Việt
Nam
Văn
Hiến
Năm
Thứ
4889
www.vietnamvanhien.net
Nhà Thơ
Hoàng Phong Linh
Giới
Thiệu
Nhà
Thơ
Hoàng
Phong
Linh
Tên thật
cuả nhà thơ Hoàng Phong Linh là Võ Đại
Tôn, là
sĩ
quan
cấp
tá
trong
Quân
Lực
Việt
Nam
Cộng Hòa, đã
từng được biệt phái ngoại ngạch sang nhiều công vụ
dân chính tại miền Nam trước 1975 (Phụ Tá Tổng
Trưởng Bộ Thông Tin, - Giám Đốc Công Tác Bộ
Chiêu Hồi).
Vượt biển đến định cư tại Úc Châu năm 1976 và trở
về lại quê hương để tham gia Kháng Chiến Phục Quốc (qua
đường rừng Thái-Lào) nhưng đã bị sa cơ vào
tháng 10, 1981, tại biên giới Lào Việt.
Vì cương quyết giữ vững lập trường không đầu hàng
Cộng Sản trong cuộc họp báo quốc tế ngày 13.7.1982 tại
Hà Nội, ông Võ Đại Tôn đã bị Cộng Sản
Việt Nam biệt giam hơn 10 năm tại trại tù Thanh Liệt (B-14),
ngoại thành Hà Nội.
Được tự do nhờ áp lực của Quốc Tế và trở lại Úc
Châu ngày 11.12.1991.
Hiện vẫn đang tiếp tục dấn thân phục vụ Lý Tưởng Tự Do
Dân Chủ cho quốc gia Việt Nam, công tác khắp nơi
trên thế giới, với cương vị là Tổng Uûy Viên
Điều Hợp Trung Ương của tổ chức đấu tranh Liên Minh Quang Phục
Việt Nam.
Ngoài các hoạt động đấu tranh chống Cộng Sản, ông
Võ Đại Tôn còn là một nhà thơ nổi
tiếng về các đề tài Quê Hương Dân Tộc, với
bút hiệu Hoàng Phong Linh. Một trong những bài thơ
của ông đã được phổ nhạc là bài "Mẹ Việt Nam
ơi, chúng con vẫn còn đây", phổ biến khắp nơi tại
hải ngoại từ mấy chục năm qua. Các tác phẩm văn-thơ của
ông Võ Đại Tôn đã xuất bản là :
(các tập Thơ trước 1975 tại Saigon)
- Hoa Tim
- Đêm Trắng
- Cánh Chim Bằng
- Đăng Trình
- Hồn Ca .
- Lời Viết Cho Quê Hương. (Năm 1979 tại Hoa Kỳ)
- Đoản Khúc Người Ra Đi. (Năm 1986 tại Úc Châu)
- Hồi ký lao tù Tắm Máu Đen
- Tập Thơ Tiếng Chim Bên Dòng Thác CHAMPY (Năm 1992
tại Úc Châu và năm 2000 tái bản tại Hoa Kỳ)
- Tập truyện Chim Bắc Cành Nam (2002)
- Tuyển Tập Thơ-Văn Đấu Tranh "Tổ Quốc – Hành Trình 30
năm" (Úc Châu 2005).
Mọi liên lạc xin gửi về : lmqpvn06@gmail.com
Ông Võ Đại
Tôn còn nhận được nhiều Bản Tuyên Dương của Quốc Hội
Lưỡng Viện Hoa Kỳ, được đương kim Tổng Thống Hoa Kỳ trao tặng huy
chương Quân Công Bội Tinh (2003), và Học Viện Quốc
Tế về các Vinh Dự Quân Đội trao tặng Thanh Gươm Hiệp Sĩ
Vua Arthur (2003) – ông Võ Đại Tôn là người
thứ ba trên thế giới nhận lãnh phần thưởng cao quý
này về Lòng Yêu Nước, tình Đồng Đội,
và Ý Chí Đấu Tranh cho Nhân Quyền.
