí thực hiện những điều thiết thân với con người suốt đời th́ mới trở thành những
Trai Hùng Gái Đảm. Được gọi là Hùng và Đảm v́ họ luôn luôn thắng được chính ḿnh,
mà kẻ mạnh nhất là kẻ thắng được chính ḿnh, Trai hùng Gái đảm là nhưng kẻ sống theo
tinh thần “ Nghĩa khí chi Dũng “ , cái Dũng của kẻ sống theo Đạo lư chứ không theo lối
Tham Sân Si của ḿnh, c̣n nhưng người anh hùng ngoài chiến trận thường chỉ là những
kẻ “ Huyết khí chi Dũng “ , họ chỉ Dũng trong trong cuộc đấu tranh đánh đá nhau, mà
lại yếu với chính họ, tục ngữ Pháp có câu ( tôi không nhớ rơ ) Không ai anh hùng đối với
những người hầu cận, v́ họ thấy rơ nhược điểm, cái yếu đuối bên trong của ông chủ họ.

Tu thân rất dễ và cũng rất khó là thế, chúng ta thường luôn thất bại trong những cái nhỏ,
những cái tâm thường, khinh chê cái nhỏ, cái gần, cái dễ , cái tục, mà không ư thức đủ
về sự quan trọng của chúng để hoàn thiện là vong thân, là ảo tưởng, chỉ gây khổ đau cho
ḿnh và những người khác. Muốn sửa xă hội th́ phải sửa con người trước bằng phong
trào xă hội mới làm nổi, đồng thời phải sửa đổi cơ chế xă hội cho được tương đối công
bằng, cứ làm tắt, làm ngọn chỉ gây thêm rắc rối.

Xin hăy rước “ Hồn Thiêng Sông Núi “ về với chúng ta, chừng nào chưa rước được
là chúng ta c̣n lạc hồn ( cứ chỉ theo Hồn của Tây, của Tàu, của Nga của Mỹ, tuy cùng
một nguồn gốc, nhưng chưa nhận ra, trở nên xa lạ với nhau, mà Dị khí tương thù, Hồn
Mác là dị khí với Hồn Việt, nên đồng bào VC cố giết đồng bào cho hạnh phúc! ) , khi lạc
hồn là chưa có ư thức đủ về Nhân tức là chưa kính trọng yêu thương và tha thứ cho nhau,
chưa có Nghĩa là chưa chịu ăn ở công bằng với nhau, th́ con ma Bất Nhân và con quỷ bất
Công đâu có xa rời từ bỏ chúng ta mà hoàn thiện mọi việc và hoàn thiện mối giao liên để
cho hạnh phúc được.

Thiên đàng hay Hỏa ngục là ở Nơi Đây và Bây Giờ nơi Mỗi và Mọi Người

Việt Nhân








Nhân Chủ
 (Tự Chủ)


Kim Định

Con người chính ra phải là chủ nhân. Không những làm chủ các vật dụng cần thiết cho ḿnh mà trước hết và trên hết là làm chủ ngay chính bản thân ḿnh, tâm hồn ḿnh, vận hệ ḿnh. Vậy mà kỳ lạ thay cho tới nay con người chỉ là một nô lệ, không những trong lối sinh sống, lối hành tác mà luôn trong lối cảm nghĩ mà lẽ ra phải thiết lập được nền nhân chủ ngay trong đợt cảm nghĩ mà lẽ ra phải thiết lập được nền nhân chủ ngay trong đợt cảm nghĩ, ngay đợt lư tưởng nọ.

Thế nhưng đó là điều cho tới nay hầu như không một nền triết học hay đức lư nào đă thành tựu, trái lại hầu hết đă mặc nhiên chấp nhận những tiền đề, những nguyên lư cũng như cung cách suy tư cảm nghĩ dẫn thẳng đến chỗ nô lệ con người. Đấy là lư do sâu xa giải nghĩa tại sao cho tới nay các nền thuyết lư tỏ ra vô tích sự trong việc giải phóng con người. Vậy đây là điều chúng ta cần phải khởi công ngay từ đợt lư tưởng này và câu hỏi đầu tiên đặt ra là tại sao các nền triết thuyết đă vô t́nh chấp nhận và củng cố t́nh trạng nô lệ con người. Sở dĩ như vậy v́ đă đặt nền tảng ngoài con người, nói theo Việt nho là đặt nền trên thiên hay địa tạm dịch là duy tâm hay duy vật, và do đó lâm vào cảnh vong thân hay vong bản, cả hai thuật ngữ đều nói lên sự quên bản gốc con người mà theo Việt nho là cái đức của thiên của địa “nhân giả kỳ thiên địa chi đức”. Sở dĩ các triết thuyết đă vong thân v́ không nhận ra hai cội gốc đó, hoặc có thể thấy nhưng không biết cụ thể hóa chúng để trở thành mục tiêu phục vụ con người, nên triết vẫn vận hành trong duy thiên hay duy địa (hoặc duy tâm hay duy vật). Vậy cụ thể th́ thiên địa chi đức là ǵ? Nếu nói theo câu “Thiên viên địa phương” (trời tṛn đất vuông), th́ đó là tự do và b́nh sản. Tự do đi với thiên viên chỉ cái ǵ tṛn đầy không có hạn cục, giới mốc. Theo đó thiên chi đức có nghĩa là con người chỉ thực sự là người khi được hưởng một nền tự do chân chính, v́ chỉ có thế nó mới phát triển hết mọi khả năng của ḿnh, là những tiềm năng ăn sâu trong cơi mênh mông vô biên, vô tế, tức là tự do, thế nên tự do là một bổn gốc, vậy mà các triết học đă thất bại trong việc tranh thủ nền tự do, như sẽ chứng minh sau đây. Đàng khác, để duy tŕ tự do dù mới là thứ tự do hàng ngang thuộc xă hội cũng cần có một nền tảng khác không kém phần quan trọng, đó là ăn v́ không ăn là chết. Muốn khỏi chết th́ phải ăn, mà để mọi người được sống th́ mọi người phải được ăn, v́ thế mà cần đến thể chế quân phân tài sản, gọi là b́nh sản, nên b́nh sản là một gốc khác với “địa chi đức” hay là địa phương. Đành rằng không có b́nh sản cũng có thể có ăn, nhưng đó là cái ăn quá lệ thuộc làm mất tự do không c̣n hợp với bổn “thiên chi đức”. V́ vậy cần b́nh sản như một cội gốc thứ hai....

...

     HỠI NGƯỜI HĂY ĐOÀN KẾT LẠI

Đó là lời kêu gọi đầu tiên được nghe trên mặt đất này. Cộng sản kêu gọi “hỡi những người vô sản hăy đoàn kết lại”. Hậu quả là bao triệu người “hữu sản” đă mất đầu. Cũng như những lời hô “hỡi các người cùng tôn giáo hăy đoàn kết lại” đă gây nên bao nhiêu cuộc chiến tranh tôn giáo. V́ thế, lần này phải hô: hỡi người mà không c̣n ǵ theo sau, chỉ biết đến người như một nhân chủ. V́ là nhân chủ nên nó sẽ không nói “hỡi các công nhân hăy đoàn kết lại”, hoặc “hỡi các người da trắng, hay hỡi các người da vàng, hay hỡi những người nghèo, hỡi những người đang bị đàn áp bóc lột hăy đoàn kết lại”. Mà chỉ nói có một tiếng Người tinh ṛng không ǵ ngoại lai pha vào đó, chỉ là nguời và chỉ trên cương vị đó con người phải đoàn kết lại, để phá bỏ những xiềng xích do thiên hay địa tạo ra để con người trở lại ở nhà của ḿnh để ḿnh tự làm chủ lấy, làm một ông vua trong ba vua là trời, đất, người. Đây là địa vị vừa cao cả vừa quân b́nh nhất của con người mà cho tới nay chưa có nền triết thuyết nào biết đạt nổi và v́ vậy đây sẽ là điều chúng ta thử khởi công trong quyển này dưới tiếng vang vọng của câu: HỠI NGƯỜI HĂY ĐOÀN KẾT LẠI...

     Bài vịnh tam tài

Trời Đất sinh Ta có ư không?

Chưa sinh Trời Đất có Ta trong.

Ta cùng Trời Đất ba ngôi sánh.

Trời Đất in Ta một chữ Đồng.

Đất nứt, Ta ra, Trời chuyển động.

