Việt
Nam
Văn
Hiến
Năm
Thứ
4889
www.vietnamvanhien.net
Trụ Ðồng Mã Viện:
Sự
Ðàn Hồi Của Biên Giới Ðế Quốc Trung Hoa
|
|
Chính
Ðạo
©
2010
by
Van
Hoa
Publishing Co.
All
Rights Reserved
|
Cuộc nổi dạy của Hai
Bà Trưng năm 40 được coi như trang đầu bi hùng của Việt
sử dài theo cuộc chiến vệ quốc trường kỳ, liên lũy suốt
hai thiên kỷ. Hàng năm, giỗ hai Bà được cử
hành ngày 6/2 âm lịch [hiện thay thế bằng
ngày 8/3 TL, tức ngày Phụ nữ]. Trong khi đó, Phục
ba tướng quân Mã Viện trở thành biểu tượng của
chính sách thực dân Ðại Hán [Ta
Han
hegemonism hay Hanism], mối đe dọa thường trực
của các lân bang nói riêng, và nền
hòa bình thế giới nói chung. Huyền thoại chị em
hoặc vợ chồng Trưng Vương dấy binh chống Hán cùng chiến
công tái chiếm cổ Việt đẫm máu của Mã Viện,
vẫn được lưu truyền với nhiều xúc động. Những bài học sử
đồng ấu và tiểu học tại hai nước láng giềng hoàn
toàn đối nghịch. Sử quan Trung Hoa, bất kể màu sắc
ý thức hệ, khoác lên Trụ đồng Mã Viện–với
lời thề “đồng trụ triết, Giao Chỉ diệt”–lớp son phấn khai hóa
và thiên mệnh thôn tính thiên hạ. Sử
quan Việt chép hai bà Trưng làm một kỉ
riêng, như bước diễn tập cho nền tự chủ. Thành ngữ “Giặc
đến nhà, đàn bà phải đánh” trở thành
biểu tượng của tinh thần kháng Hán, vệ quốc.
Bài viết
này duyệt lại huyền thoại trụ đồng Mã Viện xuất hiện từ
khoảng thế kỷ thứ IV-V, nhưng không hề có dấu vết
trên thực địa hay trong quốc sử nhà Hán. Những
dã sử về số lượng và vị trí trụ đồng chẳng những
thiếu cơ sở, mà còn di động, từ châu Khâm tới
Hà Tiên-An Giang–không ngừng nam tiến, giống như tấm
bản đồ biển Ðông Bắc Kinh mới công bố năm 2009, ấn
chứng của “thực dân xã hội chủ nghĩa” [social
colonialism], vò đựng mới cho tinh thần Ðại Hán
phong kiến.
Làm việc
theo phương pháp tỉ đối nhiều nguồn tư liệu, chúng
tôi tạm thời kết luận rằng–cho đến khi có tài liệu
chứng minh ngược lại–huyền thoại trụ đồng
đã được ngụy tạo và sử dụng trong những cuộc tranh chấp
biên giới, thực hay giả, nhằm phục vụ mục tiêu
nhất thời nào đó.
Sơ thảo năm 1979,
khi tác giả khởi đầu chương trình thế giới sử tại Ðại
học Wisconsin-Madison, dưới sự hướng dẫn của cố Giáo sư John R.
W. Smail, và sự giúp đỡ nhiệt thành của
Giáo sư địa lý học Ðông Nam Á Daniel F.
Doeppers–khi chính sách không công nhận ngoại
giao và cấm vận kinh tế của Liên Bang Mỹ khiến thông
tin về Việt Nam cực kỳ hiếm hoi–tác giả đã cố gắng tổng
hợp và so sánh nhiều tư liệu cổ sử, địa lý cổ
thời, khảo cổ học và nhân chủng học. Ba chục năm sau,
nguồn thông tin đã phong phú hơn, nhờ sự cải thiện
bang giao hai nước, cùng những chuyến du khảo sau ngày
tốt nghiệp. Ðặc biệt hữu ích là bộ Lịch
Vạn Niên của Lý Quí Ngưu giúp chuyển từ
ngày âm lịch qua tây lịch do Giáo sư Mai Quốc
Liên tặng, và bản dịch mới nhất ÐVSKTT của Ngô
Sĩ Liên et al, do bào huynh Vũ Ngự Triệu mua tặng trong
chuyến về quê tu sửa từ đường và phần mộ tiền nhân
đầu Xuân 2010.
Tuy nhiên,
mọi thiếu sót riêng tác giả chịu trách nhiệm.
Houston, 1/2-10/4/2010.
Chính
Ðạo
Những chữ viết tắt:
ANCL : An Nam
Chí Lược, Lê Tắc, bản dịch Trần Kính Hòa et al. (Huế: Ðại
Học Huế, 1961)
CM, TB:
Khâm Ðịnh Việt Sử Thông Giám Cương Mục [CM],
Tiền Biên [TB], bản dịch
Trương Bửu Lâm et al., (Sài Gòn: 1965); bản dịch
viện Sử học (Hà Nội: NXB Giáo Dục, 1998);
ÐNNTC:
Ðại Nam
Nhất Thống Chí, bản dịch Phạm
Trọng Ðiềm và Ðào Duy Anh, 5 tập (Huế: Thuận
Hóa, 1997),
ÐVSKTB:
Ðại Việt Sử Ký Tiền Biên, bản dịch
Dương Thị The et al. (Hà Nội: 1997), Ngoại Kỷ;
ÐVSKTT:
Ngô Sĩ Liên et al., Ðại Việt Sử Ký Toàn
Thư, Ngoại Kỷ, q. III, bản
dịch Nhượng Tống (Hà Nội: Tân Việt, [1944?]) [sẽ dẫn
Nhượng Tống (1944)]; bản dịch Cao Huy Giu (Hà Nội: 1967), [sẽ
dẫn Giu (1967)]; bản dịch Ngô Ðức Thọ et al (Hà Nội:
2009) [sẽ dẫn Thọ (2009)];
LTHCLC: Lịch
Triều Hiến Chương Loại Chí, Phan Huy
Chú, bản dịch Viện Sử học, 3 tập (Hà Nội: 1992)
NCLS: Tập san
Nghiên Cứu Lịch Sử (Hà Nội)
TKCS: Thủy
Kinh Chú Sớ, Lịch Ðạo
Nguyên, et al., bản dịch Nguyễn Bá Mão (Hà
Nội: 2004).
VÐLN:
Vân [Văn] Ðài Luận Ngữ, Lê
Quí Ðôn, bản dịch Phạm Vũ và Lê Hiền
(Sài Gòn: 1973?).
I. CUỘC KHỞI NGHĨA
CỦA HAI BÀ TRƯNG (40-43):
A. DIỄN BIẾN:
Tháng 3/40
[tháng 2 Canh Tí], đời Lưu Tú hay Văn Thúc
(Hán Quang Vũ, 25-55), hai Bà Trưng dấy binh ở quận Giao
Chỉ. Các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng.
Thái thú Tô Ðịnh (34-40) chạy về Nam Hải (Quảng
Ðông ngày nay). Bà Trưng Trắc tự lập làm
vua. Ðóng đô ở Mê Linh.
Vì cổ Việt
không có chữ viết riêng, và/hoặc hủ tục
mà thế giới lên án là mọi rợ văn hóa [cultural barbarism] đã hủy diệt mọi di tích
cổ Việt, sử quan đời sau đành dựa theo truyền thuyết và
thư tịch Trung Hoa để tái dựng Kỷ Trưng Nữ Vương, được vỏn vẹn
mươi trang giấy. Và, giống như bất cứ cuộc kháng
Hán nào của người Việt, sử sách Trung Hoa chỉ
chép trong mục “làm loạn” hay “chinh thảo,” giọng điệu
khinh bạc, tự tôn hơn cả sử quan Pháp khi thuật lại những
phong trào kháng Pháp từ 1858 tới 1955. Trong khi
đó, sử quan Việt đánh giá như một bước diễn tập
cho cuộc khai phục quốc thống, giành tự chủ–theo công thức
Việt tự chủ/ bá quyền Hán. Nhưng khuôn khổ
“thánh giáo” của Khổng Khâu khiến kỷ Trưng Nữ Vương
nặng phần cung văn [hagiographies].
Sử quan Việt ghi:
Canh
Tí,
niên
hiệu
Kiến
Vũ
thứ
16. Mùa Xuân,
tháng Hai. Người nữ Giao Chỉ là Trưng Trắc dấy binh chống
thái thú Tô Ðịnh, đuổi hắn, tự xưng vua [Canh
Tí.
Hán
Kiến
Vũ
thập
lục
niên. Xuân nhị
nguyệt. Giao Chỉ nữ tử Trưng Trắc khởi binh công thái
thú Tô Ðịnh, trục chi, tự lập vi vương]. (1)
Lê Tắc,
tác giả An Nam Chí Lược [ANCL],
thế kỷ XIV, chép theo quan điểm Hán:
Người
nữ
Giao
Chỉ
là
Trưng
Trắc
làm loạn, Cửu Chân, Nhật
Nam hưởng ứng, tấn công các quận ấp, chiếm được 60
thành, tự xưng làm vua [Giao Chỉ nữ tử Trưng
Trắc phản, Cửu Chân Nhật Nam giai ứng chi, công duyên
quận ấp, lược lục thập thành, tự lập vi vương.] (2)
Nguyên văn
diễn âm đoạn Quảng Châu Ký
chép về Bà Trưng, được dẫn trong Mã Viện truyện
của Hậu Hán Thư, và rồi sách sử
Việt, như sau:
Hậu Chu Diên
lạc tướng danh thi sách mê linh, Lạc tướng nữ danh Trưng
Trắc vi thê Trắc vi nhân hữu đảm dũng tướng thi khởi tặc
công phá châu quận phục chư lạc tướng giai thuộc
Trưng Trắc vi vương trị Mê Linh huyện phục Giao Chỉ Cửu
Chân nhị quận dân nhị tuế điệu phú.
Hậu Hán
khiển Phục Ba tướng quân Mã Viện tương bình thảo
Trắc Thi tẩu nhập Kim Khê cứu tam tuế nãi đắc.
Nhĩ thì
Tây Thục tịnh khiển binh cộng thảo Trắc đảng tất định quận huyện
vi lệnh trưởng dã”
[Quảng Châu
Ký (III-IV); Tư Mã Trinh, Sử Ký sách ẩn
(VII-VIII), dẫn Giao Châu Ký của Diêu Văn Hàm]
Lối viết ngắn
gọn, không có dấu chia câu hay kết đoạn, không
có cách phân biệt tên người, tên đất
trong sách cổ khiến văn gia Việt và Hoa đi đến những diễn
giải khác nhau.
1. Về
thân thế Hai Bà Trưng, Cương Mục Tập
Lãm và Thủy Kinh Chú–một bộ
tiểu thuyết địa lý và thần thoại Trung Hoa, do
nhóm Li Dao-yuan [Lịch hay Lệ Ðạo Nguyên, (ca 466
[472]-527) diễn giải sách cổ Thủy Kinh của Tang
Khâm [?], nhưng cũng nguồn tư liệu chính của sử quan Việt
và Hoa–giải thích Trưng vương nguyên họ Lạc, con
gái Lạc tướng huyện Mi [Mê] Linh. Sau khi lên ngôi
đổi sang họ Trưng. Ngô Sĩ Liên đặt nghi vấn chi tiết họ
Lạc, trong khi sử quan Nguyễn tin theo tài liệu Trung Hoa. Khâm Ðịnh Việt Sử Thông Giám Cương Mục
chép “Vương vốn họ Lạc, lại có họ riêng là
Trưng;” dựa theo Cương Mục tập lãm. Ðại
Việt
Sử
Ký
Toàn
Thư,
phần Ngoại Kỷ, bác chi
tiết họ Lạc. Sử quan Tây Sơn (Ngô Thì Sĩ et al) chỉ
ghi họ Trưng.( 3)
Thực ra, Lạc
hay Trưng cũng không đúng hoàn toàn.
Ðó chỉ là cách người Việt xướng âm hai
chữ Hán “Lạc” và “Trưng.”
Lối xướng âm tên họ hai bà của người cổ Việt vẫn
chưa ai biết.
2. Bà
Trưng đã lập gia đình với con trai Lạc tướng Chu
Diên là Thi Sách (theo sử Việt) hay Thi (dã
sử Trung Hoa). Trong đoạn văn “Hậu Chu Diên lạc
tướng danh thi sách mê linh lạc tướng nữ danh trưng trắc
vi thê,” sử quan Việt đọc hai chữ thi
sách thành Thi Sách (họ Thi, tên
Sách), nhưng có văn gia Hán hiểu chữ “sách” là lấy,
không phải tên: Như thế, “con trai Lạc tướng Chu Diên
tên Thi lấy con gái Lạc tướng Mê Linh tên
Trưng Trắc làm vợ.” (4)
3. Sử Việt
còn ghi bà Trưng đã dấy binh báo thù
cho chồng bị Tô Ðịnh giết, trong khi dã sử Trung Hoa
ghi cả hai vợ chồng cùng nổi lên kháng Hán [Trắc
vi
nhân
hữu
đảm
dũng
tướng
Thi khởi tặc công phá
châu quận phục chư lạc tướng giai thuộc].
4. Ða số sử
quan Việt đều ghi Bà Trưng thu phục được 65 thành ở Lĩnh Nam
(phía nam núi Ngũ Lĩnh), tự xưng làm vua. Bảng
nhãn Lê Văn Hưu, soạn giả bộ quốc sử đời Trần (1226-1400),
nhận định: hai bà Trưng “hô một tiếng mà các
quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố và 65 thành ở Lĩnh
Ngoại đều hưởng ứng, việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn
tay.” (5) Bảng Nhãn Lê
Quí Ðôn, ghi 65 thành, nhưng chỉ liệt kê
được 56 thành theo Ðông Hán Chí [địa dư
chí của Hậu Hán thư], với phụ chú: “Ðời xa, sự
tích mai một; các thành huyện xưa nay không
biết ở những xứ sở nào, dấu cũ không còn mấy;” chỉ
còn lại Long Biên và Phong Khê (Yên
Lãng).” (6) Lê Tắc ghi 60
thành [lược lục
thập thành, tự lập vi vương]. Ngô Thì Sĩ ghi 56
thành; có lẽ dựa theo Hậu Hán Thư, rằng thuộc địa
Giao Chỉ bộ gồm bảy [7] quận, 56 thành–Nam Hải (7 thành),
Thương Ngô (11), Uất Lâm (11), Hợp Phố (5), Giao Chỉ (12),
Cửu Chân (5), Nhật Nam (5). Nhóm sử quan Tây
Sơn và Phan Huy Chú ghi là hơn 50 thành. (7) Nhưng Hai bà Trưng
có thể chỉ chiếm được 27 thành ở Giao Chỉ, Cửu Chân
và Hợp Phố. Thủy Kinh Chú ghi Trưng
Vương thu thuế, hay miễn thuế hai
quận Cửu Chân và Giao Chỉ hai năm, tức thực sự cai trị chỉ
có 22 thành. (8)
Chúng ta
chỉ biết hai bà đã lên ngôi vua, nhưng
không rõ cách tổ chức chính quyền, hay
quân đội. Truyền thuyết về các nữ tướng, hay anh
hùng dân gian đã tham dự cuộc dấy binh quá
sơ lược. Ngay đến vị tướng cuối cùng bị Mã Viện đả bại ở
Cửu Chân và 5000 người yêu nước bị Viện thảm
sát cũng chịu cảnh liệt sĩ vô danh.