Nguồn: http:/www.
toquocdandutrachnhiem.com
|
BA MƯƠI HAI NĂM…
Võ Đại Tôn (Hoàng Phong Linh)
Ba mươi hai năm rồi
đó Em
Nỗi buồn trong Ta mãi dài thêm.
Hơn mười ngàn ngày khô khát vọng
Hơn mười ngàn mơ xuyên bóng đêm !
Ba mươi hai năm rồi Em có hay
Sông đau núi khổ vẫn phơi bày.
Nỗi quên giằng co quanh nỗi nhớ
Lạc loài ta mỏi cánh chim bay.
Em đã chìm sâu hoa xác trôi
Trùng dương hoang lạnh huyệt mồ côi.
Hồn Em theo cá Hồi vô định
Tìm lối quay về, lạc biển khơi.
Còn Em phiêu bạt chốn quê người
Khóc cười nghiêng ngả mấy đêm vui ?
Tuyết xuyên gót lạnh chân đài các
Tỉnh mộng còn hoen gối ngậm ngùi.
Tin lại về thêm bến lạ kia
Tiền xanh hay đỏ cọng trừ chia.
Làn da nhàu tím ai vò nát
Huyền-Trân đâu nữa tiếng than khuya ?
Sâu kín lao tù đau xác thân
Đêm đen rợn đỏ mắt hung thần.
Tóc mây làm gối run sàn lạnh
Chén ngọc Em tan, lạc nẻo trần.
Ta vẫn tìm theo tiếng Mẹ ru
Dù đời vân cẩu thoáng phù du.
Thời gian như búa đau lòng ván
Ta mãi không mong tiếng tạ từ.
Lòng ta vẫn thắm dáng quê hương
Tìm Em, sông núi gọi lên đường.
Xin Em gắng đợi dù mưa bão
Để hát cùng Ta thơm tiếng Thương !
Ba mươi hai năm vẫn hẹn lòng
Thuyền xưa tìm lại bến dòng sông.
Trăng thôi huyền thoại, đời thôi ảo,
Mãi nở trong tim một đóa hồng !
Võ Đại Tôn (Hoàng Phong Linh)
Hải ngoại, tháng 5/2007.
Cuối
đường
Mẹ
đi
...
(quê hương, những
ngày di tản đầy máu và nước mắt,
trong tháng Tư dương lịch, 1975)
Võ Đại Tôn
(Hoàng Phong Linh)
Mẹ già đi từ Cam Lộ
Nước mắt chảy mềm Gio Linh.
Gia tài không đầy đôi rổ
Mẹ nhìn máu lửa Thần Kinh.
Đá đổ mồ hôi Thạch Hãn
Chạy dài lên đỉnh Hải Vân.
Leo đèo, Mẹ như mê sảng,
Chân voi - sưng đôi bàn chân.
Mẹ đi giữa trời thiêu đốt
Thây con lớp lớp trải dài
Dọc theo con đường số Một
Nằm bên dăm củ sắn khoai.
Tam Kỳ chạy vô Quảng Ngãi
Bầy con đói khát bên đàng.
Biển người xô nhau, quằn quại,
Ngã dần ... trong tiếng khóc than.
Mẹ vào Qui Nhơn, Phú Bổn,
Nhìn trời khói lửa Pleiku.
Đoạn đường mang tên Mười Bốn
Thành mồ hoang lạnh, thâm u.
Thây ai quàng manh chiếu rách,
Bàn tay nào vói trời cao ?
Ngập vùng tang thương Darlac,
Chân đi, Mẹ khóc nghẹn ngào.
Máu chảy lan dần mạch đất
Nha Trang chết vạn đàn con.
Vào Nam, sức già lây lất
Về đâu ? - Nẻo sống không còn !
Cần Thơ, Hà Tiên, Rạch Giá,
Mẹ lần đến mũi Quê Hương
Cà Mau nhìn ra biển cả
Tàn hơi, Mẹ chết bên đường !
Mẹ già đi từ Cam Lộ
Cuối đường, chết mũi Cà Mau.
Trọn đời sống trong đau khổ
Chết còn trông thấy khổ đau ! ...