Ta thay Trời mở Đất mênh mông.

Trời che Đất chở Ta thong thả.

Trời Đất Ta đầy đủ hóa công.

Quả là một bài thơ triết lư có tầm kích mênh mông như vũ trụ. Cái tài t́nh của bài là từ đầu chí cuối Trời, Đất, Người luôn luôn cùng xuất hiện “ba mặt một lời” xoắn xuưt trong Nhất thể uy linh....

Trong văn chương Việt Nam có thiếu chi những câu nói tự chủ, tự cường đó, nhiều hơn gấp mấy lần những câu bi quan. Đây là vài thí dụ:

       "Vạch trời mà tuốt gươm ra."

" Đă mang tiếng ở trong trời đất 

Phải có danh ǵ với núi sông. "

" Con nay cũng một người trong nước, 

Phải nhắc câu gia ngữ quốc đôi đường."

 "Làm trai hồ thỉ bốn phương

Sao cho khỏi thẹn với gương Lạc Hồng."

 "Làm giống người phải xét nông sâu,

Tuồng chi gục mặt cúi đầu,

Can tâm làm kiếp trâu ngựa cho đành!…"

 

"Chí những toan xẻ núi lấp xông!"

 

    Tâm trùm cảnh hay cảnh trùm tâm?

Ở đây xin bàn thêm một điểm nữa rất sôi nổi và cần thiết hơn cho tương lai nhân loại. Đó là con người sẽ làm chủ kỹ thuật hay kỹ thuật sẽ làm chủ con người? Nói theo Đông phương là tâm sẽ trùm cảnh hay để cho cảnh trùm tâm. Câu trả lời sẽ tuỳ quan niệm về thiên mệnh hay định mệnh mà khác nhau...

Nhưng tôi chủ trương ngược lại là con người sẽ làm chủ và phải t́m cách nhân bản hóa kỹ thuật, và đó là điều có thể làm được lắm. ..

Hiện nay chúng ta năng đựơc nghe nói đến nhân bản toàn diện, nhưng nội dung chưa được xác định, nên có thể đánh lừa nhiều người. Muốn cho có thực tại đi kèm lời nói th́ toàn diện phải gồm được ba yếu tố sau đây:

    Trước hết lấy con người làm căn bản, và cho được thế phải khởi điểm tự con người.

Thứ đến trong con người trọng nhất là sự sống. Lấy sự sống làm tiêu chuẩn. La vie est le plus grand sage, le plus grand philosophe. Sự sống chính là nhà hiền triết vĩ đại, là triết gia lớn nhất. Vậy không nên ư cứ trên lư trí với luân lư. V́ luân lư chẳng qua chỉ là một hệ thống những công thức, những ước lệ căn cứ trên thói tục. Thói tục có tính chất địa phương, chỉ tốt cho từng địa phương, nay nếu nâng nó lên bậc phổ qút th́ chỉ tổ gây chia rẽ: tập tương viễn là thế, nghĩa là thói tục tập tục gây chia rẽ, v́ vậy phải chú ư đến tính, v́ tính mới tương cận mà “tính là tâm linh vậy”.

Cho nên điều thứ ba là trong cái sống phải nhấn mạnh đến cái sống tâm linh, phải lấy đó làm kim chỉ nam, mới đủ cao sâu để bao quát được hết các điểm dị biệt, nên mới thực là toàn diện, nên cũng rất quân b́nh, về cả hai phương diện dọc ngang....

Và do đấy mới nhận ra ra rằng với Việt nho th́ con đường đi về dân tộc cũng chính là con đường đi về nhân tộc, tức đi đến chỗ cao quư nhất mà những phần tử ưu tú của loài người đều cố gắng hướng về. Dưới ánh sáng tâm linh chúng ta sẽ thích thú nhận ra rằng văn hóa của Việt Nam cổ đại là một kho tàng vô giá, quả là quê hương của văn hóa trung thực mà huyền sử kêu là Văn Lang. Chúng ta sẽ nhận ra rằng với Việt Nam th́ con đường đi về dân tộc cũng chính là con đường dẫn về nhân tộc, tức là con đường đưa đến sự nảy nở bản tính con người về hết mọi phương diện, đến nỗi những bước tiến vượt bực hiện nay trong phương diện khoa học (vi thể, uyên tâm) lại trở nên những bản khải hoàn ca của triết lư Việt nho. Chính v́ thế cuộc nghiên cứu về dân tộc nước nhà cũng lại là sự đóng góp vào cuộc cách mạng chân thực mà con người hiện đại đang mong ước...

Đấy là mấy lời báo hiệu cần thiết và đầy hứng khởi cho chúng ta hiện là những con người đang mất hết, và đang lăn mạnh vào hố của đoàn lũ, của những con người vô phẩm tính v́ bị trốc gốc, nên sẽ là những ứng cử viên tốt nhất cho tâm bệnh. Nếu thiếu một cuộc bừng tỉnh (thức tâm) th́ không bao lâu người Việt đang sống rải rác khắp nơi sẽ tản mác mất hút vào các địa phương cư ngụ, và trở nên một giống vô loài chẳng ra cái chi hết, v́ thế cần một cuộc bừng tỉnh.

     Hăy làm lại cuộc đời.

Hăy kiến tạo lại một nước Việt Nam mới.

Một Việt Nam xứng danh là Văn hiến chi bang.

Một Việt Nam đi đầu trên con đường tiến hóa.

Cuộc khủng hoảng hiện đại của nhân loại chính là một cuộc khủng hoảng về văn hóa mà chưa t́m ra lối thoát. Chúng ta hăy trùng tu nước Văn Lang.

Hăy thiết lập một sợi dây tinh thần văn hóa mạnh mẽ để ràng buộc đoàn người Việt.

Hăy nhổ người Việt ra khỏi đoàn lũ.

Hăy làm cho mọi người Việt ư thức về dân tộc ḿnh, về nguồn gốc nước Văn Lang cao quư.

Đừng để một tâm hồn Việt nào cô đơn vất vưởng bên ngoài ḍng sông của văn hóa dân tộc. Nên nhớ cộng sản đă không truyền bá mạnh trên những dạ dày trống rỗng cho bằng những tâm trí cô đơn.

Hăy đặt mọi người Việt vào đường hướng văn hóa dân tộc, để mọi người có một chủ đạo mà theo.

Hăy kiến tạo ngay một lớp kẻ sĩ mới, kẻ sĩ đúng tinh thần dân tộc, thay vào lớp “lănh đạo” đồ bỏ của lớp trí thức vừa qua.

      Hỡi những tâm hồn c̣n máu văn hiến Tiên Rồng hăy đoàn kết lại.

Hăy cùng nhau thắp lên ngọn lửa dân tộc, lôi cuốn về cùng một mối tất cả con dân Việt đang sống bơ vơ trên khắp hoàn vũ.

                     Kim Định
Trích trong tác phẩm Nhân Chủ








AN VI LUẬN

 Kim-Định

1. Thế nào là An vi

Nhiều người hiểu an vi là thanh nhàn không phải làm ǵ, khỏi bận tâm đi kiếm tiền kiếm của: thế gọi là an vi. Nếu an vi là vậy th́ cần chi đến triết lư chỉ việc gơ cửa mấy ông nhà giàu bự là đủ. Có người lại nghĩ rằng an vi là không nóng giận, cả không vui mừng nữa; sống b́nh thản trước mọi cảnh đời: éo le cũng như đắc ư, không dây ḿnh vào việc chi, đời sao mặc đời. Nếu an vi là thế th́ có khác chi mấy kẻ ù ĺ, việc chi phải đặt ra triết lư an vi. Ngược lại triết lư an vi cần:

Cho những người dấn thân vào đời

Cho những người phải chiến đấu

Cho những ai gặp bước gian truân

Cho những ai gặp cảnh bần hàn

Cho những ai muốn cải tạo xă hội.

Như thế th́ an vi không có nghĩa là hưởng nhàn mà là làm việc hăng say mà vẫn thanh thản. An vi cũng không phải là vô cầu, nhưng cầu mà như không: không cầu mà cầu; nhắm thành quả mà quan trọng nhưng không đặt ở thành quả, nên không lấy thành quả để luận anh hùng.