Những chi tiết
ngắn ngủi dị biệt về Hai Bà Trưng–cùng nhiều tác
nhân lịch sử khác–là điều khó tránh.
Thứ nhất, văn sử về Bà Trưng chủ yếu dựa trên tài
liệu tuyên truyền mệnh danh là Bắc sử, theo đó cuộc
khởi nghĩa của Trưng Vương được tóm lược như phản loạn (ngụy,
tặc đảng), phụ chú bên lề [anecdotes] chính
sách tham ô, bạo ngược của Tô Ðịnh (34-39),
cùng chiến công của Mã Viện. Hàm ý
là nếu chọn được người khéo cai trị, thuộc địa Giao Chỉ
đã từ lâu biến thành đất Hán. Thứ hai,
truyền khẩu sử khó tránh khỏi yếu tố thần thoại đương
thời, rồi thêm thắt chi tiết theo thời gian. Thông tin khả
tín, đáng ghi nhớ, là tác nhân lịch
sử Trưng Vương phất cờ tiên phong trong công cuộc khởi
nghĩa chống lại ách đô hộ của nhà Hán từ năm
40 tới 43. Hai bà là những người đầu tiên, nhưng
không phải cuối cùng, đã viết nên lịch sử
dân tộc Việt suốt hai nghìn năm luôn luôn bị
ngoại xâm đe dọa tận diệt hoặc đồng hóa. Tư liệu Trung Hoa
khẳng định điều này, và cũng xác nhận Bà
Trưng đã xưng vương.
Vì
lý do nào đó–có thể vì hủ tục
trọng nam, khinh nữ [nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô]–Lê
Văn Hưu cùng sử quan Việt các đời chưa dành cho
Hai Bà Trưng vị trí xứng đáng hơn trong quốc sử.
Ngọn đuốc kháng Hán giành độc lập đã thắp
lên từ hai Bà Trưng–không phải thái
thú Sĩ Nhiếp, Giám quân Lý Bôn tự
Bí, hay Bố Cái Ðại Vương. Và cũng có
thể từ đời Lưu Tú hay Văn Thúc, nhà Hán mới
trực trị ở cổ Việt, khởi sự đồng hóa dân Việt qua
giáo dục, tập quán (cưới hỏi) và khai thác
kinh tế. Vì thế, sau cuộc khởi nghĩa của hai Bà Trưng,
suốt thời Ðông Hán, loạn lạc khắp nơi, khác hẳn
với sự im lặng khó hiểu và khá dài từ 214
TTL tới đầu thiên kỷ thứ nhất Tây lịch.
5. Vấn đề
lãnh thổ vương quốc dưới thời hai Bà Trưng còn cần
thêm những nghiên cứu nghiêm túc mới. Như
trên đã lược nhắc, sử Việt chép dân bốn quận
Nam Hải, Cửu Chân, Nhật Nam và Hợp Phố đều hưởng ứng cuộc
khởi nghĩa. Nhưng sử sách Trung Hoa hàm ý hai
Bà chỉ cai trị được hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân.
Tại những quận huyện khác, Thứ sử và các
thái thú chỉ chỉ lo tự bảo toàn thôi. [Giao
Chỉ
thứ
sử
cập
chư
thái
thú cẩn đắc tự bảo]. (9) Theo Quận Quốc Chí
trong Hậu Hán Thư, khoảng năm 110-106 TTL, Lưu Triệt đã
chia vương quốc Nam Việt cũ của họ Triệu thành chín [9]
quận, thuộc Giao Chỉ Bộ, dưới quyền Thạch Ðái. Ngoài
hai quận Chu Nhai, Ðam Nhĩ ngoài biển, bảy quận còn
lại nằm về góc đông nam Hoa lục. Cho tới năm 264 đời
nhà Ngô, phần Giao Chỉ Bộ trên đất liền vẫn giữ
nguyên tên bảy quận Nam Hải, Hợp Phố, Uất Lâm, Thương
Ngô, Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Những thay đổi
lãnh thổ không được ghi chép. Có thể sử quan
hay địa lý gia Hán tộc kiến thức hời hợt về cõi
ngoài hoang vực–gọi chung là xứ mọi rợ, man di–nhưng
không thể không nghĩ đến dụng tâm chính trị
của vua quan Hán.
Hai vấn đề nổi
bật lên trên lãnh vực địa lý. Thứ nhất,
không rõ số phận của quận Tượng đời Tần ra sao. Theo Tiền Hán Thư, Lưu Phất Lãng (Hán
Chiêu đế, 86-74 TTL) bỏ quận này năm 76 TTL, ghép
đất đai vào hai quận Uất Lâm [Yu lin, đông nam Quảng
Tây] và Thương Ngô [Tsang ko, tây Quí
Châu]. (10) Nhưng trong giai đoạn 110-106
TTL, tức khoảng hơn 30 năm trước, tại sao Tượng Quận bỗng dưng biến
dạng, hoặc bị bỏ quên? Nếu Lưu Triệt đã chia Tượng Quận
làm Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam sau khi diệt Nam Việt,
tại sao năm 76 TTL còn mất công xoá tên,
và Lưu Phất Lãng lấy đất nào để chia cho Uất
Lâm (tên mới của Quế Lâm) và Thương Ngô?
Ngắn và gọn, văn gia đời sau có lẽ đã tái
dựng những sự việc như Tượng Quận, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam
hay Lâm Ấp, và mức khả tín là những dấu hỏi
lớn. Không chỉ về sử liệu (như gán ghép “Thương
Ngô” vào cái chết của cha con Ðiêu
Trùng Hoa (Thuấn, 2255-2208 TTL) mà còn dụng
tâm chính trị của thời họ. (11)
Thứ hai, từ năm
135 TTL, Lưu Triệt đã xâm lược Dạ Lang (dân
Miêu) lập ra quận Tường Kha, và Ðiền (Tien, Lạc,
tây Vân Nam), tách hai nước này khỏi Nam Việt
của nhà Triệu. Cũng có tin Thương Ngô tách
ra từ phần đất phía nam của Dạ Lang cũ, lệ thuộc vào Nam
Việt trước ngày Lộ Bác Ðức “tru Lã Gia, khai
cửu quận” [giết Lã Gia, mở 9 quận]. Thương Ngô vương Triệu
Quang (thông gia của Tể tướng Lã Gia và người
cùng họ với vua Nam Việt) xin đầu hàng ngay sau khi nghe
tin Bác Ðức kéo quân đến. Trong khi đó,
Quan Giám quận Quế Lâm là Cư Ông thì
khuyên dụ Âu, Lạc hàng.
[1b] Thương
Ngô vương Triệu Quang dữ Việt đồng tính, văn Hán
binh chí [2a] hàng. Việt Quế Lâm giám Cư
Ông dụ cáo Âu Lạc giai hàng. .
. .
Thị
thì
Việt
trung
nhị
sứ
tế ngưu bách đầu, tửu
thiên chung, trí Giao Chỉ, Cửu Chân nhị quận
[quân] hộ tịch nghinh hàng; Bác Ðức nhân
bái [bài] nhị sứ vi Giao Chỉ, Cửu Chân thái
thú, trị dân như cố. Ư thị toại thuộc Hán. (12)
Cách
nào đi nữa, Henri Maspéro có lẽ đã đi
quá xa khi qui trách lỗi lầm của Tiền
Hán Thư cho sự dốt nát về địa lý của văn gia
Ngô, Tấn, Lưu Tống, Tùy, Ðường như Vi Chiêu,
Vương Ẩn, Chu Khứ Phi v.. v.. Họ có lý do riêng khi
cung cấp những chi tiết hỗn độn trên. Trong thời gian 675-680,
Hoàng Thái tử/Giám quốc Lý Hiền (654-684),
con thứ 6 Ðường Cao Tông và Võ Hậu, chẳng hạn, sai Trương Ðại Yên
và Lưu Nạp Nguyên chú giải Hậu Hán Thư của
Phạm Việp hay Hiệp.
Ðỗ Hữu
(735-812) là cựu kinh lược Lĩnh Nam, và hoàn
tất Thông Ðiển trước khi về triều làm
tể tướng năm 803. Hữu có lẽ liên hệ đến cuộc tấn
công Hoàn Vương (Lâm Ấp) vào đầu thế kỷ IX
(809), khi tình hình Giao Châu hỗn loạn [nổi dạy
của Bố Cái Ðại Vương (791), và rồi cuộc nổi loạn của
binh sĩ Ðô Hộ Phủ chống Bùi Thái]. Cũng
vào thời gian này, truyền thuyết Mã Viện được phục
sinh. Phong trào “kim tiêu”–dựng trụ đồng làm
biên giới theo gương Mã Viện–được phát động. Ở kinh
đô, Ðỗ Hữu rao giảng thuyết Nhật Nam là Tượng Quận
nhà Tần (q. 184, 4b), trong khi tại thực địa vài đô
hộ dựng trụ đồng mới “tại chỗ cũ.” (13)
Như một hệ luận,
không thể không tự hỏi đâu là thời điểm
chính xác quận Nhật Nam được đặt “vào
bản đồ” đế quốc Hán? Mặc dù có tin Nhật Nam lập ra
từ đời Triệu–bởi thế có sách chép ba đại diện ở cổ
Việt, tương ứng với Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam
đã đón đường Lộ Bác Ðức ở Hợp Phố xin nộp
trâu, rượu và sổ bạ dân quận xin hàng–nhưng
sử quan Tây Sơn và Nguyễn bác thuyết này.
Lý do đưa ra là trước đó, năm 198 TTL, Triệu
Ðà chỉ gửi hai sứ giả qua cai trị Âu Lạc cũ. Từ năm
này tới năm 111 TTL, không có nguồn tin nào
về sự thay đổi quận huyện ở Âu Lạc cũ. Mãi tới năm 110 TTL
hay 106 TTL, Lưu Triệt mới đặt thêm quận Nhật Nam,
bằng cách tách ra năm [5] huyện cũ ở phía nam Cửu
Chân.
Nhưng ngay thời
điểm 110-106 TTL này cũng cần nghiên cứu thêm.
Khoảng hơn một thế kỷ sau, đời Lưu Trang (Hán Minh đế, 58-75),
vua quan Hán còn rất mù mờ về Nhật Nam. Mặc
dù Hậu Hán Thư đưa ra tên năm [5] thành
Tây Quyển, Chu Ngô [dọc bãi biển], Lư Dung
[có bến tìm vàng], Tượng Lâm [sau là
Lâm Ấp, Chiêm Thành], Tị Ảnh, với 15,460 hộ
và 60,485 nhân khẩu–nhưng Phạm Việp (398-446), hoàn
tất sách vào thế kỷ thứ IV, khi “Nhật Nam” đang do
Lâm Ấp quản trị (trễ nhất từ năm 242) và quan lại Trung
Hoa chỉ đặt ra một hành lị sở ở Cửu Chân để chờ
ngày tái chiếm. (14)
Rất có
thể Cửu Chân chỉ được tách ra để lập thêm Nhật Nam
dưới thời Chiêu Ðế hay Vương Mãng (8-23), hoặc sau
cuộc viễn chinh của Mã Viện, dưới tên huyện Tượng
Lâm, tức cổ Champa. Bởi thế không thể không tra cứu
thêm vấn đề liên hệ khác nữa là thời điểm cổ
Champa hay Lâm Ấp tách khỏi đế quốc Hán (năm 100,
137 hay 192?), hoặc–rất có thể–chưa hề dưới quyền trực trị của
nhà Hán, mà chỉ bị nhà Ngô [Wu], Tấn
[Jin], Tống [Liu Song], Tề [Wei], Lương [Liang], Tùy [Sui,
603-618] liên tục đánh cướp, chiếm đoạt đất đai?
Về thực địa,
kinh đô Mê Linh vẫn còn là một ẩn số. Ðại Nam
Nhất Thống Chí [ÐNNTC] của triều Nguyễn cho rằng
Mê Linh thuộc Phong Châu, vùng kinh đô triều
đại huyền sử Hồng Bàng. Ðịa danh Phong Châu này
thực ra chỉ xuất hiện từ đời Tùy-Ðường, nhưng sử Việt
chép nó thuộc Giao Chỉ, hay Văn Lang (khoảng Bạch Hạc-Sơn
Tây), một trong 15 bộ của nhà Hồng Bàng.
Chúng ta cũng được biết đời Nguyễn còn dấu “thành
cổ Mê Linh” ở huyện Phúc Thọ, Sơn Tây, nay là
xã Hạ Lôi, huyện Yên Lãng, Vĩnh Phú. Dấu tích ra sao?
Có giống một vòng tròn xếp bằng đá
đánh dấu chỗ họp triều đình để chống giặc Bắc trên
đền Hùng? (15)
Tài liệu
Hán còn lên án hai bà Trưng mang
quân quấy nhiễu châu quận biên giới Hán, khiến
dân tình khổ sở. Lối cáo buộc “xâm phạm
biên giới”–phần nào nhằm biện minh cho cuộc viễn chinh của
Mã Viện–là chiêu bài quen thuộc của
Hán tộc khi muốn cướp bóc, thôn tính
lân bang, hay tạo áp lực, dưới thứ chính nghĩa tự
nhận là “chinh thảo” [trừng phạt hay “dạy cho một bài
học”] như Lưu An đã viết cho Lưu Triệt năm 135 TTL. Trước thế kỷ
XIX, với vua quan Hán không hề có chiến tranh,
mà chỉ có trừng phạt những lân bang không thờ
kính thiên tử như con với cha theo nguyên tắc “sự
đại chi lễ” [phép thờ nước lớn], hợp với thiên mệnh [số
trời]. (16)
B.
CUỘC TÁI XÂM LĂNG CỦA
MÃ VIỆN:
Tháng
1-2/42 [tháng 12 Tân Sửu], Lưu Tú cho lệnh Hợp Phố,
Trường Sa chuẩn bị xe thuyền, sửa sang cầu đường, chứa thóc
lương chuẩn bị tái chiếm cổ Việt (Giao Chỉ). Phong
Mã
Viện
làm
Phục
ba
Tướng
quân, Lưu Long làm
phó tướng, Ðoàn Chi giữ lâu thuyền, chia hai
đạo thủy bộ cùng tiến. Viện theo duyên hải tiến
quân, gặp núi làm đường, vượt qua hơn 1,000
lí [dặm TH]. Tháng 4-5/42 [3 Nhâm
Dần], Viện đánh bại Trưng Vương ở Lãng Bạc. Trong
chiến dịch này, Viện tâm sự cùng thuộc hạ rằng,
dưới đất khí độc bốc lên ngùn ngụt, ngẩng lên
trời thấy diều hâu đang bay rơi xuống nước, khiến trạnh
lòng muốn bắt chước người em họ Thiếu Du sống thanh thản, an
nhàn mà không được.