Võ Đại Tôn (Hòang Phong Linh)
EM
và
MÙA
XUÂN
QUÊ
HƯƠNG
Võ Đại Tôn
(Hoàng Phong Linh)
Nỗi đau như lưỡi dao
Hằn sâu lòng Tổ Quốc.
Thời gian như gan bào
Đời tạm dung tủi nhục.
Xuân lại về ư ? - Vết thương còn tỉnh thức
Tiếng máu gào, đỏ hực cơn mơ.
Giòng sông trôi - hiu hắt bến bờ
Bên này đại dương ngút ngàn thương nhớ.
Ba mươi năm trường chinh hòa chung nhịp thở
Cùng Tổ Quốc điêu linh.
Ta nửa đêm thảng thốt giật mình
Nghe lằn đạn xuyên chiến hào trai trẻ.
Tay ghìm súng giữ an đất Mẹ
Từng ngọn cỏ bờ đê.
Nghe lệnh hàng - qua mắt lệ nhìn quê
Ta cúi mặt, đời chắn ngang gai kẽm.
Xuân đã về đâu ? - Thân tù lê vết
chém
Gánh oan khiên lịch sử nặng quằn vai.
2.
Xuân đã chìm sâu, ngàn lưỡi
sóng le dài
Nuốt thân Em vào trùng dương đáy vực.
Thuyền định mệnh mong manh rạn nứt
Bồng bềnh trôi theo xoáy nước trầm luân.
Từ thuở yêu Em, ta đã thấy mùa Xuân
Nay còn lại mảnh thuyền trong mê sảng.
Em đã về đâu ? - Say tiếng cười điên loạn
Bầy hải tặc giằng co.
Em ngút tiếng gào to
Thân gục ngã, máu loang hòa Mệnh Nước.
Ba mươi năm, giòng thời gian xuôi ngược
Vẫn còn nguyên quá khứ một vòng tay.
Nhìn Xuân về, trời thoáng nhẹ mây bay
Tưởng vờn hương tóc cũ.
Nụ cười xưa, vào Thơ ta ấp ủ
Thêm hành trang cho trọn bước Lên Đường.
Xuân giữa lòng ta, dù ai chiếm ngàn phương
Ta vẫn có một nẻo riêng về mộng.
3.
Ất Dậu xưa, Em nằm bên rảnh cống
Xác còm khô, đói chết giữa trời Xuân.
Ất Dậu nay, Em vẫn kiếp trầm luân
Đâu Lẽ Sống, bụi đời vương tóc xỏa.
Trời Mậu Thân đã cùng Em gục ngã
Cạn mồ chôn tập thể vói bàn tay.
Giòng lịch sử cuốn xoay
Vùi Em vào uất nghẹn.
Tuổi Xuân hồng, nụ tình yêu chớm thẹn
Cũng đành thôi ! Em nín khóc qua đường.
Đời bao nẻo nhiểu nhương
Ai trả giá thịt da Em ngà ngọc ?
Món đồ chơi, ai vung tiền lột bóc
Thân nghèo Em, hương tóc cũng tàn Xuân.
Ba mươi năm, đời ta vẫn gian truân
Tìm hương cũ, đưa Em về lối mộng.
Cùng chia nhau chút Tình Xuân để sống
Cho trần gian thêm hiểu nghĩa “Con Người”.
4.
Em cố sống và xin giấu nụ cười
Chờ ta ngày trở lại.
Trời nở hoa, nụ tình xưa kết trái
Đời Xuân hồng dìu nhẹ bước chung đi.
Tổ Quốc ta vui, tình ngọc vẫn xuân thì
Dù lấm bụi, thân ngà Em vẫn vẹn.
Mơ cùng Thực - ta nguyên lời ước hẹn
Cuộc trường chinh không mỏi bước đăng trình.
Tổ Quốc ta ơi ! Trong vận Nước chuyển mình
Em sẽ có một trời Xuân để sống.
Ta lên đường, hành trang không chỉ mộng
Vì còn Em nâng dậy bước ta đi.
Nỗi đau Em cùng uất nghẹn tràn mi
Cho ta máu, thêm Niềm Tin vững tiến.