Bởi vậy với người đời đó là thứ triết lư rắc rối ỡm ờ, nhưng với người thấu hiểu th́ lại nhận ra thứ triết lư vi diệu rất khó đạt được. Tuy nhiên nếu hiểu trúng, đặt nền tảng cho ổn th́ hy vọng đạt được không phải là diệu vợi. Bởi vậy sau đây chúng ta sẽ bàn đến ít điểm cần cho sự hiểu triết lư an vi mong có thể hiện thực được vào bản thân cũng như đời sống xă hội.



2. Trước hết cần đặt vị trí cho an vi

An Vi nằm đâu đó giữa hữu vi và vô vi, hay đúng hơn bên trên hoặc bao quanh lấy cả hữu vi lẫn vô vi. Chữ an có nghĩa thông thường là "yêu ḥa giải không tranh chấp" (hiếu ḥa bất tranh viết an). Nghĩa đó đúng nhưng chỉ ở ṿng ngoài trong lối sống thường nhật, chưa phải là nghĩa siêu h́nh của chữ an vi.

Muốn hiểu được An vi cần phải hiểu đến tận gốc rễ, mà cho được thế cần phải hiểu thế nào là Hữu vi và Vô vi và cái cạm bẫy đầy nguy cơ nấp sau hai triết thuyết đó. Vậy hữu vi là Có Làm. Có làm th́ phải rồi tại sao lại bảo là chứa chấp nguy hiểm. Thưa rằng, cái đó rất tế vi nên không dễ nh́n ra được, cần phải phân tích thấu triệt.

Ta quen hỏi bạn đang làm ǵ đấy? Và câu thưa sẽ là tôi đang uốn cảnh hay ngắm hoa, đọc sách, biên thư. Bạn có thể thưa cả hàng ngàn câu, nhưng khi phân tích ra th́ câu nào cũng có một động tự (uốn) và một đối tượng (cảnh). Ngay trong câu hỏi làm ǵ cũng đă có đối tượng rồi: nằm trong chữ ǵ? Ǵ là đối tượng của làm. Vậy mà cạm bẫy trong chữ ǵ, nghĩa là nằm trong đối tượng.

Cái hại là đối tượng sẽ thu hút hết nghị lực của con người, khiến cho trong hành động tác nhân sẽ trút hết tinh anh vào đối tượng. Người thường không thấy nguy cơ đâu cả, nhưng hiền triết nhận ra đó là đầu mối của nạn vong thân, nó ở chỗ bắt con ngừơi đầu tư trọn vẹn tâm thần ư chí vào đối tượng của việc làm, khiến cho dần dần đối tượng trở nên chủ và sẽ đối tượng hóa luôn con người (objectiver l’homme) mà nghĩa thông thường là "nhân hóa vật": người hóa ra như vật, nghĩa là người cư xử và động ứng theo cung cách vật thể. Điều đó sẽ dẫn tới chỗ người xử với người như với vật (chosifier).

Từ đấy bất cứ cái chi dầu là linh thiêng nhất cũng quan niệm theo lối sự vật tức có h́nh thể. Thí dụ như siêu h́nh cũng bị quan niệm kiểu những vật hữu h́nh, tức như cái ǵ đứng bên ngoài ḿnh, kiểu một đối tượng, nghĩa là cái tượng h́nh đứng đối diện với ḿnh, ḿnh phải đi tới nó để chống lại hoặc chiếm hữu lấy: avoir.

Đó là hậu quả đầu tiên làm tiêu tan mất cái linh thiêng vị tế trong tâm hồn ḿnh mà chính nó mới là bản gốc của người, v́ thế gọi là vong bản. Từ đó sẽ dẫn đến nhiều ác quả mà trước hết là sự đề cao những tác hành có đối tượng bên ngoài ḿnh và thế là dẫn tới lợi hành: làm hoàn toàn v́ lợi. Mà lợi đi với địa (thiên lợi, địa lợi) tức là đi với cái ǵ bé nhỏ, có cục hạn như mọi sự vật: v́ thế lợi hành là con đường thẳng đưa người ta đến duy vật.

Một khi đă duy vật th́ sẽ coi là vô giá trị mọi việc ǵ không có lợi, không sản xuất ra cái ǵ cầm nắm được và như vậy sẽ đi đến chỗ phế bỏ mọi việc tinh thần, tâm linh. Hậu quả việc đó là cột chặt con người vào đất, khiến nó bị tước đoạt hết những khả thể thanh thoát bay bổng, như thấy rơ trong lối hành xử của người cộng sản: chỉ gọi là làm việc khi có sản xuất ra cái chi cụ thể. Đó là tai họa lớn lao hơn hết trong kiếp người.


V́ thế có một thái độ đi ngược lại là không làm: vô vi. Ở đây không nói đến chữ vô vi của Lăo Tử (đă bàn rồi trong Định Hướng Văn Học) nhưng có ư nói vô vi là không làm ǵ, v́ coi sự làm chứa đầy cạm bẫy giam hăm con người lại, không cho tung cánh bay cao. Nói theo kiểu triết Ấn Độ là hễ làm th́ có quả mà có quả là có giây trói buộc do luật khắt khe nhân quả không cho con người giải thoát. Vậy tốt hơn hết là đừng có làm: vô vi. Nhưng vô vi cũng đặt ra đầy khó khăn như không làm th́ sống sao đây? Muốn sống th́ phải có làm, mà có làm th́ lại bị trói buộc. Đàng nào cũng chết.

Đại để đó là gọng ḱm nan giải đặt ra trước những lương tâm bén nhậy cao độ để thấy nguy hại trong cái hữu vi, nên chạy ùa sang vô vi, v́ chưa đủ tinh anh để đặt một lối thoát khác. Và lối đó chính là an vi được đề ra để ḥa giải khó khăn gặp trên hai con đường hữu vi và vô vi.


Chủ trương của an vi là làm nhưng không đặt trên cái có của hữu vi: nói khác, không đặt quan trọng trên đối tượng hay hậu quả, nhưng đặt vào tác động, và nhờ đó tuy có làm mà vẫn không bị đối tượng trăn trói, tức không bị lệ thuộc vào thành quả. Nhờ đó thành tựu hay thất bại không phá vỡ nổi tâm trạng an nhiên thư thái của tác nhân.

Đó là bí quyết của triết lư an vi, nó nằm bên trên hữu vi (có làm) và vô vi (không làm). Nó vừa giống hữu vi v́ có làm, nhưng cũng giống vô vi v́ không đặt trọn sinh lực vào đối tượng (gọi khác là thành công) nhưng phần lớn được đặt vào tác nhân hay thành nhân.

Câu nói của nhà cách mạng Nguyễn Thái Học "không thành công th́ thành nhân" là hậu quả của triết lư an vi. Y như triết lư an vi là hiện thân của đạo Ba, là đạo đặt trọng tâm vào con người. Đang khi các triết lư khác, không hữu vi th́ cũng vô vi, và cả hai gặp nhau ở chỗ đặt quan trọng vào đối tượng, tức là những mục tiêu nằm bên ngoài con người.

Đấy là điều rất tế vi đă được minh chứng tỉ mỉ trong cuốn Chữ Thời. Ở đây chỉ có thể nói vắn tắt rằng nền siêu h́nh của các triết học đó đều sai lầm, nói là siêu h́nh mà kỳ thực là hữu h́nh hay ít ra hữu tượng như thí dụ lư giới của Platon hay thế giới bản thể của Aristote đều là hữu h́nh. Cho nên sau này Kant mới phê b́nh là siêu giả tạo (illusion transcendantale), nó gieo tai hại vô biên v́ làm cho con người vong thân mà không hay biết.

Cứ tưởng để ḷng trí vào siêu h́nh là trở nên cao thượng, có biết đâu rằng đó mới là siêu h́nh mà chưa siêu tượng nên là lối vong thân tế vi, chính nó giam cầm con người trong gông cùm của trục vật (chạy theo sự vật mà quên bản thân). Dần dần đi đến chỗ cùng cực là chỉ biết trọng những việc ǵ có công hiệu cụ thể hữu h́nh v.v. hoặc chỉ biết trọng những việc có đối tượng cao cả, mà chưa sao đạt được thái độ coi trọng việc xét là việc, không cần đối tượng cao hay thấp, v́ thế ở đây xin nói tới khía cạnh ấy của triết an vi, đó là:


3. T́m hoàn bị trong mỗi việc bất kể to nhỏ

Đó là hậu quả của siêu h́nh đích thực. Người thực sự đạt siêu h́nh th́ không c̣n lệ thuộc vào những cái hữu h́nh (tức đối tượng) nên không đặt quan trọng ở đối tượng, nhưng đặt ngay ở nơi tác nhân, đặt ở thành nhân, c̣n thành công chỉ được coi như phương tiện, như những chặng trung gian mà không là tối hậu: nên coi mỗi thành công là khởi điểm cho chặng tiến khác.