Cổ sử ghi
Lãng Bạc tức Dâm Ðàm, phía tây
thành Ðại La, tức Hồ Tây, Hà Nội ngày
nay. Vài tác giả Pháp, như Henri Maspéro
và Claude Madrolle, dựa theo Thủy Kinh Chú
(đoạn nói về ba nhánh sông phía bắc
Hà Nội) và Hậu Hán Thư (địa
lí chí) cho rằng Lãng Bạc thuộc vùng
núi Tiên Du. Một số tác giả Việt nghiêng về
lập luận này. Có tác giả cho rằng Lãng Bạc
là vùng Phả Lại, trong khoảng năm huyện Yên Dũng,
Lục Nam, Quế Võ, Gia Lương và Chí Linh,
ngày nay. (17)
Việc tìm
hiểu về địa danh Lãng Bạc vẫn chưa và có thể chẳng
bao giờ kết thúc. Lãng Bạc là một tên
Hán Việt, do quan tướng Hán đặt ra, khó thể truy
tìm nguồn gốc. Ðất đai, sông biển đổi dời không
ngừng, phù sa sông Hồng liên tục bồi đắp đất mới.
Những truyền thuyết trong nhân gian về sự tích các
thần hoàng hay đền miếu–nguồn gốc hai bộ Lĩnh Nam Chích
Quái và Việt Ðiện U Linh tập–càng khiến vấn đề
phức tạp hơn. Thông tin khả tín duy nhất có thể
rút ra là Hai bà Trưng đã thua to một trận
ở phía đông Mê Linh, phải rút về chiến khu
Cẩm Khê hay Kim Khê–một địa danh gây nhức đầu
khác cho những nhà nghiên cứu cổ sử và địa
lý cổ. Ngô Sĩ Liên và sử quan Lê ghi
theo Hậu Hán Thư, nhưng ước đoán rằng
Cẩm Khê ở huyện Chân Lộc, Nghệ An. Tự Ðức và sử
quan Nguyễn dựa theo Thủy Kinh Chú bác
thuyết này, cho rằng Cẩm Khê (Kim Khê) nằm
vào địa phận phủ Vĩnh Tường, tỉnh Sơn Tây. (18)
Dựa theo Nam Việt Chí của Thẩm Hoài Viễn, Lê
Tắc ghi tên Kim Khê. Thủy Kinh Chú
dẫn Việt Chí, cho rằng Cẩm Khê hay Kim
Khê nằm về phía tây nam Mê Linh. Chi tiết này
giúp một tác giả Việt đi tìm Cấm Khê ở hữu
ngạn sông Hồng, và đề nghị nhìn nhận thung lũng
suối Vàng [Kim khê cứu], chân núi Bà
(cao 525 mét) ở góc đông nam dãy núi
Tản Viên]. Tại
đây,
có
làng
Hạ
Lôi,
huyện
Thạch Thất (Sơn
Tây), cách Hà Nội 35 km về phía tây
nam, 28 km hướng tây Hà Ðông, 20 km nam Sơn
Tây. Làng này cổ hơn làng Hạ Lôi,
huyện Yên Lãng (Tây Vu cũ). (19)
Tháng
1-2/43 [Tháng Giêng Quí Mão], Mã Viện
tiến vào Cẩm Khê hay Kim Khê, đả bại Trưng Vương.
Truyền thuyết nói ngày 6 tháng 2 Quí
Mão [5/3/43], hai chị em nhảy xuống sông Hát tự tử.
Dân chúng bí mật lập đền thờ trên bờ
sông Hát–tức một nhánh hạ lưu sông Bạch Hạc,
ranh giới phủ Quốc Oai, Sơn Tây và huyện Từ Liêm,
Hà Nội (đời Nguyễn)–nay là xã Hát
Môn, Phúc Thọ, Hà Tây. (20)
Dã sử
Trung Hoa ghi cả hai bà bị bắt. Theo Giao
Châu Ngoại Vực ký–một trong bốn tài liệu cơ bản
về thời kỳ này, nhưng đã tuyệt bản–Mã Viện tiến
đánh vợ chồng Trưng Trắc và Thi Sách ở Kim
Khê cứu, ba năm mới thắng [khiển
Mã Viện tương binh thảo Trắc Thi, tẩu nhập Kim khê cứu,
tam tuế nãi đắc]. Nhiều tác giả, kể cả sử
quan Nguyễn, ghi theo Nam Việt Chí của Thẩm
Hoài Viễn là bà Trưng giữ được hang Kim Khê
hai năm mới bị bắt [Trưng Trắc
tẩu nhập Kinh Khê huyệt trung, nhị tuế nãi đắc chi]. Lê Tắc chép theo
“Mã Viện truyện” (Hậu Hán Thư) rằng năm 43, Mã
Viện giết chết Trưng Nhị [Thập cửu
niên, Mã Viện trảm Trưng Nhị yêu tặc (Nhị, tặc muội
giả)], (21)
Tháng
11-12/43 [10 Quí Mão], Viện mang 8,000 tinh binh, hợp
cùng hơn một vạn quân Giao Chỉ, 2,000 lâu thuyền
truy đuổi tàn quân của Ðô Dương đến quận Cửu
Chân. Theo Giao Châu ký, Viện
phá đá ngầm, sửa chữa và đắp 500 lí đường
bộ. Chiếm huyện Võ Công, Dư Phát, chia binh
vào Võ Biên (dinh Cửu Chân đời Vương
Mãng), rồi kéo tới huyện Cư Phong. Cư Phong trở
thành lị sở Cửu Chân dưới thời Lưu Tống và Tề.
Ðời Tùy, thuộc Ái Châu. Ðời Ðường,
thuộc Nhật Nam.
Theo
Ðào
Duy
Anh,
Cư
Phong
sau đổi làm Di Phong tức
Diễn Châu, Thanh Hoa (năm 1943). Thủ lĩnh nghĩa quân Việt ở
Cư Phong không hàng, Viện chém vài
ngàn (có tin là hơn 5,000) thủ cấp. (22)
Sau đó
lập nên huyện Tượng Lâm ở phía nam Nhật Nam,
tức
nước
Lâm
Ấp
sau
này.
Rồi sử dụng người Việt theo
chính sách cai trị cũ–như Lệnh, cai trị một vạn hộ trở
lên; trưởng, một vạn hộ trở xuống. Thấy huyện Tây Vu
(33,000 hộ) quá đông, Viện chia làm Phong Khê
và Vọng Hải, có lẽ cũng để tăng cường sự kiểm soát
và phân tán lực lượng kháng Hán. Tại
Phong Khê, Viện xây thành Kiển Giang. Thành
tròn như cái kén nên gọi là “Kiển.”
Theo truyền thuyết đây là Loa Thành của An Dương
Vương. Viện còn thu trống đồng đúc thành ngựa
dâng lên Lưu Tú. Việc tịch thu trống đồng có
thể được nhìn dưới khía cạnh tiêu diệt nền văn
hóa cổ truyền–có lẽ theo mẫu hệ–để áp đặt thứ lễ
giáo Hoa hạ. Sự việc quân dân hơn 50
thành–hoặc từ 60 tới 65 thành–ngả theo Trưng Vương
có thể liên hệ đến chính sách Hán
hóa trên. Nhưng những nho gia nặng tinh thần “nhất nam
viết hữu, thập nữ viết vô,” và tam cương ngũ thường Khổng
giáo chỉ ghi lại “công ơn” Tích Quang, Nhâm
Diên, im lặng về chế độ mẫu hệ thời tiền Hán thuộc,
không “cẩn án” hay “phê” trong “quốc sử” Việt. Rất
tiếc,
chúng
ta
không
còn
lại
tư liệu nào để
tìm hiểu thêm vấn đề này. Nhưng không thể
không lưu tâm đến sự kiện hai lãnh tụ kháng
Hán đầu tiên là bà Trưng và Triệu Ẩu
hay Triệu Thị Trinh. Và cho tới thế kỷ XI, người Việt từng lập
đền thờ hoàng hậu Dương Thị Nga cùng hai chồng là
Ðinh Bộ Lĩnh và Lê Hoàn. Hay truyền thuyết hai
ông một bà thần bếp. (23)
Theo Thẩm
Hoài Viễn, quân Tây Thục [Xi Shu] cũng kéo
sang, giúp đánh hai bà Trưng [Nhĩ
thì Tây Thục tịnh khiển binh cộng thảo Trắc đảng, tất định
quận huyện vi lệnh trưởng dã]. Tuy dẫn Nam Việt
Chí về Kim Khê, sử quan Nguyễn bỏ chi tiết Tây
Thục. ÐVSKTT và ÐVSKTB đều không ghi.(24)
Năm 44
[Giáp Thìn], Mã Viện về nước. Bảy quận ở Giao Chỉ
[bộ] khi đi cống đều phải do đường biển tới huyện Ðông
Dã (Phúc Châu) mà nạp lễ vật. (25)
Phan Huy
Chú ghi trong Lịch Triều Hiến Chương Loại
Chí là còn dấu tích đền thờ Mã
Viện ở Quỉ Môn Quan, Chi Lăng (Lạng Sơn). Nhưng sử quan Nguyễn
phủ nhận, vì pho tượng ở đây giống đàn
bà–không giống một lão tướng đã gần tuổi 60.
(26)
II: TRỤ ÐỒNG
MÃ VIỆN: SỰ THỰC LỊCH SỬ HAY HUYỀN THOẠI?
Cuộc tái
xâm lăng cổ Việt năm 42-44, ngoài thành tích
đả bại hai bà Trưng, để lại nhiều huyền thoại. Sách sử
Trung Hoa ghi chép võ công của Mã Viện như
một cuộc chinh thảo, tuân theo mệnh trời, đánh dẹp nội
loạn, do vợ chồng hoặc chị em bà Trưng khởi xướng–đặt Giao Chỉ
trở lại bờ cõi đế quốc Hán. Trong Trung Quốc
thông sử giản biên, Phạm Văn Lan nhận xét rằng
việc xâm lược là sứ mệnh khai hóa của Hán
tộc, và Trưng Vương chỉ vì tư thù Tô
Ðịnh giết chồng mà dấy binh, chống tham quan, không
chống sự cướp nước của nhà Hán, giành độc lập. Một
tác giả Ðài Loan cũng đưa ra lập luận tương tự. (27)
Sử sách
Việt, ngược lại, đánh giá cuộc dấy binh của hai bà
Trưng như sự tiếp nối quốc thống từ nhà Hồng Bàng–một
diễn tập cho phong trào đòi độc lập, tự chủ. (28)
Trọng tâm
bài viết này vượt trên khuynh hướng cung văn
và đào mộ nói trên, chỉ xét lại
truyền thuyết Mã Viện dựng trụ đồng trong sử văn cũng như thực
địa, hy vọng tìm hiểu thêm về biên thùy
phía Nam của đế quốc Hán.
A.
KHÔNG GHI TRONG HÁN THƯ:
Hậu Hán
thư hoàn toàn im lặng (trong “Mã Viện truyện”).
Trụ đồng của “Mã Văn Uyên” [Mã Viện] chỉ được nhắc
đến từ thế kỷ IV-VI, trong các dã sử đã tuyệt bản
như Quảng Châu Ký, Lâm Ấp Ký,
Giao Châu Ký của Lưu Hân Kỳ, rồi dẫn lại
và bình luận trong Thủy Kinh Chú,
Thái Bình Ngự Lãm đời Ðường, v.. v... (29)
Chứng từ của
các quan cai trị và văn gia Hán đương thời–kể cả
Lý Cố, sau Mã Viện 100 năm, tác giả chủ thuyết “dĩ
man trị Man,” hay Tiết Tông (Kính Văn), phục vụ từ thời Sĩ
Nhiếp tới Lã [Lữ] Ðại vào cuối thế kỷ II, đầu thế kỷ
III–không nhắc gì đến trụ đồng. Trong những thông
tin về cuộc cướp phá cổ Champa của Nguyễn Phu năm 353, đời Tấn
Mục Ðế, hay Ðàn Hòa Chi và Tông
Xác năm 436 hoặc 446 đều im lặng, chỉ nói “ấn vua
đã ban xuống mà vàng chưa dâng lên;”
cách phá tượng trận của Champa do Tông Xác
phát minh, hay, công bố kết quả thí nghiệm đo
bóng mặt trời, khẳng định rằng Nhật Nam nằm về phía nam
điểm mặt trời mọc.( 30)
Truyền thuyết
trụ đồng được nhắc đến lần đầu trong Tùy thư, đoạn
nói
về
Dương
Quảng
(Tùy
Dượng
[Dạng] đế, 605-617) cử Lưu
Phương đi đánh Lâm Ấp [Champa] năm 605. Thời gian
này, Lưu Phương mới dụ hàng được Lý Phật Tử,
tái chiếm Giao Châu sau hơn nửa thế kỷ tự chủ nhân
dịp hỗn loạn ở Trung Hoa, suốt ba triều Lương, Trần và
Tùy. Tháng 1-2/605 [Giêng Ất Sửu], Phương đi
đánh Lâm Ấp, vì “nước Lâm Ấp có nhiều
của báu, nhưng lâu đời không đến chầu.” Tháng
3-4/605 [3 Ất Sửu], sau khi đả bại Phạm Chi [Sambhuverman Chumnik,
595-629, có mộ bia và tên nước Champa], giết
hàng vạn người, Lưu Phương tiến quân qua trụ đồng của
Mã Viện, và 8 ngày sau tới kinh đô Lâm
Ấp. Tháng 4-5/605 [4 Ất Sửu], Phạm Chi bỏ chạy ra biển. Lưu
Phương cướp đoạt 18 [12] bài vị bằng vàng của 18 đời vua
Lâm Ấp, ghi công vào bia đá rồi về. Tuy thắng
trận nhưng quân lính chết 3, 4 phần 10 vì bệnh thời
khí, và Phương cũng ốm chết dọc đường. (31)
Thoạt nghe, tưởng
chừng thông tin khá đầy đủ. Thực ra, khoảng cách
“tám ngày đường” quá mơ hồ. Ðạo quân
viễn chinh di chuyển bằng đường bộ được khoảng 20-30 lí mỗi
ngày; như thế trụ đồng ở phía bắc kinh đô Lâm
Ấp từ 160 tới 240 lí, hay khoảng trên dưới 100 cây
số. Quái ác là không rõ kinh đô
Lâm Ấp ở đâu. Có thuyết nói 8 đời vua Champa
cai trị ở thủ đô Singapura hay Simhapura [Sư tử thành],
tại Trà Kiệu [Quảng Nam] đến năm 750. Nhưng
không một bia đá nào cho phép khẳng định vị
trí Sư Tử Thành, ngoài dầu tích một
thành bị đốt cháy. Trong thập niên 1830, người
Bri-tên mua được của tiểu vương Malay một hòn đảo
có tên Singapura [Sư Tử Thành], hay đảo hải tặc,
nằm ngay trên đường xích đạo, tức Singapore hiện nay. Tuy
nhiên, đạo quân viễn chinh hai vạn người của Mã Viện
không hoặc khó có khả năng di chuyển trên
2,000 cây số hay 4,000 lí trong vòng một năm
(43-44). Kinh đô Lâm Ấp hay Champa chỉ có thể
là Quảng Bình, Thừa Thiên, hay Quảng Nam,
nơi
còn
dấu
tích
công
trình
xây cất
của dân Chàm. Thành Vijaya [Ðồ Bàn hay
Chà Bàn] ở Bình Ðịnh chỉ trở thành kinh
đô Champa từ khoảng cuối thế kỷ thứ X, sau cuộc viễn chinh của
Lê Hoàn.