Ba mươi năm - ta không làm rong biển
Bập bềnh trôi.
Trong lòng ta chiêng trống vẫn Hà-Hồi
Cùng Em nữa.
Lời huyết thệ một ngày xưa đã hứa :
- Xuân sẽ về trên vạn nẻo Quê Hương !.
Mùa Xuân Ất Dậu 2005
Hải Ngoại.
VÕ ĐẠI TÔN (Hoàng Phong Linh).
HỒN SÔNG NÚI TRONG EM
(Quý trọng gửi về
Trần Khải Thanh Thủy, Lê Thị Công Nhân,
và những phụ nữ Việt Nam anh hùng bất khuất
trong đại cuộc đấu tranh Dân Chủ tại quê nhà)
Võ Đại Tôn
(Hoàng Phong Linh)
Tôi chưa bao giờ gặp Em
Chỉ thấy hình trên báo
Mà sao cung trầm phím dạo
Lên tơ lòng ray rứt ngày đêm ?
Tóc đen từng sợi nhỏ
Của Em,
trên vầng trán Sao lại vàng khô,
nhuốm màu khổ nạn
Trên quê hương tang tóc đọa đày ?
Em cố viết
những hàng chữ thẳng ngay
Lấy máu tim làm mực.
Dù quanh Em không còn Sự Thực
Bao dối gian vây bủa từng ngày.
Họ đã đổi thay
ngay từng trang Lịch Sử.
Dưới lớp da người là quả tim thú dữ
Mang dòng máu tanh nồng.
Họ bắt Em tô hồng
Những điều không thực.
Họ buộc Em quy hàng bạo lực
Ngòi bút bẻ cong.
Làm con rối tung hô, quanh quẩn chạy vòng
Theo lệnh truyền của đảng.
Nhưng mắt Em ngời sáng
Lửa tinh anh rực rỡ tâm hồn.
Em thẳng nhìn vào mặt lũ quan ôn
Thét vang lời đối kháng.
Tiếng vọng về từ Mê Linh chiếu rạng
Má hồng gươm báu trao tay.
Bành tượng uy nghi, lụa phất cờ bay
Thêm hơi thở, Em chưa hề ngã gục.
Dòng máu Triệu Trưng không bao giờ chịu nhục
Em hiên ngang đứng vững tuyến đầu !
Đôi tay mềm, còng sắt máu thâm sâu
Nghe con khóc, Em vẫn bền tâm chí.
Thân liễu yếu nhưng hồn không ủy mị
Em mĩm cười thách đố lũ sài lang.
Từ xà lim tăm tối vẫn còn vang
Lên tiếng thét vì Nhân Quyền, Dân Chủ !
Trong bóng đêm, tóc nhung mềm sợi rủ
Thành vòng hoa đan kết núi sông hồn.
Em ngẩng mặt, Đời giá trị gì hơn
Là tận hiến, giữ hương màu Áo Trắng.
Hoa đấu gươm mà gươm mòn Hoa thắng
Vì trong Hoa đầy Lẽ Sống Con Người.
Em là Hoa, vườn Tổ Quốc thêm tươi
Chào Xuân mới đang về thơm đất nước.
Bạo lực vây quanh, Em kiên cường tiến bước
Gót hồng Em tươm máu nở đài sen.
Rồi mai đây, đời bóng tối đêm đen
Không còn nữa, bình minh về rạng chiếu.
Trời đất đổi thay, nhịp cung đàn muôn điệu
Bừng thanh âm vang triệu tiếng đồng ca.
Em nhìn con chạy nhảy khắp vườn hoa
Không còn cảnh khóc nhà tan cửa nát.
Chế độ phi nhân tận cùng đốn mạt
Bàn tay Em góp sức đã vùi chôn.
Thế hệ thăng hoa, Tổ Quốc vẫn sinh tồn
Trang sử mới, thẳng hàng Em viết tiếp.
Những em gái không còn đeo nặng kiếp
Món hàng rao như cỏ rác bên đường.
Hạt mầm Em rồi nở rộ Tình Thương
Cây Nhân Bản vươn trời cao đại thụ.