Do đó khi thành tựu không tự măn, khi thất bại không nản ḷng. Bởi chưng kỳ vọng là thành nhân, thành thân, có tính cách vô biên tức quá cao chẳng bao giờ gặp giới mốc nên không thể tự măn, v́ trước mặt đường tiến vẫn c̣n rộng mở. Có thất bại cũng chỉ là lặt vặt thuộc đối tượng, không hỏng đến đại cuộc là thành nhân, v́ thế mà không nản.

Nói thành nhân không có nghĩa là coi thường thành công. Thực ra không thể thải bỏ thành công v́ thành công đă nằm trong thành nhân như thành phần nằm trong toàn thể. Toàn thể là nhân, v́ nhân được định nghĩa là "thiên địa chi đức" nên đương nhiên nhân bao gồm mọi đối tượng. V́ không một đối tượng nào dù to hay nhỏ có thể ra khỏi ṿng thiên hay địa, c̣n thiếu chi đâu!

Đó là một tâm trạng coi như vu vơ, mà ai đạt được lại thấy hậu quả tràn ngập toàn thể thân tâm ḿnh. V́ thế hậu quả đầu tiên khi đạt tâm trạng đó là sẽ làm rất hăng say bất cứ công việc nào v́ lúc ấy to nhỏ không được đánh giá quan trọng như trước, bởi to nhỏ do đối tượng, nhưng bây giờ v́ không đặt nặng đối tượng, nên việc nào cũng đáng làm với cả tâm hồn thể xác.

Người ta nói về Thượng Đế là đấng tỏ ra "rất cao cả trong những việc hết sức bé nhỏ" (maximus in minimis) là v́ quan trọng đặt ở tác động, tức là đặt ở tác nhân là Thượng Đế, mà v́ Thượng Đế có khả năng vô biên nên dù làm một việc rất nhỏ, như một con muỗi thí dụ, cũng làm đến độ cực kỳ vi tế đến độ đủ biểu lộ được quyền lực vô biên. Họa sĩ có thiên tài không cần phải vẽ cái chi cao cả mà chỉ vẽ vài quả táo thối như Mục Khê đă làm cũng đủ biểu lộ thiên tài, khỏi cần đối tượng to.

Người sao chiêm bao vậy: không cần chiêm bao to hay nhỏ, nhưng cần người chiêm bao phải to. Làm như thế để cho con người nên to, đó là ư nghĩa sâu xa của nền minh triết tam tài đặt con người ngang cùng trời đất như được bàn nơi khác (Chữ Thời, Nhân Bản).
Ở đây chỉ đề cập đến một khía cạnh cụ thể là nền giáo dục. Giáo dục muốn đạt an vi phải là nền giáo dục làm to con người, gọi tắt là vi nhân.


4. Giáo dục vi nhân

Nghĩa là nền giáo dục trước hết nhằm đào luyện ra người to, người to rồi việc mới to, việc nhỏ cũng sẽ hóa ra to, người nhỏ th́ việc to rồi cũng hóa ra nhỏ. Nói khác, không phải hễ chương tŕnh hay th́ rồi mọi việc sẽ hay khi thiếu người hay, nhưng nếu muốn cho mọi việc hay th́ cần trước hết phải có người hay.

Bất cứ chính trị, xă hội, kinh tế chi chi cũng không thoát luật chung đó. Vậy mà giáo dục hiện nay lại hướng hết vào đối tượng, mà bỏ bê con người, vậy là bỏ gốc ôm ngọn. Dấu hiệu rơ nhất của sự vụ là giáo dục hướng trọn vẹn vào lợi hành. Các nhà giáo dục tận tâm khuyến khích thành công: luôn luôn tập rèn cho trẻ biết đánh giá theo thành công, đến nỗi coi đó như cứu cánh cuộc đời. Đấy là một việc thừa để khỏi nói là có hại.

Thừa là v́ thành công thuộc tiểu ngă không cần khuyến khích th́ con người cũng đă chạy theo rồi, nhất là khi c̣n bé nhỏ chưa thể thấy ǵ khác hơn là thi đua. Lẽ ra giáo dục phải biết tiết chế chiều hướng đó lại, để nuôi dưỡng ḷng hướng thượng, ḷng ham muốn thành nhân, v́ đó mới là sứ mạng của nền giáo dục chân chính tức là nuôi dưỡng (dục) cái nhân tính (giáo) chứ không phải là giáo dục con người để chạy theo sự vật đến độ quên ḿnh như nay.

Con người hiện đại chỉ biết trục vật là lỗi do nơi nền giáo dục chỉ biết đề cao thành công là làm nhỏ tâm hồn con người lại, không c̣n chỗ trống cho sự nảy nở những mối t́nh cao thượng vị tha. Chỉ khi nào biết đề cao chủ thể hay tác nhân, th́ mới là vun tưới đại ngă man mác. Tổ tiên ta được tiếng là: "Thắng không kiêu, Bại không nản".

Chính v́ đă được tôi luyện trong nền giáo dục an vi vậy. Để chứng minh xin trưng ra đây hai việc rất linh thiêng đă được in dấu của nền giáo dục vi nhân như thế nào. Đó là hai Lễ Gia Tiên và Tế Thiên. Tại sao Việt nho đă biến việc thờ tổ tiên ra lễ gia tiên, biến việc thờ Thượng Đế ra lễ tế thiên?

Thưa v́ thờ tổ tiên là tin có linh hồn về hưởng của dâng, rồi xin ơn này nọ, vậy là bám vào những cái tư riêng hữu h́nh bé nhỏ. Điều đó sẽ gây tai họa sâu xa v́ dùng những giờ phút trang trọng nhất để vun tưới cho ḷng tham, khiến cho những giờ phút linh thiêng nhất được dùng vào việc tài bồi óc ham muốn. Vậy là bó chặt thêm măi tâm hồn vào những cái bé nhỏ hữu h́nh, cho nên tiên nho nói: "tự cầu đa phúc" là v́ vậy, tự cầu là không xin ǵ ngoài ḿnh th́ rồi ḷng sẽ được thả buông dần và siêu lên đến chỗ thanh thoát an nhiên.

V́ thế mà tục thờ ông bả đă thăng hoa thành lễ gia tiên. Nơi đây chỉ biết tế dâng là tế dâng, không để cầu cạnh cái chi hết, chỉ cốt dùng việc tế dâng để đi vào tới tận thâm tâm ḷng ḿnh, đặng hội thông cùng trời đất vạn vật hầu làm nên nhất thể (đọc lại quyển Hồn Nước với Lễ Gia Tiên, chương II, Phúc giả bị dă.)

Tế thiên cũng vậy. Thiên ở đây không c̣n là Thượng Đế nhân h́nh nữa, nhưng chỉ c̣n là luật trời đất huyền vi. Người không hiểu cho là lờ mờ, nhưng với người hiểu th́ biết đây mới chính là siêu h́nh: v́ thiên không c̣n nhân h́nh nữa nhưng chỉ là khởi linh quang u linh bàng bạc cùng khắp, khiến cho tâm hồn quen thở trong bầu không khí man mác đó sẽ lơi dần khỏi đối tượng bé nhỏ để bay lên thanh thoát nhẹ nhàng theo tiết điệu uyên nguyên của vũ trụ, tiên nho kêu đó là "đại thuận đại hóa".

Đại thuận là thuận theo thời trời, gọi là đại v́ không ǵ lớn lao hơn trời đất, nên cũng là đại hóa tức vươn ra mênh mông như vũ trụ "ngô tâm tiện thị vũ trụ" là vậy. V́ thế an hành, an vi được nhắm như lư tưởng tối hậu của nền giáo dục đặt xa bên trên hai đợt cưỡng hành và lợi hành.

Cưỡng hành đặt móng trên sự sợ hăi: sợ trời đánh thánh vật, tức chưa đi vào đến lư trí nên là thấp nhất. Đến lợi hành tuy đặt trên lư trí nhưng đối tượng chỉ mới là thành công, chưa đạt tâm linh. Chỉ c̣n an hành mới đạt tâm linh trọn vẹn, mới có sức phát huy nhân phẩm, nhân cách.