Dù chẳng
biết trụ đồng ở đâu–vì ngay cả kinh đô Champa cũng
chỉ suy đoán vu vơ–văn gia Hán đời sau vẫn
sao đi chép lại sự tích trụ đồng. Khoảng đời Ðường,
trụ đồng trở thành một sự kiện lịch sử–và mô tả như
ấn chứng hùng hồn của ranh giới phía nam đế quốc
Hán, được chép vào cả Tự điển Từ Hải. Vài
quan lại thực dân đời Ðường bắt chước “Mã Viện.” Trong
số này có đô hộ Hà Lý Quang (năm 751)
sau khi đi đánh Nam Chiếu (Vân Nam); và, Mã
Tổng, “khoảng đời” Lý Thuần (Ðường Hiến Tông,
806-820), dựng cột đồng “ở chỗ cũ” [không rõ cai trị bao
lâu ở An Nam]. Khoảng đầu thế kỷ thứ IX, Liễu Tông
Nguyên nhắc đến trụ đồng Mã Viện trong văn bia mộ Trương
Chu, và đánh giá võ công Trương Chu ở
An Nam Ðô Hộ Phủ (Giao Châu) và Hoàn
Vương (Chiêm) to lớn hơn cả Mã Viện. (32)
Qua thế kỷ X, sau
khi cổ Việt giành được độc lập, trụ đồng được lịch sử
hóa. Tháng 9-10/980, trong chiến thư gửi Lê
Hoàn của Triệu Quang Nghĩa (Tống Thái Tông,
977-997) do Vương Vũ Xương soạn, huyền thoại cột đồng được chính
thức nhắc đến. Nó được viện dẫn như một cái cớ [pretext]
về việc tranh giành đất đai và “khôi phục”
lãnh thổ cũ đời Hán–hầu khai thác cái chết
đột ngột của cha con Ðinh Tiên Hoàng, xâm lăng
“Ðại Cồ Việt” theo kiểu “sét đánh không kịp bịt
tai” theo đề nghị của Hầu Nhân Bảo và Lư Ða Tốn:
“Chức vị đế vương
như ông thày chữa bệnh, trông thấy mọi rợ nào
có chứng đau, thì tìm thuốc chữa.... Cho nên
luyện đơn thuốc nhơn nghĩa, sửa soạn cái kim và mũi
đá đạo đức, chữa bệnh nơi gần cho thật mạnh, rồi điều trị cả
chín châu, bốn biển, chẳng còn đau ốm gì. [Cư đế vương chi vị, thị di địch chi bệnh... Ư thị, luyện
nhơn nghĩa chi dược nhĩ, tu đạo đức chi châm biêm, đại
liêu vu cận, nhi dũ cửu châu tứ hải, ký khương khả
ninh]
[Xứ Giao
Châu so với Trung Hoa chỉ như ngón tay, nhưng thánh
nhân vẫn phải chữa]. Vì thế
cần mở lòng ngu tối của ngươi để được thấm nhuần thánh
giáo.” Vì lòng nhân từ trùm
muôn nước, phải chữa trị cho [Giao Châu] khỏi đau, sớm thấm
nhuần thánh giáo, bỏ thói “cắt tóc ngắn,”
“uống nước bằng lỗ mũi,” “nói líu lo như chim.”
Ngày xưa về
thời Thành Chu [nước ngươi] đã đem dâng chim trĩ
trắng. Ðến thời Viêm Hán dựng cột đồng. Ðến
đời
Lý
Ðường
từng
là
đất
của TQ.
Ngươi không
nên nấp vào xó tối [úp mặt vào
góc nhà] để ta khó chịu, khiến ta dùng đến
kế chặt xác bằm xương, làm cỏ nước người, lúc ấy
hối cũng không kịp.
Cho dù biển
của ngươi có ngọc ta cũng ném xuống suối. Núi của
ngươi có vàng ta cũng quẳng vào bụi. Không
phải ta tham của báu của ngươi.
Nếu
theo
thì
tha
tội,
nghịch
lại
thì ta đánh [hướng
hóa ngã kỳ xá, nghịch mạng ngã kỳ phạt]. (33)
Từ đó,
trụ đồng biến thành vũ khí ngoại giao mỗi khi Trung Hoa
muốn tạo cớ để xâm lấn hay xách nhiễu. Năm 1272, sau khi
thôn tính Hoa lục, lập nên nhà Nguyên,
Qblai Khan [Hốt Tất Liệt] sai người sang hỏi về trụ đồng để xác
định biên giới. Nhưng sau nhiều chuyến khảo sát thực địa,
không thấy dấu vết nào–dù theo truyền thuyết,
vì sợ lời đe dọa của Mã Viện, dân Việt không
ngừng ném đá, đất vào chân trụ đồng để
nó không bị đổ. (34)
Việc này
xảy ra sau khi sứ đoàn Hốt Lăng Hải Nha và Trương
Ðình Trăn (Trương Lập Ðạo) đã sang Ðông
Kinh cuối năm 1271 [tháng 10 Tân Mùi], đòi
Trần Thánh Tông (1258-1278) qua chầu, nhưng vua nêu
lý do bị bệnh, từ chối, và cũng không chịu lạy sứ
lúc nhận chiếu–vì theo tục lệ Việt Nam chỉ nhận chiếu ở
điện chính, sau đó lui về nhà riêng. Qublai Khan [Hốt Tất Liệt]
đồng ý cho giữ tục lệ, nhưng vẫn đòi phải qua chầu. (35)
Vua Trần cả
quyết không chịu qua chầu, chấp nhận hai cuộc đại chiến chống
Mông năm 1278 và 1287-1288, và chuẩn bị chờ đợi
trận chiến vệ quốc thứ ba vào đầu thập niên 1290–nhưng
cái chết đột ngột của Qublai Khan khiến cả hai nước tránh
được cảnh binh đao. Dã sử Trung Hoa cho rằng nhà Trần
cuối cùng chấp nhận cống tượng người bằng vàng để đổi
hòa bình, nhưng chính sử Hoa và Việt đều im
lặng. Thực tế vua Trần còn cho đục thuyền giết chết Ô
Mã Nhi khi trao trả tù binh, vì Ô Mã
Nhi đã tàn phá lăng tẩm nhà Trần ở Long
Hưng (Hải Dương). Tháng 8-9/1345 [tháng 8 Ất Dậu],
Thoát Hoan Thiếp Mộc Nhĩ (Nguyên Thuận Ðế, 1333-1368)
lại sai Vương Sĩ Hành sang khảo sát vị trí trụ
đồng. Trần Dụ
Tông (1341-1369) sai Phạm Sư Mạnh đi biện bạch, nhưng không
rõ kết quả. (36)
Qua đời
nhà Minh, năm 1396 [Bính Tí], thổ tri phủ Tư Minh
(Quảng Tây) là Hoàng Quảng Thành tâu
lên Chu Nguyên Chương (Thái Tổ, 1368-1398) rằng
Ðồng Ðăng (phía bắc Lạng Sơn khoảng 14 cây số)
là đất Tư Minh mà người Giao Chỉ gọi là đất
Ðồng trụ. Khi Mông Cổ đánh Tống, An Nam–quốc hiệu
này được chính thức ban cho Lý Anh Tông năm
1163 hay 1175–cung cấp quân lương tới trại Vĩnh Bình,
cách đồng trụ 100 lí. Cuối đời Nguyên, người Giao
Chỉ đánh chiếm trại Vĩnh Bình [có lẽ là đầu
nguồn sông Kỳ Cùng], vượt qua Ðồng Trụ hơn 200
lí, lấn cướp năm [5] huyện Khâu Ôn, Như Ngao,
Khánh Viễn, Uyên và Thoát. Xin sức cho An
Nam trả lại đất ấy. Chu Nguyên Chương sai Trần Thành
và Lữ Nhượng qua bàn thảo, không xong. Năm 1405 Chu
Lệ (Minh Thành Tổ, 1403-1424) khai thác việc Hồ
Quí Ly cướp ngôi nhà Trần và thế lực Ðại
Việt suy yếu, bị Champa xâm lấn hàng năm trước ngày
Chế Bồng Nga bị giết, sử dụng bọn thái giám đã
cống cho Kim Lăng theo đòi hỏi năm 1370 để mở mặt trận tâm
lý chiến chuẩn bị cho một cuộc chinh phạt. Nhân cơ hội,
quan lại Quảng Tây lại đòi trả sáu [6] động
đã mất. Tháng
3/1405
(Tháng
2
Ất
Dậu),
“Cát
địa sứ” Hoàng Hối
Khanh hăng say cắt đất đổi hòa bình đến độ “trả lại” cho
nhà Minh 59 thôn ở Cổ Lâu. Quí Ly phải
bí mật cho lệnh đầu độc các tân thổ quan do
nhà Minh bổ nhiệm. (37)
Sau đó,
năm 1407, Chu Lệ lại sai Trương Phụ và Mộc Thạnh đánh
chiếm cả Ðại Việt dưới danh nghĩa phù Trần diệt Hồ, bắt gia
đình Quí Ly mang về Kim Lăng. Thay vì đưa con
cháu nhà Trần lên ngôi, Trương Phụ và
Hoàng Phúc cho bọn Mạc Thúy (dòng
giõi Mạc Ðĩnh Chi) làm tờ biểu xin vào lại bản
đồ đế quốc Minh. Năm 1416, Kim Lăng còn tập trung gần 10,000
quan lại bản xứ, phân phát bằng sắc do triều đình
Minh bổ nhiệm, với lời khuyên dụ bọn tả Bố chính sứ Nguyễn
Huân, Tham chính Lương Nhữ Hốt, Ðỗ Duy Trung v.. v..
nên cố gắng trung thành, đánh dẹp các
nhóm kháng Minh, để con cháu ngàn đời hưởng
lộc, danh thơm sử xanh muôn đời. Nhưng đại đa số người Việt
khó chấp nhận. Suốt 20 năm Minh xâm chiếm, khoảng 60 cuộc
dấy binh nổi lên khắp nơi. Ðế Ngỗi và Lê Lợi chỉ
là hai nhân vật kiệt hiệt hơn cả. Sau khi Chu Lệ bị
Mông Cổ giết trong mùa Hè 1424 tại sông Du
Mộc, cháu nội là Chiêm Cơ (Tuyên Tông,
1426-1435), đành gác mộng đặt Ðại Việt (tức Giao Chỉ
hay An Nam) vào bản đồ, chấp nhận bãi binh, thu tiền
mãi lộ qua hình thức “cống lễ” tượng người vàng,
tượng người bạc cùng sản vật địa phương để đổi hòa
bình. (38)
Suốt triều Lê Lợi
(1428-1433), Chu Chiêm Cơ–người được Nguyễn Trãi mô
tả như “tên trẻ ranh Tuyên Ðức chưa ráo
máu đầu nhưng ham chơi binh khí”–chủ trương không
thừa nhận, tức chỉ cho Lê Lợi giữ tạm quyền việc nước [An Nam
đô ty [tusi], hay một “cống man,” với lễ vật hàng năm
lên tới 10,000 lạng vàng [khoảng 300 kilograms]. Một trong
những lý do là theo đề nghị của quan tướng Minh, Lê
Lợi lập Trần Cảo làm vua, rồi năm 1427 sai Nguyễn Trãi
viết hai lá thư nhân danh Cảo xin hòa với
nhà Minh. (Thông
sử, 1978:69; LTHCLC, q. 46, 1992, III:192-95 [hai tờ biểu này
được tu chỉnh lại theo Quân Trung Tứ Mệnh Tập, in trong Ức Trai
Di Tập; 192n1; ÐVSK, BKTT, X:44b-45a, Lâu (2009), 2:351;
ÐVSKTB, BK, X: 51a-52a, 1997:563; CMCB, XIV:22-24; 1998, I:823-25) Lại sai Lê Thiếu Dĩnh,
Lê Cảnh Quang, Lê Ðức Huy, Ðặng Hiếu Lộc mang biểu
của Trần Cảo và lễ vật tới Yên Kinh xin cầu phong. Lễ vật
gồm hai [2] tượng người bằng vàng; 1 lư hương bạc; 1 đôi
bình hoa bạc; 300 tấm lụa ta [thổ]; 14 cặp ngà voi; 12
bình hương xông áo; 20,000 hương vòng; 24
cân trầm hương và túc hương. Tại Yên Kinh
lúc ấy vấn đề hòa hay chiến chưa ngã ngũ. Trương
Phụ cùng quan nội các Kiến Nghĩa và Hạ
Nguyên Cát không đồng ý hòa. Dương
Vĩnh Kỳ và Dương Vinh muốn hòa, vì 20 năm chiến
tranh đã quá dài, chiến phí quá cao.
Dù Trần Cảo chỉ mạo danh họ Trần, nhưng đủ để vua Minh gỡ sĩ
diện là vẫn trung thành với nguyên tắc diệt Hồ,
phù Trần. Cuối cùng, Chu Chiêm Cơ đồng ý,
sai bọn Lý Kỳ và Lã Như Kính phong Trần Cảo
[Cao] làm An Nam Quốc Vương. Ngày 23/3/1428 [8/3 Mậu
Thân], bọn Lý Kỳ và Lã Như Kính tới
Ðông Kinh, nhưng hai tháng trước, ngày mồng 10
Tết Mậu Thân [26/1/1428], Trần Cảo [Cao] bỗng trốn khỏi Cổ Lộng,
đến Ngọc Ma. Lê Lợi sai người bắt uống thuốc độc chết.
Ngày 2/4/1428 [18/3 Mậu Thân], Lê Lợi sai
cháu ruột là Lê Quốc Khí cùng Phạm
Thành qua Yên Kinh tạ ơn; Hà Phủ, Hà
Liên báo tang Trần Cảo. Trong hai năm 1428-1429,
Chiêm Cơ cương quyết đòi tìm con cháu
nhà Trần để nhận sắc phong. Ðòi hỏi này
ít nhiều liên hệ đến việc giết chết Khai quốc công
thần Trần Nguyên Hãn vào tháng 5/1429.
Lê Lợi và triều thần dùng vàng bạc
sính cống, đồng thời ràng buộc việc sắc phong với vấn đề
trao trả tù binh chiến tranh. Có lẽ vì khó
thể áp lực Lê Lợi quá đáng, đưa đến những
hậu quả khó lường, sau khi được hoàn trả hơn 86,000
dân quân, mỗi năm thu được khoảng 50,000 lạng
vàng/bạc, cùng những biểu tấu và quà tặng
không những cho Chiêm Cơ mà mẹ, vợ, hay Hoàng
tử của Chiêm Cơ cũng được biếu xén đều đặn, Chiêm Cơ
chấp nhận chuyện đã rồi, đồng ý phong Lê Lợi
làm “Quyền thự An Nam Quốc Sự.” Lễ cử hành diễn ra
ngày 5/12/1431 [1/11 Tân Hợi] tại Hà Nội.
Ngày 19/3/1437 [13/2 Ðinh Tị], Chu Kỳ Trấn (Minh Anh
Tông, 1435-1449, 1457-1463) mới phong “Lê Lân”
[Lê Thái Tông] chức An Nam quốc Vương, bình
thường hóa quan hệ ngoại giao giữa hai
nước, dựa theo điều lệ năm 1370 của Chu Nguyên Chương. (39)
|
|
|
B.
KHÔNG CÒN DẤU TÍCH:
1. Hiện nay,
không còn dấu tích trụ đồng.
Một sự thực
không ai có thể chối cãi là chưa ai thấy hay
tìm được dấu vết trụ đồng. Lối giải thích có vẻ
hợp lý là theo thời gian, trụ đồng đã bị mai một.
Du Ích Kỳ, từng lưu lạc đến Nhật Nam, cho rằng sau khi dựng hai
cột đồng phía bắc Lâm Ấp, Mã Viện lưu lại 10 gia
đình người Hán, gọi là “Mã Lưu” [người họ
Mã bị lưu đầy] ở bờ phía nam Thọ Linh, đối diện trụ đồng,
Tự kết hôn với nhau, sau này sinh sôi tăng lên
đến 200 hộ]. Trụ đồng đã chìm
trong biển, chỉ dựa vào những người này mới biết vị
trí trụ đồng. [TKCS, ch 36,
Uất Thủy, Mão, 2004:394-95].
Lâm Ấp
Ký, không rõ tác giả và đã
tuyệt bản, trích dẫn trong TKC (ch 36, 36a), ghi năm 43
Mã Viện trồng hai trụ đồng ở phía nam huyện Tượng
Lâm, ranh giới của nhà Hán với nước Tây
Ðồ. Người bản địa gọi những người lưu lại là Mã lưu,
đời đời xưng là con cháu nhà Hán. [TKCS, ch 36,
Mão, 2004:395]. Cựu Ðường chí [Cựu
Ðường thư] của Liu Hsu [Lưu Hú] (897-946), và
Tân Ðường thư của Ou Yang Hsiu (Âu Dương Tu, 1007-1072)
và Song Qi (Tống Kỳ, 998-1061) [et al] cũng ghi truyện Mã
Lưu. [TKCS, ch 36,
Mão, 2004:395]. Tân
Ðường thư cho rằng người Mã Lưu và núi Trụ
đồng ở châu Bôn Ðà Lăng, phía nam
Lâm Ấp hai nghìn [2,000] lí. Sơ học
ký, 6, dẫn Ngô Lục của Trương Bột, ghi trụ đồng và
người Mã lưu ở Tây Ðồ tự xưng con cháu
nhà Hán ở trên một bãi nhỏ dài 30
dặm, của một đảo phía nam Tượng Lâm. Ðời Tùy
lên tới 300 hộ Mã lưu. (40) Thoạt nghe có vẻ khả
tín, nhưng xét lại, chẳng ai biết chứng nhân lịch
sử “Mã Lưu” ở đâu, còn hay mất. Trụ đồng
không thấy, nhân chứng cũng không biết ở đâu.
Sự khả tín của thông tin trụ đồng đành phải dựa
trên các thư tịch hoặc truyền thuyết.
C.
KHÔNG
RÕ MỤC ÐÍCH HAY VỊ TRÍ:
Ðại cương,
các truyền thuyết nói Mã Viện muốn định rõ
hay đánh dấu biên giới phía nam đế quốc Hán,
đồng thời biểu dương sức mạnh và chiến công to lớn do đạo
quân thủy bộ của mình tạo ra.
Những người
nghiên cứu về trụ đồng hầu như nhất trí rằng Mã
Viện đã dựng trụ đồng để đánh dấu biên giới
phía nam đế quốc Hán, nhưng chỉ có thế. Ðịnh
nghĩa hay cách diễn giải biên giới phía nam, tức vị
trí của cái gọi là trụ đồng trái ngược,
thay đổi theo thời điểm và hoàn cảnh, hoặc do sở kiến mỗi
cá nhân.
1. Một số người cho rằng Mã Viện
chỉ dựng trụ đồng để
phân định biên giới phía nam của đế quốc Hán
và cổ Việt (Giao Chỉ hay Giao Châu). (Trước
năm
1804,
viên
chức
và
văn gia Hán không chấp
nhận chữ Việt trong tên đất hay quốc hiệu của chư hầu phía
nam).
Những người theo
thuyết này đi tìm trụ đồng ở vùng Lạng Sơn hay
Quảng Yên. Họ trích dẫn việc cỏ tranh tự nhiên mọc
theo hai hướng Bắc Nam
tại Phân Mao Lĩnh, như một dấu hiệu biên giới thiên
nhiên, để suy đoán Mã Viện dựng trụ đồng tại
“Ðèo Phân Mao.”
a. Chu Khứ Phi,
tác giả Lĩnh Ngoại Ðại Ðáp, từng
làm thông phán ở Quế Lâm (Quảng Tây)
đời Tống (960-1279), cho rằng trụ đồng ở khu động Cổ Sâm,
Khâm Châu. (41)
b. Ðại
Minh
Nhất
Thống
Chí, do Lý Hiền soạn, chép
theo Nhất Thống Chí nhà Nguyên, là Mã
Viện dựng trụ đồng ở “Ðèo Phân Mao”, động Cổ
Sâm, châu Khâm (đời Nguyễn là thôn Cổ
Sâm, thuộc Như Tích đô, Quảng Tây vì
ngày 30/11/1540, Mạc Ðăng Dung cắt nạp cho nhà Minh
châu Cổ Sâm cùng bốn châu khác của trấn
Yên Quảng. (42)
c. Nguyễn
Thiên Túng, khi chú thích Dư
Ðịa Chí (còn biết như An Nam Vũ Cống)
của
Nguyễn
Trãi,
nói
Kim
Tiêu
là Trụ
Ðồng, Phân Mao [tại Yên Bang] là “núi
Phân Mao.” (43)
d. Ðại
Thanh
Nhất
Thống
Chí do Từ Càn [Kiền] Học (1631-1694)
et al. biên soạn chép theo Chu Khứ Phi là Mã
Viện dựng trụ đồng ở “Ðèo Phân Mao”, động Cổ
Sâm, phía tây châu Khâm khoảng ba [3]
lí. Giống như Minh Nhất Thống Chí, Thanh
Nhất Thống Chí còn ghi
thêm sau khi dựng trụ đồng, Viện có lời thề: “Ðồng trụ
chiết, Giao Chỉ diệt.” Có lẽ sử quan Thanh cũng chỉ tra cứu
các dã sử được trích dẫn trong Thủy Kinh
Chú. (44)
e. Bảng
Nhãn Lê Quí Ðôn, trong Văn
[Vân] Ðài Luận Ngữ, ghi Mã Viện dựng hai
“kim tiêu” ở biên giới cực Nam của đế quốc Hán.
Trụ đồng này nằm ở Quỉ Môn Quan, dựng lên sau khi
Mã Viện đánh Chiêm Thành trở về. Có
thuyết cho rằng Quỉ Môn Quan ở xã Quang Lang [Chi Lăng
hiện nay], phía nam Châu Ôn, Lạng Sơn. Theo Lê
Quí Ðôn, Quỉ Môn Quan có lẽ là
huyện Bắc Lưu, gần châu Tân An [sau là Tiên
Yên], trấn Quảng Yên. [Khi tiến đánh hai Bà
Trưng, Mã Viện dùng đường biển và đi men theo
biển]. Vẫn theo Lê Quí Ðôn, tại Phân Mao
Lĩnh, cách Khâm Châu 300 lí về phiá
nam, trong núi có một đồng trụ lớn hơn 2 thước. Có
lẽ là Mã Tổng [Ðổng] trong niên hiệu
Nguyên Hòa (806-820). (45)
Như thế,
nhà Thanh, giống như nhà Minh, có vẻ tạm thời chấp
nhận biên giới hiện hữu giữa hai nước.
Mặc dù
sau này, năm 1788, Ải Tân Giác La Hoằng Lịch (Qian
Long = Càn Long) muốn dùng chiêu bài
“phò Lê diệt Ngụy Tây” để thôn tính
thêm ít đất đai, nhưng bị Quang Trung đả bại, nên
ngay năm 1789 đã phong “Nguyễn Quang Bình” làm An
Nam Quốc Vương. Chưa đầy 20 năm sau, ngày 23/2/1804 [13/1
Giáp Tí], Ải Tân Giác La Ngung Diễm
(Nhân Tông, 1796-1820 [Jiaqing = Gia Khánh]) lại
phong Nguyễn Chủng làm Việt Nam Quốc Vương, chỉ đổi quốc hiệu
thành Việt Nam, để Gia Long (1802-1820) chớ lầm lẫn với “Nam Việt” hay “Ðông
Việt” ở Lưỡng Quảng! (46)
Nói theo
Lưu An gần 2000 năm trước, Hoằng Lịch chỉ dùng một quả ấn
và chiếc vòng đeo tay để ràng buộc nhà Tây Sơn–thay vì mang quân
xâm chiếm khiến tài nguyên tiêu hao, dân
chúng cơ khổ.
2.
Một số người
khác cho rằng trụ
đồng là
biên giới Giao Chỉ bộ và Lâm Ấp.
a. Du
Ích Kỳ, người từng du lịch đến Nhật Nam cả quyết rằng Mã
Viện dựng hai cột đồng phía bắc Lâm Ấp. (47)
b. Tùy
Thư
[Sui
shu], như đã nhắc ở phần trên, ghi
tháng 1-2/605 [tháng Giêng Ất Sửu], trụ đồng của
Mã Viện cách phía bắc kinh đô Lâm Ấp
tám [8] ngày đường. Tư
Mã Quang, trong Tư trị Thông giám
[đời Tống, 294 quyển], dẫn lại chi tiết trên. (48)
Vị trí trụ
đồng, như thế, nằm vào khoảng ranh giới Nghệ An và Quảng
Bình, tức đèo Ngang trên Hoành Sơn. (đạo
Hà Tĩnh thời Tự Ðức)
c.
Các
tác
giả
Ðại Nam Nhất Thống Chí
và Ðào Duy Anh ghi ở núi Hùng Sơn, Nghệ
An. (49)
d. [Thái
Bình] Ngự Lãm 74 dẫn Giao Châu Ký của Lưu
Hân Kỳ: Mã Viện chất đá làm bờ tới
ngách sông Tượng Phố, dựng cột kim tiêu làm
biên giới. (50)
Những người diễn
giải trụ đồng dựng lên ở xứ cực nam của Giao Chỉ bộ thời
Mã Viện–tức quận Nhật Nam, từ Cửu Chân tách ra
khoảng năm 111-106 TTL–khó thể xác định lãnh thổ
Nhật Nam, hay nước Lâm Ấp.
Nhật Nam:
Vì Hậu
Hán Thư ghi về cuộc tái xâm lăng của Mã Viện
năm 42-44, có thể tin được rằng Viện đã tiến tới ranh
giới phía nam Cửu Chân, và có thể tạm ghi
nhớ rằng Viện tiến tới thủ đô cổ Chàm (Lâm Ấp).
Nhưng xét kỹ thư khố Trung Hoa, thật khó tin trước thời
Mã Viện quân Hán đã tiến tới Nhật Nam,
tức
sau
này
trở
thành
quận
thứ ba của Giao Chỉ bộ, tiếp
giáp với Lâm Ấp.
Mặc dù
Ðông Hán Chí (Hậu Hán Thư) ghi tại Nhật
Nam có năm [5] thành nhưng tới thế kỷ thứ I, hoặc thứ IV,
vua quan Hán chẳng biết gì nhiều về quận cực nam của Giao
Chỉ này. Nguồn
thông
tin
được
biết
nhiều
nhất
về Nhật Nam
là cuốn Giao
Châu Ký, đã tuyệt bản, được nhiều tác giả
trích dẫn. Sách này ghi năm 110 TTL, Lưu Triệt
[Hán Vũ Ðế] đã lập ba [3] quận Giao Chỉ, Cửu
Chân và Nhật Nam. (51) Ðịa lý chí
của [Tiền] Hán thư và Hậu Hán Thư trích dẫn
sách trên. [CM, TB 5a]. Sau đó đến Thủy Kinh
Chú, Lĩnh ngoại đại đáp của Chu Khứ Phi đời Tống (từng
làm quan ở Quảng Tây), và rồi sử Việt của Lê
Tắc cùng các sử quan Hậu Lê và Nguyễn.
Nhưng đến thế
kỷ I Tây lịch, hơn một thế kỷ sau khi sử sách TH ghi
chép đã đặt “quận Nhật Nam” [hay Tượng Lâm],
“vào bản đồ đế quốc Hán”, chi tiết về “quận Nhật Nam”–tức
lãnh thổ giáp ranh cổ Chiêm Thành [Lâm
Ấp]–không rõ ràng. Ðến đời Ðông
Hán, Lưu Trang (Hán Minh đế, 58-75) nhân
ngày Tết hỏi Trương Trọng, một tiểu quan gốc Hợp Phố từng
làm việc ở Nhật Nam, là phải chăng nhà ở Nhật Nam
đều mở cửa về phía Bắc để ngóng ánh mặt trời [Nhật
Nam
quận
bắc
hướng
thị
nhật
da?] (52)
Khó
xác định Lưu Trang có hàm ý gì trong
câu hỏi trên. Nhưng đọc kỹ chú giải của văn gia
Trung Hoa đời sau, rõ ràng Lưu Trang hay trí thức
Hán tin mặt trời mọc ở phương Bắc của
xứ “hoang phục.”
Nhan Sư Cổ
(581-645), làm việc dưới triều Lý Uyên (Ðường
Cao Tổ, 618-626) và Lý Thế Dân (Thái
Tông, 627-647) thường chú giải ngũ kinh và
Hán Thư của Ban Cố, nói “Nhật Nam là nói về
phía nam mặt trời; là bảo mở cửa phía bắc để hướng
về [đón ánh] mặt trời.” (53)
Sử sách
TH ghi lại khá tỉ mỉ những “công trình khoa học” đo
bóng mặt trời để chứng thực khám phá trên.