Người ta sẽ dễ nhận ra điều đó khi thấy Việt nho đă đào tạo ra được nhiều nhân sĩ hơn hết với một tâm hồn thanh thản, cái thanh thản kiên cường không cần chắn gió che sương nhưng dám đi giữa bụi đời xoáy lốc mà vẫn thanh thoát tự tại.


Kim Định
Trích trong tác phẩm “Văn Lang Vũ Bộ”










 Lập Trường Về Hoàng Sa và Trường Sa

62 Đoàn Thể Trong Và Ngoài Việt Nam Lên Tiếng Khẳng Định Lập Trường về Hoàng Sa - Trường Sa


Ngày 12 tháng 12, 2007 -- Càng ngày càng có thêm nhiều đoàn thể, trong cũng như ngoài Việt Nam, kư tên vào bản Khẳng Định Lập Trường để xác định chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tính đến sáng Thứ Tư, 12 tháng 12, 2007 (ngày giờ Hoa Thịnh Đốn, Hoa Kỳ), con số khởi thuỷ từ 45 đă tăng thành 62 đoàn thể, và c̣n gia tăng thêm nữa trong những ngày tới. Đây là phản ứng của người Việt trước việc Trung Cộng tuyên bố thành lập thành phố Tam Sa thuộc tỉnh Hải Nam để quản trị một số quần đảo, trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.

Ngoài việc lên án hành động xâm lấn ngang ngược của Trung Cộng, bản Khẳng Định Lập Trường đề ngày 7 tháng 12 năm 2007 này cũng đă vạch rơ trách nhiệm của đảng CSVN trong việc làm mất đất đai và lănh hải vào tay bá quyền phương Bắc.

Được biết song hành với bản Khẳng Định Lập Trường, các đoàn thể đang nghiên cứu một số công tác chung có mục tiêu vạch trần sự xâm lấn trắng trợn của Trung Cộng với công luận thế giới, và cũng để tŕnh bày rơ với nhân dân Việt Nam sự bất lực của đảng CSVN trong việc bảo vệ bờ cơi.

Dưới đây là nguyên văn bản Khẳng Định Lập Trường và danh sách 62 tổ chức, đoàn thể với danh tánh người đại diện kư tên, tính đến sáng Thứ Tư, 12 tháng 12 năm 2007./.



Bản Khẳng Định Lập Trường của Người Việt Trên Toàn Cầu về Hai Quần Đảo Hoàng Sa và Trường Sa


Ngày 2 tháng 12 năm 2007, nhà cầm quyền CS Trung Quốc lại đi một bước nữa trong việc lấn lướt chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa khi tuyên bố thành lập thành phố Tam Sa thuộc tỉnh Hải Nam để quản trị một số quần đảo, trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa. Quyết định này là điểm kết của một chuỗi các hành động ngang ngược trong việc chiếm cứ các hải đảo của Việt Nam, gồm:

- Ngày 19 tháng Giêng năm 1974, dùng hải quân cưỡng chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa;
- Ngày 14 tháng Ba năm 1988, chiếm một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa;
- Ngày 14 tháng Tư năm 1988, tuyên bố sát nhập 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào tỉnh Hải Nam.

Trước các sự kiện trên, chúng tôi, đại diện các đoàn thể Người Việt khắp nơi trên thế giới cùng lên tiếng thay cho những người Việt quan tâm đến đất nước:
- Cực lực lên án chủ nghĩa bá quyền của Trung Quốc, thể hiện cụ thể và thô bạo qua việc dùng vũ lực cưỡng chiếm lănh thổ và lănh hải các nước lân bang;
- Hoàn toàn phủ nhận chủ quyền Trung Hoa trên các hải đảo Hoàng Sa và Trường Sa;
- Long trọng kêu gọi các quốc gia yêu chuộng hoà b́nh và công lư làm mọi cách để Trung Quốc hoàn trả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa về cho Việt Nam;
- Khẩn thiết kêu gọi dân chúng Việt Nam tích cực biểu tỏ thái độ phản đối hành vi ngang ngược của Trung Quốc, cụ thể nhất là tụ tập biểu t́nh trước sứ quán và lănh sự quán Trung Quốc ở khắp nơi, đặc biệt tại Hà Nội và Sài G̣n.

Nhân đây, chúng tôi muốn nêu lên trách nhiệm to lớn của đảng CSVN trong việc làm mất lănh thổ và lănh hải vào tay Trung Quốc. Bằng chứng cụ thể là:

- Công Hàm ngày 14 tháng Chín năm 1958 do Phạm Văn Đồng kư, nhân danh Thủ Tướng Chính Phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà đă "công nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của chính phủ nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc".
- Nhà cầm quyền CSVN đă hoàn toàn im lặng trước việc Trung Quốc cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa sau cuộc hải chiến diễn ra ngày 19 tháng 1 năm 1974 giữa Hải quân Trung Quốc và Hải quân Việt Nam Cộng Hoà.

Để có đủ khả năng bảo vệ giang sơn của cha ông để lại, dân chúng Việt Nam phải đoàn kết thành một khối. Sự đoàn kết này chỉ có thể đạt được trong môi trường sinh hoạt dân chủ, nhân quyền được tôn trọng, và nhân phẩm con người được đề cao. Chỉ có thế toàn dân mới ngồi lại được thành một khối trước hiểm hoạ ngoại xâm.

Ngày 7 tháng 12 năm 2007


Các đoàn thể chính trị:
1. Đại Việt Cách Mạng Đảng (Ô. Bùi Diễm, Chủ Tịch)
2. Đại Việt Quốc Dân Đảng (TS Phan Văn Song, Chủ Tịch)
3. Đảng Dân Chủ Nhân Dân (Ô. Đỗ Thành Công, Phát Ngôn Nhân)
4. Đảng Tân Đại Việt (TS Nguyễn Ngọc Sảng, Chủ Tịch)
5. Đảng Thăng Tiến Việt Nam (TS Nguyễn Ngọc Hùng, Đại Diện Hải Ngoại)
6. Đảng V́ Dân (Ô. Nguyễn Công Bằng, Đại Diện)
7. Hiệp Hội Dân Chủ Hiến Định, Pháp Trị, và Đa Nguyên (LS Đào Tăng Dực, Chủ Tịch)
8. Hiệp Hội Dân Chủ và Phát Triển Việt Nam (TS Âu Dương Thệ, Chủ Tịch)
9. Khối 8406 (LM Phan Văn Lợi, Đại Diện)
10. Liên Minh Dân Chủ và Nhân Quyền Việt Nam (GS Nguyễn Chính Kết, Đại Diện)
11. Liên Minh Dân Chủ Việt Nam (DS Nguyễn Quốc Nam, Chủ Tịch)
12. Nghị Hội Toàn Quốc Người Việt tại Hoa Kỳ (GS Nguyễn Ngọc Bích, Chủ Tịch)
13. Phong Trào Quốc Dân Việt Nam Hành Động (Ô. Nguyễn Thành Nhân, Chủ Tịch)
14. Tổ Chức Phục Hưng Việt Nam (Ô. Trần Quốc Bảo, Chủ Tịch)
15. Tổ Chức Quốc Tế Yểm Trợ Cao Trào Nhân Bản (BS Nguyễn Quốc Quân, Chủ Tịch)
16. Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Đảng (Ô. Đỗ Hoàng Điềm, Chủ Tịch)