Khi nói về việc Ðàn Hòa Chi và
Tông Xác đánh cướp Lâm Ấp, năm 436 hoặc 447,
Vương Sung chép trong Luận Hành: “Quận Nhật Nam
cách Lạc Dương ngót muôn dặm, vậy ở phía nam
mặt trời.” Như dựng cây nêu tại thành Khu
Túc, lị sở huyện Tượng Lâm (Nhật Nam), cây nêu
8 thước bóng của nó ở phía Nam là 8 tấc;
dựng nêu ngày 5/5 âm lịch [mùa Hè]
cũng thấy bóng ở phía nam cây nêu! (54)
Khoảng ba thế
kỷ sau, đời Lý Long Cơ [Ðường Huyền Tông, 713-755],
khi Dương Tư Húc và Nguyên Sở Khách đi
đánh Mai Thúc Loan, quan tướng Ðường cũng đo
bóng mặt trời ngày Hạ Chí ở Giao Châu,
thì khám phá ra bóng của cây
nêu ở phía nam cây nêu ba tấc, ba
phân–chẳng khác biệt gì với như cuộc đo đời Lưu Nghĩa Long.(55)
Ðến đời
nhà Minh (1368-1644), Ngũ Sùng Diệu [Âu Ðại
Nhâm?] tác
giả
Lĩnh
Nam di
thư, còn nhắc lại sự cố “Nhật Nam nằm về phía nam
mặt trời”. (56)
3. Trụ
đồng được dựng lên ở phía nam Lâm Ấp,
giáp ranh với nước Tây Ðồ.
Vài
tác giả dời trụ đồng xa hơn nữa về phía nam.
a. Lưu
Hân Kỳ, tác giả Giao Châu Ký, đã tuyệt
bản, là một trong các tác giả được trích
dẫn nhiều nhất. Lịch Ðạo Nguyên có vẻ đồng ý
khi dẫn Lưu Hân Kỳ: Mã Văn Uyên [Mã Viện] lập
dấu mốc phía nam đất Hán. (57)
b. Lâm Ấp
Ký, một tựa sách không rõ tác giả
và cũng đã tuyệt bản, chép năm 43, Mã Viện
trồng hai trụ đồng ở phía nam quận Tượng Lâm, làm
ranh giới nhà Hán với nước Tây Ðồ. Lịch Ðạo
Nguyên cũng dẫn sách này. (58)
c. Trương Bột,
tác giả Ngô Lục, cũng được trích dẫn là từng
nói nói trụ đồng ở Tượng Lâm, đánh dấu
biên giới cực nam của nhà Hán. (59)
d. Trong mục Nam Hải
(ch 54) của Liang shu [Lương Thư], Yao Ssu lien (d. 637) cho rằng
Mã Viện từ Nhật Nam đi về hướng nam bốn trăm [400] lí mới
đến Lâm Ấp; đi thêm về hướng nam hai trăm [200] lí
nữa rồi dựng trụ đồng ở biên giới Tượng Lâm và
Tây Ðồ. (60)
e. Văn gia
nhà Ðường và Tống có vẻ tán thưởng sự
khai sinh thực thể chính trị “Tây Ðồ” ở phía
nam Lâm Ấp này. Ðỗ Hữu,
tác giả Thông Ðiển ghi trụ đồng nằm 2000 lí
phía nam Lâm Ấp. Yo Shi (Nhạc Sử, 990-1007) đời
Tống, trong [Thái Bình] Hoàn Vũ Ký,
nói đi từ Nhật Nam bốn trăm [400] lí tới Lâm Ấp, đi
hơn hai mươi [20] lí nữa tới nước Tây Ðồ Di. (61)
f. Tân Ðường thư của Ou
Yang Hsiu (Âu Dương Tu, 1007-1072) và Song Qi (Tống Kỳ,
998-1061) [et al] [TKCS 2004:395] cho rằng tác giả Lương Thư
viết sai, nên tự động đưa trụ đồng xa hơn về phía Nam
hàng ngàn cây số nữa: núi Trụ đồng nằm ở
châu Bôn Ðà Lăng, phía nam Lâm Ấp:
từ Nhật Nam đi về hướng Nam bốn trăm [400] lí mới đến Lâm
Ấp; từ Lâm Ấp Mã Viện phải đi thêm về hướng Nam hai
nghìn [2,000] lí nữa mới dựng trụ đồng ở biên giới
Tượng Lâm và Tây Ðồ. Cựu Ðường Chí
ghi thêm Ðường thủy thì đi 3000 dặm từ phủ An Nam tới
Lâm Ấp. Từ quận Giao Chỉ tới trụ đồng là 5000 lí. (62)
Như
thế
trụ
đồng
nằm
ở
khoảng
núi Ðá Bia, phía Bắc
Ðèo Cả (Phú Yên).
g. Từ
phía nam Giao Chỉ theo đường thủy 3,000 lí tới Lâm
Ấp. Từ quận Giao Chỉ tới cột đồng 5,000 lí. (63)
4. Lại có
tác giả nói Nhật Nam
bao gồm Phù Nam.
Vậy trụ đồng
Mã Viện có thể ở gần Cà Mau hiện nay.
Cố Tổ Vũ,
tác giả Ðộc sử phương dư kỷ yếu (đời
Thanh), ghi: Phù Nam là một hòn đảo lớn nằm về
phía tây Nam Hải, thuộc quận Nhật Nam, bắc cách
Nhật Nam 7,000 lí, nằm về hướng tây nam của Lâm Ấp
khoảng 3,000 lí; rộng 3,000 lí. (64)
Theo
Việt
Nam
Tạp Yếu: Trụ
đồng của Mã Viện ở phía nam Quảng Hòa. Nước
Tây Ðồ Di là nước Mãn Thích Gia, sau đổi
là Ca la phú sa; rồi bị Chiêm Thành diệt.
Trải dài tới Vĩnh Long. (65)
Ðiều
đáng ghi nhận là trong nỗ lực xác định vị
trí của trụ đồng, văn gia TH không ngớt mở rộng biên
giới Hoa Hạ khiến vị trí trụ đồng Mã Viện ngày một
Nam
tiến.
D. SỐ TRỤ ÐỒNG
THAY ÐỔI:
Số trụ đồng do
Mã Viện dựng lên trong các truyền thuyết cũng thay
đổi, từ một tới năm “kim tiêu.”
1. Văn gia đời
Tùy nói có một hay hai
trụ đồng [Tùy thư chép Lâm Ấp ở
phía nam trụ đồng].
Ðỗ Hữu ghi
trong Thông Ðiển có hai trụ đồng của Mã Viện ở phía nam
Lâm Ấp 2,000 lí, sát biên giới Tây
Ðồ Di (núi Ðồng Trụ chu vi 10 lí).
2. Tống Bạch
suy đoán phải có ba [3]
cột đồng ở biên giới Tây Ðồ Di và Tượng
Lâm, 200 lí phía nam Lâm Ấp. Từ Giao
Châu tới trụ đồng là 5,000 lí. (66)
3. Hồ Tam Tỉnh
đời Tống đưa lên năm (5) trụ
đồng hình như cái lọng ở Ðại Phố, phía nam
châu Lãng Ðà (Lâm Ấp). (67)
Việc tự do hiệu
đính hay sửa chữa trên có thể do nỗ lực tìm
hiểu, nhằm cải thiện việc thông tin, vì từ đời Tống,
Nguyên, Minh, hay Thanh kiến thức địa lý về phương nam
đã khá hơn. Nhưng cũng không thể không nghĩ
đến thói quen ghi vào sử sách những biên
giới phóng đại, hoang tưởng, chờ ngày “thôn
tính” [cướp đoạt]–hay “khôi phục,” nếu muốn.
Khi sử dụng
các sử liệu TH, nếu không cân nhắc kỹ lưỡng yếu tố
này, rất dễ bị lạc đường. Và, khó thể tách
rời “trụ đồng Mã Viện” khỏi những tham vọng bành trướng
đất đai–như một cái cớ để đòi trả lại những đất đai hoang
tưởng đã mất. Miệng kẻ “sang” [mạnh] có gang có
thép, dù cái lưỡi uốn lượn trăm chiều. Năm 1407,
như đã lược nhắc, Chu Lệ nhà Minh–kẻ giết cháu
đoạt ngôi, không ngừng xâm chiếm lân bang rồi
cuối cùng bị “Hung Nô” tru diệt năm 1424–đã sử dụng
chiêu bài phù Trần, diệt Hồ và nhóm
trung gian bản xứ như Lý Bá Kỳ, Mạc Thúy, Lương
Nhữ Hốt để lập ra “Giao Chỉ,” rồi “An Nam Ðô thống sứ ti”suốt
hai thập niên. Cuộc kháng chiến gai góc này
khiến Ðại Việt tạm thời được hòa bình khoảng một thế
kỷ, nhưng rồi những tham vọng quyền lực nội địa của những Mạc Ðăng
Dung, Nguyễn Cam (Kim), Trịnh Kiểm đưa tới một giai đoạn nội chiến,
phân chia lãnh thổ kéo dài từ 1543 tới
1802–khiến vương quốc suy yếu, biến thành một thuộc địa kinh tế
và di dân của Yên Kinh, trước khi lọt vào tay
thực dân Pháp, sau một thời gian thống nhất vỏn vẹn khoảng
nửa thế kỷ.
Nhưng “Quốc sử”
đời Hậu Lê và nhà Nguyễn vẫn sao chép huyền
thoại trụ đồng, theo kiểu “dĩ nghi, truyền nghi,” sa
vào lưới nhện tham vọng bành trướng của Hán tộc.(
68)
Từ đầu thế kỷ
XX, những nghiên cứu của Tây phương, đặc biệt là học
giả Pháp–áp dụng những phương pháp làm việc
khoa học hơn, khảo sát khá kỹ các di vật
còn sót trên mặt đất –để tái dựng lại lịch
sử nghệ thuật [arts history] của Champa và Kambojas. Ðược
chính phủ Bảo hộ Pháp trợ cấp, những người như Louis
Finot, Georges Coedès, Partmentier, v.. và. .. đã làm việc
trên 250 di chỉ khảo cổ–đặc biệt là các tháp
chứa linh vật như Linga, tượng Phật, những tấm bia có khắc chữ
Sanskrit hay một loại chữ Chàm biến thái từ Sanskrit,
cùng những “hoa văn” điêu khắc (như voi, sư tử đều nhảy
múa). Nhiều cổ vật đã bị thời gian, thiên tai,
chiến tranh, và những hành vi mọi rợ văn hóa–như
tàn phá dấu tích nước bại trận hay trộm cắp
(Hán, Việt cũng như Tây phương)–khiến chứng tích sự
hiện hữu của một quốc gia hưng vượng trong nhiều thế kỷ ngày một
hiếm hoi. (Claeys, 1934:37) Dù còn thiếu sót,
những công trình trên giúp đặt xuống những
viên đá lót đường đầu tiên cho việc
tìm hiểu về dân Chàm nói riêng,
và lịch sử Việt Nam nói chung.
Các nhà khảo cổ học và sử quan Việt đang tiếp tục
nghiên cứu, nhưng sự thành tựu còn giới hạn.
Dựa trên
những mẩu thông tin trái ngược nhau và mức khả
tín vô cùng giới hạn trên, người phỏng
đoán trụ đồng nằm ở “Phân Mao Lĩnh,” Cổ Sâm,
Khâm Châu (theo Lĩnh Ngoại Ðại Ðáp [của Chu
Khứ Phi] đời Tống, dẫn trong ANCL, và Nhất Thống Chí
nhà Minh, nhà Thanh). Người suy đoán ở đèo
Ngang, tức Hoành Sơn, ranh giới tự nhiên của hai tỉnh
Hà Tĩnh và Quảng Bình ngày nay (theo Lịch
Ðạo Nguyên, trong Thủy Kinh Chú; Lưu Hân Kỳ,
trong Giao Châu Ký). Có tác giả nghĩ
nó ở vùng Huế. (Aurousseau, Claeys) Lại có người
cho Mã Viện xuống tới tận núi Ðá Bia
(Ðèo Cả), Phú Yên (theo Tân Ðường
Thư). Tự điển Từ Hải cũng theo thuyết này, có lẽ do mục
tiêu chính trị hơn sự thực sử học. (69)
Thực tế, cho
tới đầu thế kỷ XXI vẫn chưa thể hình dung ra hình
dáng, kích thước, vị trí hay số lượng trụ đồng
Mã Viện. Và khó thể không đồng ý với
Henri Maspéro rằng đây chỉ là một huyền thoại. (70)
Kết Từ:
Lược duyệt qua
những sử liệu liên hệ đến huyền thoại trụ đồng, khó thể
tin rằng “kim tiêu” của Mã Viện từng hiện hữu. Trước hết,
như đã lược nhắc, không hề có vết tích
nào của trụ đồng trên thực địa. Trong khi đó
sách sử đương thời hoàn toàn im lặng. Những nỗ lực
truy tìm trụ đồng cho thấy tính chất đàn hồi của
biên giới Hoa Hạ và cuộc Nam tiến không ngừng của
trụ đồng Mã Viện–từ Cổ Sâm (Quảng Yên cũ, sau
là Khâm Châu) xuống tận Núi Ðá Bia
(Phú Yên), dù mãi tới khoảng năm 1,000 vua
Champa mới dời đô vào Vijaya (Chà Bàn,
Bình Ðịnh). Cũng không ai có thể khẳng định trụ
đồng là biên giới Hán-Cổ Việt, biên giới Cổ
Việt-Cổ Chàm (Lâm Ấp)–hay phía Nam của cổ Chàm.
Tính cách thần thoại của những công trình
Mã Viện đã thực hiện cũng khiến không thể
không liên tưởng tới cuộc tái xâm lăng An Nam
Ðô Hộ Phủ của Cao Biền đời Ðường sau khi bị Nam Chiếu
xâm chiếm.
Huyền thoại
Mã Viện mà văn gia Hán hoang tưởng và
không ngừng hiệu đính gần hai nghìn năm
qua–có khả năng thuyết phục mạnh những người chỉ có vốn
liếng kiến thức sơ đẳng hay lịch sử nhân dân, lịch sử nhiều
người viết như Mao Nhuận Chi–là một trong những bằng chứng về
thủ thuật sử dụng sách, sử làm vũ khí tuyên
truyền, huyền thoại hóa sự thống trị cùng tham vọng
thôn tính lân bang của giới cầm quyền Trung Nam Hải.
Văn gia Hán tộc hào hứng diễn dịch huyền thoại trụ đồng
như một bằng chứng lịch sử về lãnh thổ và chủ quyền tối
thượng hay bá quyền tại các xứ lân bang,
ngoài cõi hoang phục.
Lưu động
tính của các vị trí dựng trụ đồng–từ Cổ Sâm
[Khâm Châu hiện nay] tới Ðèo Cả, rồi Hà
Tiên, An Giang–không chỉ giúp bài bác
huyền thoại trụ đồng, nhưng cũng cho thấy lô-gích của
nó không vô lý một cách ngây
thơ, mà nằm trong một âm mưu truyền kiếp “quay mặt về
hướng nam” của Hán tộc. Việc Hà Lý Quang (năm
751), Trương Chu (809), hay Mã Tổng bắt chước “Mã Viện”
dựng cột đồng “ở chỗ cũ” không chỉ để lưu danh. Chúng ta
cũng từng ôn lại những sứ đoàn Trung Hoa được gửi sang
Ðại Việt hay “An Nam di,” nếu muốn, để đi tìm dấu
tích trụ đồng. Mỗi lần vấn đề trụ đồng được nêu lên
là có hiểm họa binh đao–từ Hốt Tất Liệt tới Chu Lệ.
Nhưng không
thể không tự hỏi tại sao văn gia Hán đã hăng say
tham dự vào cuộc ngụy tạo lịch sử này? Từ nhiều thế kỷ,
văn gia TH thường rất tự hào về tính chất trung thực của
thư tịch cổ thời TH. Một số học giả Tây Phương cũng đánh
giá cao các sử liệu trên. Tuy nhiên, sự khả
tín của thư tịch TH–ít nhất về cổ Việt và
Champa–có nhiều dấu hỏi lớn.
Thứ nhất,
là sử quan, những người chép sử không dám
phạm thượng. Ða số đều muốn dùng văn tài mình
để tô hồng hay cung văn chế độ cho một mục đích nào
đó. Thứ hai, sử quan và Nho gia định hướng Khổng
Giáo không dám vượt qua những khuôn khổ
“thánh giáo” như Thiên mệnh, lễ giáo do
Khổng Khâu và các đệ tử nêu ra. Thứ ba
là hiện tượng mọi rợ văn hóa: Ðược làm vua,
thua làm giặc. Tiêu hủy di sản văn hóa các
nước nhỏ hay các tộc dân bị cướp nước, ngụy tạo sử kiện,
địa danh, nhân danh để biện minh cho tham vọng “thôn
tính thiên hạ,” “đặt vào vòng lễ
giáo,” v.. v ...
Luật kẻ mạnh, hay
Nước nhỏ thờ nước lớn, là khuôn vàng thước ngọc.
Trong khi chờ đợi bị nước lớn thôn tính, ân đức vua
quan Hán chiếu rọi tứ phương qua hệ thống “thông hiếu” hay
“cống lễ” [tributory networks] định kỳ. Ban mũ
áo, đặt tên, dạy học chữ để đồng hóa. Hiện nay
có phim ảnh võ hiệp kỳ tình [kungfu], hay đấu
tranh giai cấp, v.. v..
Việt Nam là
bằng chứng hùng hồn nhất về hành động mọi rợ văn
hóa Hán tộc–bên cạnh chủ trương “tằm ăn dâu”
hay “vết dầu loang”: Lấn đất, di dân, rồi công khai
xâm lăng, giết lãnh đạo, đồng hóa một thiểu số thổ
dân làm giai tầng trung gian. Nếu chưa thành
công, lại khởi đầu trở lại chu trình “thông hiếu.”
Chờ một cơ hội khác. Thời gian thường nằm về phía kẻ mạnh.
Ðối diện Trấn
Nam Quan của nhà Thanh, thuộc Bằng Tường (Quảng Tây),
chẳng hạn, vua Nguyễn dựng tại Ðồng Ðăng một “Ngưỡng Ðức
Ðài” [Mừng đón ân đức hay hồng ân] sau
này dưới thời Pháp thuộc thường được gọi là “ải
Nam Quan.”
Dư luận dân
chúng Trung Hoa thì được hâm nóng bằng hệ
thống tuyên truyền nung nấu tham vọng thực dân, và
sự ưu việt Hán tộc [Han supremacy]. Dân
tộc Việt thường trực bị đe dọa bởi hiểm họa xâm lăng, đồng
hóa của những người cầm quyền Bắc Kinh, bất kể màu sắc
ý thức hệ, từ chuyên chính quân chủ, phong
kiến tới quân phiệt “Tam Dân,” rồi dân chủ tập trung
“định hướng xã hội chủ nghĩa.”
Lễ Nghĩa hay những
nguyên tắc cao thượng, lý tưởng được nêu ra trong tứ
thư, ngũ kinh hay sách vở của bách gia và tư tưởng
Mao hay lý luận Ðặng Tiểu Bình chỉ là những
trò chơi của trí tuệ–được trưng dẫn khi cần thiết. Doanh
[Lã] Chính chôn nho sinh. Hạng Vũ hỏa thiêu
Hàm Dương. Chu Lệ tịch thu hết sách vở Ðại Việt mang
về Kim Lăng, thay thế bằng sách sử nhà Tống. Mao Nhuận
Chi tiêu diệt hàng chục triệu “địa chủ” và “phản
động” người Hoa, hay xâm lăng các nước láng giềng.
320,000 Hồng quân đột ngột tràn qua biên giới
Hoa-Việt mờ sáng ngày 17/2/1979, san thành
bình địa hàng chục thị xã và thị trấn, hung
hãn mở cuộc tàn sát thường dân để dạy cho
tập đoàn Lê Duẩn một bài học. Chủ yếu luôn
là thứ luật kẻ mạnh kiểu trung cổ và “nguyên thủy”:
luật pháp và
chính nghĩa nằm trong tay những kẻ mạnh nhất, và đủ nhẫn
tâm giết người, cướp đoạt đất đai, tài sản người
khác. Từ hạ bán thế kỷ XX–tạm thời nghỉ ngơi để
tiêu hóa cho xong những vùng lãnh thổ khổng
lồ của Manchuria, Tibet, Mongol–cơ quan tuyên truyền Bắc Kinh đưa
ra thuyết “tổ hợp” [to incorporate] những đất đai và dân
chúng mới chiếm đoạt để đồng hóa các nạn
nhân, khai thác tài nguyên thô
và di dân. Những việc làm biểu kiến như xóa
tên Yue Fei (Nhạc Phi, 1103-42) khỏi danh sách những anh
hùng dân tộc [minzu yingxiong] trong sách
giáo khoa lịch sử bậc tiểu và trung học (Beijing
Youth
Daily, Dec 2002)–cùng những khẩu hiệu như đoàn
kết dân tộc [minzu tuanjie], hay đa dân tộc
quốc gia [duominzu guojia], ngũ tộc cộng hòa [wuzu gonghe], đại Trung Hoa dân tộc [Da
Zhonghua minzu]–chỉ là những lớp bọc đường cho liều thuốc
độc tiêu diệt bản sắc những sắc dân đã và
đang bị thôn tính, đồng hóa. (71)
Song song với
chiêu bài đạo đức giả trên–sẽ bị vứt bỏ khi cần
thiết–là những chiêu bài quen thuộc khác khi
muốn cướp bóc hay thôn tính lân bang, thứ
chính nghĩa tự nhận “chinh thảo” [trừng phạt hay “dạy cho một
bài học”]. Với vua quan Hán, như Lưu An đã nhắc
nhở Lưu Triệt: không hề có chiến tranh, mà chỉ
có trừng phạt những dân tộc không thờ kính
thiên tử như con với cha theo lẽ trời [thiên mệnh] “sự đại”
[thờ nước lớn]. Bài Chiếu đánh Ðại Việt của Triệu
Quang Nghĩa (976-997) vào tháng 9-10/980 [tháng 8
Canh Thìn] là một trong những văn kiện tiêu biểu:
Thanh giáo
và oai linh của nước nhà vang dội khắp nơi [Quốc gia
thanh giáo sở đàm, oai linh hàm kị.]
Gần đây, đất
Diên Chỉ chưa [chịu] nhập vào bản đồ, tự đứng một phương,
gần Ngũ Lĩnh. [Cố nãi Diên Chỉ chi cảnh, vị qui dư địa
chi đồ, thẩn tư nhất phương, cận tiếp Ngũ Lĩnh]
Cuối đời Ðường
loạn lạc, đất đai bị chia xẻ, chúng tiếm xưng làm một
nước [bang], tách xa phong giáo, khiến phong hóa
như của kẻ mù, đứa điếc [Ðường mạt li loạn, khu nội phẫu
phân, toại vi tiếm ngụy chi bang, tư thành lung cổ chi
tục.]
Từ khi bình
định Phiên Ngung, ban cho lịch sách mà tuân
hành, tuy nhận làm phiên thuộc, mà vẫn lo
việc binh bị, có ý tự cường [Cập Phiên Ngung đề
định, chính sóc thủy ban, tuy khế thủ dĩ xưng
phiên, phả thiện binh nhi tự cố.]
Phép thờ
nước lớn, lẽ nào như thế? [Sự đại chi lễ, đương như thị hồ?]
Ðể cứu
dân, chẳng đặng đừng ta phải đưa quân chinh phạt để thay
đổi xứ mọi rợ; nay sai bọn Tôn Toàn Hưng qua đánh [Ðiếu
dân
chi
hành,
cái
bất
đắc
dĩ, nghi cung hành
ư thiên thảo, dụng phi biến ư man trâu, nghị dĩ Tôn
Toàn Hưng đẳng xuất như tấn thảo.”]. (71bis)
Hạ bán thế
kỷ XVIII, năm 1788-1789, Hoằng Lịch [Qian Long] định phò
Lê đánh Tây Sơn để khôi phục một số quận
huyện. Qua thế kỷ XIX, năm 1882-1885, Từ Hi Thái hậu cũng muốn
“phò Nguyễn” chống di địch Pháp, để chiếm đoạt
vùng phía bắc sông Hồng; nhưng cuối cùng bị
thảm bại, phải ký thêm hiệp ước cắt đất và bồi
thường chiến phí cho Pháp, khiến Ðường
Ðình Canh chịu chết trong ngục.
Hiện tình
thế giới–sau bao thập niên bị cường quốc Tây phương
và Nhật lăng nhục–khiến Bắc Kinh bớt kiêu ngạo, chấp nhận
một thứ quan hệ “vừa là đồng chí vừa là anh em”
trong “thế giới thứ ba.” Nhưng tham vọng cầm đầu khối những nước
nghèo, bành trướng đất đai hầu chiếm đoạt tài
nguyên thô, mở rộng thị trường tiêu thụ hàng
hóa nhái và rẻ tiền, nhiễm độc, đồng thời chiếm
đất di dân–thành lập những đạo quân thứ năm khắp thế
giới–hầu tránh nạn nhân mãn, và “thôn
tính thiên hạ” vẫn nguyên vẹn nếu không phải
ngày thêm thôi thúc.
Hạ bán
thế kỷ XX, nước Trung Hoa Nhân Dân Cộng Hòa
[THNDCHQ] đòi Liên Sô Nga phải trả lại hơn 1.5 triệu
cây số vuông lãnh thổ mà Nga Hoàng
chiếm đoạt qua các hòa ước bất bình đẳng trong thế
kỷ XIX. Mao Nhuận Chi còn cho lệnh Vệ Binh Ðỏ trình
diễn một màn lễ giáo bằng cách xếp hàng
dài theo biên giới, rồi tụt quần chổng mông về
phía Nga. Cơ quan tuyên truyền Liên Sô đối
phó bằng cách trương hình Mao chủ tịch vĩ đại mỗi
khi có màn trình diễn “lễ giáo chổng
mông” trong kinh điển tư tưởng Mao. Quân biên
phòng Trung Cộng còn gây chiến với Burma [Myanmar],
Mongolia
và India
về biên giới. (72)
Mao Nhuận Chi,
người tự xưng là lãnh tụ CS vĩ đại của “Thế Giới thứ ba,”
năm 1936 từng than thở với Edgar Snow về việc bị thực dân
Tây phương chiếm đoạt chư hầu, trong đó có
Ðông Dương; và từ năm 1949, “cống hiến vô tư” cho Hồ Chí Minh
cùng Ðảng CSVN. Nếu tin được Luo Guibo [La Quí Ba],
mùa Hè năm 1950, khi tiếp đại diện phái
đoàn cố vấn quân sự Trung Cộng trên đường qua Cao
Bằng, Mao Nhuận Chi căn dặn thuộc hạ đừng nên có tinh thần
tự tôn nước lớn [big-state chauvinism]. Rồi, nhấn mạnh Hồ
và Ðảng CSVN đã mời họ qua giúp, không
giống như Ma Yuan [Mã Viện] ngày nào.
Mao chỉ
không tiết lộ rõ âm mưu của mình: dùng
xương máu người Việt để bảo vệ cửa ngõ chiến lược
Ðông Nam,
trước
sự
vây
hãm
của
Liên
bang Mỹ và Ðồng
Minh. Năm 1979, những tác giả lừng danh Việt Nam
như Trường Chinh, Nguyễn Ngọc Minh, v.. v .. sau nhiều năm nung nấu,
đã một lần được tự do thoá mạ tư tưởng Mao Trạch
Ðông phản động, thâm độc cùng cách sử
dụng viện trợ theo kiểu “cà rốt và cây gậy,” trong
chủ trương bành trướng, bá quyền nước lớn, “tọa sơn quan
hổ đấu,” chống Mỹ đến “người Việt Nam cuối cùng.” (73)
Từ năm 1947,
chính phủ Tưởng Giới Thạch rồi chế độ Mao Nhuận Chi đòi
sửa lại các hoà ước bất bình đẳng ký với
Pháp năm 1885 và 1887 bằng những hòa ước bất
bình đẳng Hoa-Việt khác. Năm 1953, sách
giáo khoa sử địa THNDCHQ vẽ bản đồ lãnh hải TH chạy xa về
phía biển Nam.
Ngày
4/9/1958,
Bắc
Kinh
công
bố
một bản đồ có
lãnh hải phía Nam gồm những gạch đứt
đoạn. Ngày 19-20/1/1974, để trở lại với thế giới văn minh, Mao
Trạch Ðông và Chu Ân Lai cho lệnh xâm
chiếm Hoàng Sa bằng võ lực, trước sự quay mặt làm
ngơ của Cố vấn ANQG Henry A. Kissinger. (74)
Ngày
17/2/1979, Deng Xiao-ping [Ðặng Tiểu Bình] còn mượn
chiêu bài xâm nhập biên giới này để dạy
Lê Duẩn và Ðảng CSVN “một bài học” luật kẻ
mạnh, sử dụng hơn 320,000 Quân Giải Phóng [QGP]
cùng tăng pháo tàn phá sáu [6] tỉnh
biên giới Hoa-Việt suốt 30 ngày Xuân Kỷ Mùi
[1979]. Rồi chiếm cứ một số cao điểm chiến lược ở biên giới. (75) Sau đó, bắt Hà
Nôi cắt đất, cắt biển năm 1999 và 2000, hiêu lực từ
năm 2004. Qua năm 2009, lại bắt đầu áp lực ký hiệp ước
“tay đôi” về Hoàng Sa và Trường Sa. Ngày
7/5/2009, Bắc Kinh chính thức nộp cho LHQ một bản đồ lãnh
hải, tự nhận chủ quyền 80% biển Ðông, bao gồm cả Hoàng
Sa và Trường Sa của Việt Nam, và lãnh hải chia
làm 9 điểm đứt quãng, sát với VN, Malaysia,
Brunei, và Philippines. Ngày 8/5/2009, Việt Nam
gửi công hàm số 86/HC-2009 lên Tổng thư ký
LHQ bác bỏ nó “không có giá trị
vì không có cơ sở pháp lý, lịch sử
và thực tiễn.” (76)
Sự hiện đại
hóa công nghệ và binh lực hiện nay, càng
khiến sự tự tôn chủng tộc đưa đến bệnh tưởng về vai trò
chiếc nôi của lễ nghĩa, văn minh nhân loại thêm man
rợ–được bồi dưỡng bằng áp lực nhân mãn–đang
và sẽ đe dọa nền hòa bình khu vực và thế
giới, nếu nhân dân Trung Hoa không sớm chấm dứt tập
đoàn tội phạm chiến tranh hiện nay ở Trung Nam Hải.