Các đoàn thể chuyên biệt:
1. Ban Vận Động Lời Kêu Gọi Dân Chủ (GS Nguyễn Thanh Trang, Đại Diện)
2. Đoàn Thanh Niên Hồn Việt (Ô. Nguyễn Xuân Hiệp, Đoàn Trưởng)
3. Đoàn Thanh Niên Đa Hiệu Pennsylvania và Phụ Cận (BS Đỗ Nguyễn Nhật Khải, Đoàn Trưởng)
4. Gia Đ́nh Phật Tử Miền Quảng Đức (Ô. Lê Quang Dật, Trưởng Ban Hướng Dẫn)
5. Hiệp Hội Công Nông Đoàn Kết Việt Nam (Ô. Huỳnh Long, Phó Chủ Tịch)
6. Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị và Tôn Giáo Việt Nam (GS Phạm Trần Anh, Phó Chủ Tịch)
7. Hội Ái Hữu Cựu Tù Nhân Chính Trị Tiểu bang Pennsylvania (Ô. Nguyễn Đức Nghĩa, Chủ Tịch)
8. Hội Cựu Chiến Binh VNCH/ Michigan (Ô. Nguyễn Thanh Vân, Hội Trưởng)
9. Hội Cựu Quân Nhân QLVNCH Ontario, Canada (Ô. Nguyễn Văn Tấn, Chủ Tịch)
10. Hội Cựu SVSQ Trường Vơ Bị Quốc Gia Việt Nam Pennsylvania và Phụ Cận (Ô. Đỗ Đức Chiến, Hội Trưởng)
11. Hội Chiến Sĩ VNCH tại Austin và Vùng Phụ Cận, TX (Ô. Đỗ Văn Phúc, Hội Trưởng)
12. Hội Khoa Học Kỹ Thuật (TS Mai Thanh Truyết, Chủ Tịch)
13. Hội Phụ Nữ V́ Nhân Quyền Việt Nam (Bà Jane Đỗ Bùi, Đại Diện)
14. Hội Sinh Viên Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, Ontario, Canada (Ô. Trần Quốc Thiện, Hội Trưởng)
15. Hội Tù Nhân Chính Trị và Nạn Nhân của Chế độ Cộng Sản Việt Nam tại Pháp (Ô. Dương Văn Lợi, Chủ Tịch)
16. Liên Hội Cảnh Sát Quốc Gia VNCH Âu Châu (Ô. Phạm Th́n, Liên Hội Trưởng)
17. Phong Trào Hiến Chương 2000, Canada (TS Nguyễn Bá Long, Tổng Đại Diện)
18. Phong Trào Quốc Dân Đ̣i Trả Tên Sài G̣n (LM Nguyễn Hữu Lễ, Đại Diện)
19. Phong Trào Giáo Dân Việt Nam Hải Ngoại (Ô. Đỗ Như Điện, Điều Hợp Viên)
20. Phong Trào Hưng Ca Việt Nam (Ô. Huỳnh Lương Thiện, Phong Trào Trưởng)
21. Tập Thể Cựu Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Ḥa (GS Nguyễn Xuân Vinh, Chủ Tịch)
22. Tổng Hội Hải Quân VNCH (Ô. Nguyễn Xuân Dục, Tổng Hội Trưởng)
23. Trung Tâm Việt Nam Hannover, Cộng Ḥa Liên Bang Đức (Ô. Lâm Đăng Châu, Đại Diện)

Các đoàn thể cộng đồng:
1. Cộng Đồng Việt Nam Hoa Kỳ (Ô. Nguyễn Văn Tần, Chủ Tịch Hội Đồng Đại Biểu, Ô. Nguyễn Bác Ái, Chủ Tịch Hội Đồng Chấp Hành, BS Trương Ngọc Tích, Chủ Tịch Hội Đồng Giám Sát)
2. Cộng Đồng Người Việt Tự Do Liên Bang Úc Châu (BS Nguyễn Mạnh Tiến, Chủ Tịch)
3. Liên Hội Người Việt Canada (Ô. Ngô Văn Út, Tổng Thư Kư)
4. Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Arizona (Ô. Phạm Văn Sinh, Chủ Tịch)
5. Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia tại Lincoln, Nebraska (Ô. Nguyễn Xuân Đấu, Chủ Tịch)
6. Cộng Đồng Việt Nam Tị Nạn Los Angeles (Ô. Nguyễn Duy Nghiêu, Chủ Tịch)
7. Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Houston và Phụ Cận (LS Hoàng Duy Hùng, Chủ Tịch)
8. Cộng Đồng Việt Nam Tiểu Bang Florida (Ô. Chu Bá Yến, Chủ Tịch Hội Đồng Đại Biểu, Bà Đồng Thanh, Chủ Tịch Ban Chấp Hành)
9. Cộng Đồng Người Việt Tại Tampa Bay, Florida (Ô. Vũ Đ́nh Vượng, Chủ Tịch)
10. Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Dallas, TX (Ô. Thái Hóa Tố, Chủ Tịch)
11. Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Fort Worth, TX (Ô. Nguyễn Xuân Hùng, Chủ Tịch)
12. Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Lancaster PA và Vùng Phụ Cận (Ô. Lê Văn Chiếu, Chủ Tịch)
13. Cộng Đồng Việt Nam Bắc California (Ô. Nguyễn Ngọc Tiên, Chủ Tịch)
14. Cộng Đồng Việt Nam Nam California (BS Nguyễn Xuân Vinh, Chủ Tịch)
15. Cộng Đồng Việt Nam Oregon (Ô. Nguyễn Bác Ái, Chủ Tịch)
16. Cộng Đồng Việt Nam Miền Nam Florida (Ô. Lê Thanh Liêm, Chủ Tịch).
17. Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Austin, Texas (Ô. David Nguyễn, Chủ Tịch)
18. Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Đông Bắc Pennsylvania (Ô. Đỗ Đức Chiến, Phát Ngôn Viên)
19. Cộng Đồng Việt Nam Vùng Washington, DC, Maryland và Virginia (Ô. Lư Văn Phước, Chủ Tịch)
20. Cộng Đồng Việt Nam Iowa (Ô. Phạm Cang, Chủ Tịch)
21. Cộng Đồng Việt Nam tại Philadelphia và Phụ Cận (Ô. Nguyễn Đ́nh Toàn, Chủ Tịch)
22. Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia New Hampshire (Ô. Cao Xuân Khải, Chủ Tịch)
23. Hiệp Hội Người Việt San Diego, CA (Ô. Trần Hùng Tiết, Chủ Tịch).-
Nguồn:http://www. Vinanet.dk





Nhận Định và Tuyên cáo

về việc Trung Cộng cưỡng chiếm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam



       Việc Trung Cộng chính thức sát nhập hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam vào huyện Tam Sa mới thành lập thuộc đảo Hải Nam của họ đă làm cho toàn dân tộc choàng tỉnh và vô cùng phẫn nộ:

      - Thứ nhất, Trung Cộng với truyền thống xâm lược bành trướng đất đai, vơ vét tài nguyên vẫn c̣n là - và sẽ luôn luôn là - mối hiểm họa muôn đời cho Việt Nam cũng như cho các quốc gia lân cận, nhất là các nước có chung biên giới với Trung Quốc. Chứng kiện cụ thể gần đây nhất là việc Trung Cộng vẽ lại bản đồ thế giới, vạch lại đường ranh giới Trung - Việt để lấn đất, xây các đập thủy điện ở thượng lưu sông Cửu Long bất kể đến việc gây hư hoại môi sinh, phá hoại kinh tế và hệ sinh thái các nước ở hạ nguồn sông Cửu.

      - Thứ hai, trước những mất mát lớn lao về chủ  quyền lănh thổ, lănh hải cùng những thiệt hại về kinh tế, những nguy cơ về quốc pḥng… sự im lặng của chế độ cầm quyền ở Việt Nam càng làm cho toàn dân đau xót. Nếu như không phải nhà cầm quyền CSVN đă có chủ ư ǵ khác khiến không thể công khai phản kháng hành động xâm lăng của Trung Cộng trước dư luận thế giới và công bố lập trường của Đảng và Nhà nước trước toàn dân, th́ hiển nhiên nhà cầm quyền CSVN ngày nay đă  bị trói tay bịt miệng  bởi bản công hàm của Thủ tướng Cộng Sản Bắc Việt  Phạm Văn Đồng, trong giai đoạn của cuộc phân tranh Quốc-Cộng, theo lệnh Hồ Chí Minh, kư gởi Thủ tướng Trung Cộng Chu Ân Lai vào năm 1958 công nhận chủ quyền của Trung Cộng trên các vùng hải đảo nói trên. Như thế, cùng với những sai lầm, cố chấp về chính sách cai trị đất nước, những hậu quả tai hại của việc chế độ Cộng sản Việt Nam lên nắm chính quyền nay đă dần dần xuất hiện.

       Nỗi đau xót của dân tộc càng thấm thía hơn trước cảnh sinh viên, học sinh cùng dân chúng ở Hà Nội và Sài G̣n biểu t́nh phản đối Trung Cộng xâm lược đă bị công an giải tán, đe dọa, ngăn cấm, thậm chí đàn áp dă man. Đất nước sẽ đi về đâu dưới chính sách lănh đạo hẹp ḥi, nông cạn, giả trá, hèn yếu của đảng Cộng sản VN?

       Chúng tôi nhận định rằng Đảng Cộng sản và chế độ Cộng Sản Việt Nam ngày nay trong vai tṛ bảo vệ đất nước đang lâm vào t́nh trạng tiến thoái lưỡng nan: Nếu giữ nước th́ có thể mất Đảng, nếu giữ Đảng th́ phải chịu mất một phần đất nước! Cộng sản chọn giữ nước hay giữ Đảng là điều người ta có thể tiên liệu được; nhưng ngay người Cộng sản cũng không thể phủ nhận sự thật là nếu nước mất th́ Đảng cũng chẳng c̣n, và cho dù đất nước chỉ mất có một vài phần th́ đảng Cộng sản cũng không c̣n hy vọng sống sót trong ḷng người dân VN.

       Với những nhận định trên, cùng chung những nỗi mất mát đau đớn và chia xẻ những khó khăn trong việc giữ nước của toàn dân tộc, Tập Hợp Đồng Tâm / Liên Bang Úc Châu trân trọng tuyên cáo:

       1- Đảng Cộng Sản Việt Nam phải và nên thành tâm lên tiếng chịu hoàn toàn trách nhiệm trước dân tộc và lịch sử về hành vi sai lầm của những người đi trước trong việc sang nhượng chủ quyền đất nước vô cùng tai hại cho ngoại bang.

       2- Chế độ CSVN ngày nay phải kịp thời thức tỉnh trước hiểm họa xâm lược phương bắc mà sớm trao trả chủ quyền đất nước lại cho toàn dân, bằng cách chủ động việc chuẩn bị cho một nền tảng dân chủ thật sự- một căn bản Hiến pháp dân chủ thật sự- để thật sự tiến đến việc dân chủ hoá đất nước. Có như vậy dân tộc Việt Nam mới có đủ thực lực cũng như lư lẽ để đ̣i lại những vùng lănh thổ và lănh hải đă bị Trung Cộng cưỡng chiếm. Đó cũng là sự đóng góp danh dự và lối thoát danh dự cho Đảng CSVN.

       3- Trong nhất thời, nhà cầm quyền CSVN phải tôn trọng tiếng nói của toàn dân, phải vững tin ở truyền thống Tự chủ, Bất khuất ngàn đời của dân tộc, và phải dựa vào ư nguyện của toàn thể quốc dân Việt để có hành động mạnh mẽ, cụ thể đ̣i lại những vùng lănh thổ, lănh hải đă bị Trung Cộng xâm lược cưỡng chiếm.

      4- Tập Hợp Đồng Tâm Úc Châu có cùng quan điểm với toàn dân và đứng cùng trận tuyến với tất cả các đoàn thể trong và ngoài nước trong nỗ lực giải trừ những ǵ gây nguy hại cho dân tộc để xây dựng lại một nước Việt Nam văn minh, văn hiến; gây dựng lại tiềm lực dân tộc để dựa vào sức mạnh toàn dân nước ta có thể giữ vững nền Tự chủ trước hiểm họa giặc Tầu xâm lược.

  

Làm tại Thành phố Sydney, Úc Đại Lợi.

 Tập Hợp Đồng Tâm / Liên Bang Úc châu

www.taphopdongtam.org





Tôn Trọng Quan Điểm Cuả Ngướ Khác


Bất đồng ư kiến là điều tất nhiên phải có, v́ người ta thường nói: chín người mười ư. Vậy mà trong thực tế, nhiều người không chịu chấp nhận thực tế nầy, bắt buộc người khác phải thương như ḿnh, phải ghét như ḿnh, phải đồng quan điểm với ḿnh trong mọi chuyện. Nhiều người tự cho rằng ư kiến của ḿnh bao giờ cũng đúng, quan điểm của ḿnh lúc nào cũng tốt nhất; có người c̣n tuyệt đối hoá quan điểm của ḿnh và không chấp nhận những quan điểm khác, cho dù đó là quan điểm của ai.

Từ chỗ bất đồng quan điểm, người ta t́m đủ cách phỉ báng, lăng mạ hoặc loại trừ những cá nhân hay tổ chức không cùng quan điểm với ḿnh.  

CÁI NH̀N PHIẾN DIỆN

Xưa kia ở Ấn-độ có một ông vua đang lúc nhàn rỗi muốn t́m một tṛ tiêu khiển, nảy ra một sáng kiến hay:

Vua cho mời năm anh mù từ lúc mới sinh đến sân rồng rồi truyền đem vào một con voi lớn. Năm anh mù nầy chưa hề biết voi là ǵ. Nhà vua ra lệnh cho họ đến sờ voi một lát  rồi mô tả lại h́nh dáng con vật cho vua và triều thần nghe. Ai mô tả đúng sẽ được trọng thưởng.

Lát sau, vua quay lại hỏi người thứ nhất:

-         Nhà ngươi hăy mô tả con voi!

Anh này đắc ư tâu:

-         Tâu hoàng thượng, voi là một con vật giống y như cột đ́nh (v́ anh sờ trúng chân voi).

Anh thứ hai căi lại:

-         Tâu hoàng thượng, không phải thế, con voi có h́nh thu ngoằn ngoèo như một khúc rễ cây. Chính  hạ thần đă tận tay sờ thấy y chang như vậy (v́ anh này sờ trúng cái ṿi).

Anh thứ ba lên tiếng:

- Đâu phải, voi giống chiếc quạt lớn (anh sờ trúng tai voi)

Anh thứ tư bác lại:

-         Tâu đức vua, cả ba anh kia đều sai bét. Chính hạ thần mới là người biết được sự thật. Nó y như một tảng đá lớn, tṛn tṛn (v́ anh này sờ nhằm cái bụng).

Anh thứ năm chen vào:

-         Các anh là những người khoác lác và trả lời theo óc tưởng tượng chứ không dựa vào thực tế. Rồi quay qua đức vua, anh tiếp:

-         Thưa hoàng thượng, xưa nay hạ thần cứ tưởng voi là một con vật khổng lồ. Nào ngờ, hôm nay, nhờ công đức của hoàng thượng, hạ thần mới biết được sự thật: voi là một con vật nhỏ bé, phe qua phẩy lại như chiếc chổi cùn (anh này lại sờ trúng khúc đuôi).

Thế rồi năm anh đều cho ư kiến ḿnh là tuyệt đối đúng, và người khác là hoàn toàn sai, không ai chấp nhận ư kiến người khác, nên tranh căi nhau kịch liệt rồi quay ra đấm đá nhau dữ dội, người th́ bị găy răng, kẻ bị dập mũi, ḷi mắt… máu me lai láng trông rất thảm hại. Trong khi đó, nhà vua và đám cận thần ôm bụng cười ngặt nghẽo.  (Viết theo truyện cổ Ấn- Độ)

Năm người mù tiếp cận con voi từ năm khía cạnh khác nhau nên có năm ư kiến (năm quan điểm) khác nhau. Con người thường tiếp cận thực tại dưới nhiều góc độ khác nhau nên cũng có những quan điểm khác nhau như vậy.

Nhưng điều đáng tiếc là có lắm người cũng  giống như năm anh mù trên đây, cho rằng quan điểm của ḿnh, ư kiến của ḿnh, lập trường của ḿnh là tuyệt đối đúng và không chấp nhận những quan điểm khác. Chẳng những không chấp nhận ư kiến đối lập mà người ta c̣n triệt hạ nó. Thế là tấn kịch bi hài “sờ voi” vẫn tiếp diễn không ngừng.

Nơi một số người, căn bệnh “sờ voi” nầy hầu như trở thành măn tính và bất trị. Một khi người ta có một ư kiến, một quan điểm nào đó rồi th́ không ai có thể giúp họ nh́n theo quan điểm khác được.

ĐỪNG VỘI TIN VÀO LƯ LUẬN

Chúng ta hăy nghe Giáp và Ất tranh luận:

Giáp lư luận : “Ban sáng, mặt trời ở gần trái đất; ban trưa, mặt trời ở xa; v́ vào ban sáng ta thấy mặt trời to, ban trưa, ta thấy mặt trời nhỏ.”

Giáp lư luận rất đúng. Thế nhưng Ất lại không tán thành. Anh chứng minh ngược lại.

Ất nói: “Không đúng. Ban sáng, mặt trời ở xa, v́ ta cảm thấy nóng ít; ban trưa mặt trời ở gần, v́ ta cảm thấy nóng nhiều. Càng gần ḷ lửa th́ càng nóng, đúng không?”