Mới đây, tờ Tuổi Trẻ ở Sài Gòn đi tin Ðại sứ Nguyễn
Văn Thơ họp báo ở Bắc Kinh ngày 8/1/2010, tuyên bố
quan hệ 16 chữ vàng–láng giềng hữu nghị, hợp
tác toàn diện, ổn định lâu dài, tiến tới
tương lai–nhưng cũng xác nhận chủ quyền của Việt Nam
trên các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.
Thông tấn xã và báo chí Trung Cộng
chỉ nói đến phần hữu nghị, hoàn toàn im lặng về
lãnh hải. Báo Tuổi Trẻ in thêm vào, hay
báo chí Trung Cộng được lệnh cắt bỏ?
Một trong những
nguyên nhân của chính sách bành
trướng-xâm lược của Trung Nam Hải là sự tăng trưởng
dân số. Ðảng CSTH hay bất cứ giới cầm quyền nào cũng
phải lo tìm chỗ cư trú và sản xuất lương thực cho
khối lượng 1.3 tỉ đầu người có sổ hộ khẩu này. Bởi thế,
Bộ Chính Trị Ðảng CSTH từng ra nghị quyết coi Ðông
Nam Á là “vùng trời chiến lược sinh tồn” của
Hán tộc. Di dân, cướp đoạt đất đai, trộm cướp tài
nguyên thiên nhiên ở rừng núi và thềm
lục địa, là điều đã, đang và sẽ xảy ra.
Lãnh đạo Trung Hoa thường tuyên bố chiến tranh là
điều khó tránh, dù có thể trì
hoãn được. Nhưng với ý thức hệ tận dụng “bạo lực
cách mạng” kiểu Maoist, cộng với tinh thần thôn
tính, làm cỏ thiên hạ truyền thống, Bắc Kinh sẽ duy
trì hòa bình được bao lâu?
Không thể
không rùng mình ớn lạnh. Vì thật khó
để thuyết phục những đệ tử tự nhận của thứ học thuyết “cách mạng
là tấn công, không tấn công là thất
bại” tự kềm chế tham vọng bành trướng xã hội chủ nghĩa
kiểu Maoist [Maoist hegemonism]. Nếu lịch sử có thể giúp
rút ra một bài học hữu ích, Cộng đồng yêu
chuộng hòa bình thế giới–và đặc biệt hơn 1.3 tỉ
dân Trung Hoa–nên có thái độ và
hành động cần thiết để ngăn cản viễn ảnh Trung Hoa sẽ là
nguồn gốc của Thế Chiến thứ Ba–cuộc chiến mang sức hủy diệt cả
nhân loại và địa cầu.
“Justice for
all”–Công lý cho mọi và mỗi người. Ðó là
tâm niệm và hoài bão của những người mong
muốn một thế giới hòa bình, tiến bộ, đáng sống hơn
của nhân loại. Nhưng ngày ấy còn xa vời. Thế hệ
chúng ta đang còn bị đe dọa, khủng bố bằng những
tên tội phạm chiến tranh trong các dinh thự. Trong số
đó, có những kẻ đang sống huy hoàng tại Trung Nam
Hải như Hồ Diệu Bang và Ôn Gia Bảo–kẻ từng vu cáo
một nhà sư đạo hạnh như Ðạt Lai Lạt Ma của Tibet là
“khủng bố.” Ai sẽ đưa chúng ra trước những tòa án
quốc tế hình sự, cũng như lương tâm nhân loại?
Houston, 1/2-10/4/2010
Chính
Ðạo
©2010,
Copyright by Van Hoa Publishing Co.
All Rights
Reserved.
Chú:
1.
Quốc sử
quán triều Nguyễn, Khâm Ðịnh Việt Sử
Thông Giám Cương Mục [CM], Tiền Biên [TB],
q.II:9b-10a, [II 9b-15b] bản dịch Trương Bửu Lâm et al., (Sài
Gòn: 1965, 1967), II:176-77 [176-201]; bản dịch Viện sử học
(Hà Nội: 1998), I:114. Xem thêm Ngô Sĩ Liên et
al., Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư, Ngoại Kỷ,
[ÐVSK, NKTT], q. III:1b-4a, bản dịch Nhượng Tống (Hà Nội:
Tân Việt, [1944?]) tr. 129-30 [sẽ dẫn Nhượng Tống (1944)]; bản
dịch Cao Huy Giu et al. (Hà Nội: 1967), I:90-2 [ghi là
năm Kỷ Hợi (13/2/39-1/2/40) [sẽ dẫn Giu (1967)]; bản dịch Ngô
Ðức Thọ et al (Hà Nội: 2009), I:183-86 [sẽ dẫn Thọ (2009)]; Ðại Việt Sử Ký Tiền Biên [ÐVSKTB],
bản dịch Dương Thị The et al. (Hà Nội: 1997), Ngoại Kỷ, III:4,
tr. 72-3;
2.
Lê Tắc, An Nam Chí Lược [ANCL], q. 4, “Tiền
triều chinh thảo,” bản dịch Trần Kính Hòa et al. (Huế:
Ðại Học Huế, 1961), tr. 92-3 [phần chữ Việt]. Sẽ dẫn: ANCL.
Các sử quan Nguyễn viết “công hãm thành
ấp, biên quận khổ chi;” chỉ có Lê Tắc
dùng chữ “công duyên quận ấp.” Trần
Kính Hòa cho rằng “duyên” [bên
lề, lân cận] phải hiểu là “trị” [trị sở
viết sai], tức đánh phá trị sở châu
quận. Trong sơ thảo phổ biến trên website, tôi dịch
là “tấn công các quận ấp.” Có
người cho là dịch sai. Ðiều này không
đúng. Khi dịch các bản viết ngoại ngữ, đừng tự động
thêm hay sửa chữa chữ để hiểu theo ý mình. Kết luận
có thể rút ra là chữ “duyên”–hầu như
vô nghĩa hay “trị” viết sai ở đây–có
thể
hiểu
là biên giới [biên] hay [duyên hải], nhưng
có
thể
bỏ, không cần dịch.
3. Li
Dao-yuan et al., Shui-ching chu [Thủy Kinh Chú, TKC], q. 37, Diệp Du
Hà, tờ 62; Idem., Thủy Kinh Chú Sớ [TKCS] bản dịch Nguyễn
Bá Mão (Hà Nội: 2004), ch 37, “Diệp Du Hà,”
tr. 424-25; CM, TB II:9, (Sài Gòn: 1965), II:179 [Vương
vốn họ Lạc, lại có họ riêng là Trưng; dựa theo
Cương Mục tập lãm]; (Hà Nội: 1998), I:114; ÐVSK,
NKTT, III:2a, Nhượng Tống (1944):129; Giu (1967), I:91; Thọ (2009),
I:183; [chi tiết họ Lạc không đúng]; ÐVSKTB, Ngoại Kỷ,
III:4, 1997:72 [chỉ ghi họ Trưng].
4. CM, TB II:9,
(Hà Nội: 1998), I:114chú 1; Nguyễn Linh, “Bàn về
nước Thục của Thục Phán.” NCLS, 124
(7/1969). tr. 48col 1; Chu Diên là một bộ của Văn Lang;
nhưng là tên huyện dưới thời Hán và
Ðường; Henri Maspéro, Etudes d’histoire d’Annam. “Le
Royaume
de Van Lang;” Bulletin de l’Ecole francaise
d’Extrême-Orient [BEFEO], XVIII, 3:4. Sẽ dẫn Maspéro,
“Royaume.”
5. ÐVSK, NKTT,
III:3a, Nhượng Tống (1944):131; Giu (1967), I:92; Thọ (2009), I:184;
ÐVSKTB, Ngoại Kỷ, III:4b-5b, 1997:73-4 [ghi là hơn 50
thành; Ngô Thì Sĩ, 56 thành, có lẽ
dựa theo Ðông Hán Chí].
6.
Lê
Quí
Ðôn, Vân [Văn]
Ðài Luận Ngữ [VÐLN], bản dịch Phạm
Vũ và Lê Hiền (Sài Gòn: 1973?), III: Khu Vũ
Loại, số 85, tr. 168-69.
7.
ANCL, q. 4, 1961:92 [chữ
Việt]; ÐVSKTB, Ngoại Kỷ, III:4b-5b, 1997:73-4; Phan Huy Chú,
Lịch triều hiến chương loại
chí [LTHCLC], bản dịch Viện
Sử học, 3 tập (Hà Nội: NXB KHXH, 1992), q. 6, “Nhân
Vật Chí,” 1992, 1:167.
8. TKCS, ch 37,
“Diệp Du Hà,” Mão, 2004:425; Nguyễn
Linh, NCLS, 124 (7/1969). tr. 48n1 [33-5];
TKCS, Mão, 2004:500, chú
.....................
71. Xem, chẳng
hạn, Nimrod Baranovitch, “Others No More: The Changing Representation
of Non-Han Peoples in Chinese History Textbooks, 1951-2003;” Journal of Asian Studies, Vol 69, No. 1 (Feb 2010), pp.
85-112.
71bis.
ANCL, q. II,
1961:64. [Chiếu
đánh Ðại Việt của Triệu Quang Nghĩa (976-997) tháng 8
Canh Thìn [12/9-11/10/980]
72.
Vũ
Ngự
Chiêu,
“Nhìn Lại Hoàng Sa;” Hợp Lưu
Magazine (Fountain
Valley, CA), No. 108
(tháng 1-2/2010), tr. 5-25; LTHCLC, q. 49, “Bang Giao
Chí: Việc Biên Cương;” 1992,
3:275-95.
73.
Trường Chinh,
“Nhân Dân Việt Nam kiên quyết đánh bại mọi
mưu mô
xâm lược của chủ
nghĩa bành trướng
và chủ nghĩa bá quyền Trung Quốc;” “Xã luận” Tạp
chí Cộng Sản [TCCS], 3/1982,
trích đăng trong Chống
chủ nghĩa bành trướng
bá quyền Trung Quốc
(Hà Nội: 1982), tr. 33-55; UBKHXHVN [nhiều tác giả], Phê
phán
chủ
nghĩa
bành
trướng
và bá quyền nước lớn
của giới cầm quyền phản động Bắc
Kinh (Hà
Nội: KHXH, 1979); Xiaoming Zhang [Trương Tiểu
Minh], “China's 1979 War with Vietnam: A Reassessment;” The
China Quarterly, Volume
184, Dec 2005, pp 851-74.
Chính
Ðạo
©
2010
by
Van
Hoa
Publishing Co.
All
Rights Reserved
|
Giới Thiệu Sử Gia Chính Đạo
Tiến Sĩ Vũ Ngự
Chiêu
(ảnh của
PBase.com)
Chính Đạo là một trong
hai bút danh của Vũ
Ngự
Chiêu. Bút danh
kia là Nguyên Vũ,
rất nổi tiếng ở Miền Nam trước năm 1975. Trước 1975, Vũ Ngự
Chiêu phục vụ trong binh chủng Pháo Binh Dù,
QLVNCH, và đã có hơn 20 tác phẩm xuất bản.
Sau khi ra hải ngoại, ông vừa tiếp tục cầm bút vừa đeo
đuổi việc học. Tốt nghiệp Tiến Sĩ Sử tại Đại Học Wisconsin-Madison năm
1984, sau khi cùng gia đình di chuyển về Houston,
ông là Giám Đốc nhà xuất bản Văn Hóa
và tốt nghiệp Tiến Sĩ Luật tại Đại Học Houston năm 1999.
Những tác phẩm của Vũ
Ngự Chiêu xuất hiện trước năm 1975 dưới bút danh
Nguyên Vũ gồm có Đời Pháo Thủ (bút
ký), Những Cái Chết Vô Danh (tập truyện), Trở Về Từ
Cõi Chết (truyện), Vòng Tay Lửa (trường thiên),
Thềm Địa Ngục (truyện), Đêm Hưu Chiến (truyện), Sau Bảy Năm Ở
Lính (bút ký), Đêm Da Vàng (trường
thiên), v.v. Tại hải ngoại, Vũ Ngự Chiêu đã in
thêm các tập Xuân buồn thảm: Cuộc Sụp Đổ của Nam
Việt Nam (bút ký), Trận Chiến Chưa Tàn (truyện),
Giặc Cờ Đỏ (trường thiên), cùng hai tâm bút
Paris: Xuân 1996, và Ngàn Năm Soi Mặt.
Về nghiên cứu sử học,
ông đã in ba tác phẩm bằng tiếng Anh dưới tên
thực, và 10 biên khảo bằng Việt ngữ với bút danh
Chính Đạo. Biên khảo duy nhất bằng Việt ngữ ký
tên thực của ông là bộ Các Vua Cuối
Nhà Nguyễn, 1883-1945, gồm ba tập. Những tác phẩm
ký tên Chính Đạo thường được viết cho độc giả
không chuyên môn, dễ đọc hơn, không quá
khô khan như các biên khảo đúng yêu
sách bác học.
Ông vừa xuất bản tác
phẩm mới nhất với tựa đề Cuộc Thánh Chiến Chống Cộng, 1945-1975,
tập I, gồm 5 phần: Sơ lược tiểu sử Tổng thống Jean Baptiste Ngô
Đình Diệm (1897-1963); Từ Điện Biên Phủ tới Geneva; Cuộc
truất phế Bảo Đại; Mùa Phật Đản đẫm máu (1963); và
“Phiến Cộng” trong Dinh Gia Long.
Sau năm 1975 ở hải ngoại,
có những dòng thác ngụy tạo ngụy biện nhằm vặn
méo sử kiện để chạy tội và biện minh cho sự vô minh
của mình, Vũ Ngự Chiêu đã dần dần xuất hiện
như một nhà sử học khai sáng và can trường.
Giá trị tinh thần của người trí thức không chỉ
là tôn trọng sự thật mà còn nói
lên sự thật và chấp nhận hậu quả của quyết định can trường
đó. Đó là một sự đổi đời tâm linh có
ý nghĩa đã hình thành nơi Vũ Ngự
Chiêu. Huyền thoại và huyễn mị lịch sử đã
làm cho người Việt xa nhau, chỉ có sự thật mới làm
cho người Việt gần lại với nhau, trong tình dân tộc, nghĩa
đồng bào. Những tác phẩm mới của Vũ Ngự Chiêu
là một đóng góp sáng giá và
có ý nghĩa trong chiều hướng đó.
Trích từ:
http://www.chuyenluan.net
|
Trang mạng Việt Nam Văn hiến
Trang Trụ Đồng Mã Viện: Sự Đàn Hồi của Biên Giới Đế
Quốc Trung Hoa
www.vietnamvanhien.net
email: thuky@vietnamvanhien.net
|