Hai người đưa ra những luận chứng rất thuyết phục để bảo vệ cho quan điểm của ḿnh, nhưng chẳng có người nào đúng.

Vậy th́ đừng vội tin vào lư luận, v́ lư luận không nhất thiết đưa người ta đến gần chân lư.

ĐỪNG TUYỆT ĐỐI HOÁ QUAN ĐIỂM CỦA M̀NH

Đừng bao giờ tuyệt đối hoá quan điểm của ḿnh, tức cho rằng quan điểm của ḿnh là duy nhất đúng; quan điểm của người khác đă xưa, đă lỗi thời, không thích hợp, không đúng. Không ai nắm gọn chân lư trong tay. Như năm người mù sờ voi, mỗi người chỉ đúng về một khía cạnh, về một phương diện. Điều đáng trách là người ta cứ cho rằng ḿnh đúng toàn diện, nên không thể chấp nhận người khác quan điểm cũng  đúng (về một khía cạnh nào đó) như ḿnh.           

TRƯỚC HẾT, CẦN CHẤP NHẬN QUAN ĐIỂM CỦA NGƯỜI KHÁC

Trong một tập thể, trong một cuộc thảo luận, thường có những quan điểm khác nhau. Đó là điều tất nhiên không tránh được (nhưng đó lại là điều đáng mừng)

Điều đáng tiếc là có nhiều người không bao giờ chấp nhận quan điểm của người khác, phản đối người khác kịch liệt khi họ có quan điểm khác ḿnh hay trái ngược với ḿnh.

Thế là vở tuồng ‘mù sờ voi’ không ngừng tiếp diễn khắp nơi trên thế giới trong nhiều lănh vực khác nhau suốt chiều dài lịch sử loài người!

Hăy nhớ rằng chân lư th́ đa diện trong khi tâm trí con người hạn hẹp. Muốn biết rơ một ngôi nhà, cần quan sát nó từ nhiều điểm nh́n khác nhau; muốn luận tội một phạm nhân, quan toà phải nghe lư lẽ từ hai ba phía; muốn biết rơ một sự thật nào đó, chúng ta cũng  cần phải xem xét vấn đề dưới nhiều khía cạnh, nhiều quan điểm khác nhau.

Bởi thế, ta rất cần lắng nghe người khác bày tỏ quan điểm của họ để mở rộng nhận thức của ḿnh.

YÊU THÍCH VÀ TÔN TRỌNG QUAN ĐIỂM KHÁC BIỆT

Nếu anh màu đỏ, tôi cũng là màu đỏ như anh, th́ sự kết hợp giữa hai người cũng chỉ là màu đỏ, không có ǵ mới mẻ. Nếu anh màu đỏ nhưng tôi không đồng màu với anh mà là màu trắng, th́ sự phối hợp giữa hai người sẽ phát sinh màu hồng, mới mẻ hơn, dịu dàng hơn.

Nếu anh là nốt nhạc mi, tôi cũng là nốt nhạc mi, người bạn thứ ba cũng là nốt mi, th́ sự phối hợp giữa ba người khá buồn tẻ. Nhưng nếu anh là nốt mi, tôi là sol, người bạn thứ ba là đô, th́ sự phối hợp giữa ba chúng ta sẽ tạo nên một hợp âm vui tươi, sống động.

Sự phối hợp nhiều quan điểm khác nhau sẽ làm cho các tổ chức hoạt động hiệu quả hơn; sự phối hợp giữa hai đảng phái đối lập sẽ làm cho đất nước được dân chủ tiến bộ hơn.

ÁNH SÁNG SẼ LOÉ LÊN TỪ NHỮNG Ư TƯỞNG KHÁC BIỆT

“Du choc des idées, jaillit la lumière” (ngạn ngữ Pháp)

“Từ những ư kiến trái nghịch va chạm nhau, ánh sáng sẽ loé lên”. Hai cục đá va chạm mạnh vào nhau, lửa loé lên. Hai ư tưởng trái nghịch va chạm nhau, sẽ làm phát sinh sự thật, phát sinh ánh sáng.

Tôi đưa ra một ư kiến, anh đưa ra một ư kiến trái nghịch tôi, thế rồi cả hai ư kiến được dung hoà và nảy sinh ư kiến thứ ba tốt hơn cả hai ư kiến trước.

Một cuộc thảo luận không có những ư kiến trái nghịch là thảo luận một chiều, nghèo nàn, vô bổ và có thể đưa đến những kết luận sai lầm. Một cuộc thảo luận đa chiều, bao gồm nhiều ư kiến trái nghịch sẽ đem lại một kết luận đúng đắn, một giải pháp tốt.  

    

CẦN CÁI NH̀N TỔNG HỢP

Khi nh́n một đối tượng nào, chúng ta thường chỉ đứng ở một vị trí, một góc độ nào đó để nh́n, nên chúng ta thường chỉ thấy được một mặt, một khía cạnh nào đó của đối tượng mà thôi. V́ thế, cái nh́n của chúng ta thường có tính cách phiến diện, một mặt, một chiều. Trong khi đó, đối tượng ta nh́n th́ đa diện, muôn h́nh muôn vẻ.

Nếu chúng ta chỉ nh́n mặt sau của một ngôi nhà rồi lên tiếng b́nh phẩm về giá trị của ngôi nhà đó, chúng ta sẽ phạm phải sai lầm tai hại. Cần phải nh́n đủ tứ phía, rồi nh́n từ trên xuống, quan sát bên ngoài, xem xét bên trong… chúng ta mới có thể đưa ra một nhận định xác đáng về giá trị của  ngôi nhà đó.

Đứng trước một sự vật, mỗi người có một hướng nh́n khác nhau, nên thấy được những mặt khác nhau. Đứng trước một vấn đề, mỗi người có một quan điểm khác nhau, nên có những nhận định khác nhau.

V́ thế, đừng vội cho rằng quan điểm của ḿnh th́ đúng c̣n quan điểm của bạn th́ sai.

Phê b́nh, công kích người khác khi họ có một hướng nh́n, một quan điểm khác với hướng nh́n, quan điểm của ḿnh th́ thật là chủ quan, thiếu sáng suốt và thiếu óc khoa học.

Tốt hơn, sau khi đă quan sát một đối tượng, một vấn đề dưới góc độ này, dưới quan điểm này, chúng ta hăy đứng sang những vị trí khác, những quan điểm khác để nh́n đối tượng theo những chiều hướng khác.

Biết phối hợp những hướng nh́n khác nhau, nhiều ư kiến trái ngược, nhiều quan điểm đối lập… sẽ giúp chúng ta đến gần sự thật hơn và nhất là khỏi phải xung khắc, bất hoà với nhau v́ bất đồng quan điểm.

            Lm. Inhaxiô Trần Ngà

conggiaovietnam@gmail.com

www.conggiaovietnam.net

Người gởi : xuantuanbui@yahoo.com

 






Nhóm mạng Việt Nam Văn Hiến
Trang: Quan Điểm
www.vietnamvanhien.net (Tin tức cập nhật thường xuyên)
www.vietnamvanhien.org
(Thuần ngữ, tải nhanh)
www.vietnamvanhien.info
(Tủ Sách Văn Hiến , hơn 7100 tác phẩm và bài vở)
www.vietnamvanhien.com
(Kinh Tế &Tài Chính)

Email: thuky@vietnamvanhien.net

Lấy Tâm Lực thay cho vũ lực để giải trừ quốc nạn là phục hoạt nếp sống Văn Hiến
 v
à phục hồi nền "An Lạc & Tự Chủ" ngàn đời của Việt tộc.


Lấy T́nh Người thay cho dối trá và hận thù. Lấy Nghĩa Làm Người thay cho tham nhũng và độc quyền là phương châm hành động của Nghĩa Sĩ Văn Hiến

Lấy Nhân Tâm làm phương tiện, dụng Dân Tâm làm quốc sách "An Dân & Lạc Quốc" là kim chỉ nam của thể chế Dân Chủ Văn Hiến.

Nhóm mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi lưu trữ và phổ biến những biên khảo, sáng tác và
 ư kiến của quư vị và các bạn nhằm hai mục đích:
 (1) Bảo tồn di sản văn hóa của Việt tộc.
 (2) Thắp sáng niềm tin Diên Hồng và nếp sống Văn Hiến hầu phục hồi nền "An Lạc & Tự Chủ" ngàn đời của Việt tộc
.