Tôi nhìn lên giữa hào quang vũ trụ
Thấy tên Em rạng rỡ ánh ngàn sao.
Em vẫn là Hoa như tự thuở nào
Hồn Sông Núi cho Em nghìn vẻ Đẹp.
Em vẫn là Hoa thắm màu trong lửa thép
Vườn Tự Do – Em thẳng đứng, nguyên hình !
Trời Việt Nam thơm mãi đóa Hồng xinh.
Võ Đại Tôn (Hoàng Phong Linh)
Hải ngoại, 23.4.2007.
Ngày
giỗ
Bạn
Võ Đại Tôn
(Hoàng Phong Linh)
Hôm
nay
là
ngày
giỗ
của mày.
Tau nhớ rõ
nhưng làm sao trở về thăm mộ
như những lần trước đây ?
Có lẽ mày đã hay
bọn mình mất nước !
Mày sướng hơn tau vì được nằm xuống trước
trên mảnh đất quê hương.
Còn thân tau giờ phải cảnh tha phương
biết bao giờ trở lại ?
Nơi mày nằm chắc có nhiều cỏ dại
hay bị phá tan đi làm kỹ nghệ công trường ?
Tau còn nhớ bọn mình hay nói chuyện quê hương
đời lính chiến vẫn hoài mơ làm Đẹp.
Những buổi hành quân tau làm thơ, mày
chép
giữa rừng sâu mờ ảo bóng trăng sao.
Những đêm mưa nằm dưới chiến hào
gối đầu lên mũ sắt.
Mày hay mơ, mộng ngời lên ánh mắt,
ngày thanh bình trên khắp nẻo quê hương.
Bỏ lại sau lưng khói lửa chiến trường
về vui sống bên mẹ già, xóm nhỏ.
Những em gái hậu phương yêu thiên thần mũ đỏ
thường viết thư cho mày, tán gẫu chuyện tương lai.
Đời bọn mình đâu biết được ngày mai
khi tuổi lính không đếm bằng năm tháng
mà đếm bằng gian truân lửa đạn
phải không mày ?
Những chiều xuân đồn vắng gió heo may
mày mơ ước theo mây về viễn xứ.
Mày đố tau chuyện người xưa, lịch sử
thời Chiến Quốc Đông Châu.
Từ truyện Tàu sang đến tận trời Âu
mày biết cả giòng sông Seine bao nhánh,
Hoa Thịnh Đốn bao đường, trời Paris nóng lạnh.
Nhưng cuối cùng rồi cũng chuyện quê hương
với giấc mơ con, với mộng bình thường
không bao giờ có được !
Rồi một hôm mày lại nằm xuống trước
mắt mở trừng to như muốn hỏi : vì sao ?
Tại sao mày chết ? - khi mày chỉ ước ao
trông thấy mẹ già, đàn em, xóm nhỏ !
Khi mày nói đời thiên thần mũ đỏ
là bất tử trường sinh !
Tau đưa mày đi, đầu cúi làm thinh
và tự hỏi đến bao giờ gặp lại ?
Những em hâu phương, những người con gái
đã yêu mày, sao không thấy tiễn đưa ?
Trong lòng tau đang khóc, hay ngoài trời đang mưa
...
*
Và hôm nay ngày giỗ
tau xa rồi - có còn ai thăm mộ
nơi mày nằm, cỏ dại lạnh tàn hương
hay bị phá tan đi làm kỹ nghệï công trường ?
...
*
VÕ ĐẠI TÔN
(Hoàng Phong Linh)
THIỆN TÂM VÔ ÚY
Võ Đại Tôn
(Hoàng Phong Linh)
(Cung kính gửi về Đại Lão Hòa Thượng
Thích Quảng Độ cùng Quý Bậc Lãnh Đạo Phật
Giáo tại quê nhà, lưu niệm ngày Quý
Ngài đến chia sẻ kiếp nạn cùng dân oan khiếu kiện
tại Saigon).
Người đứng đấy, giữa muôn vàn dâu bể
Cõi trầm luân nhân thế kiếp dân oan.
Áo nâu sồng thanh thoát ánh hào quang
Trong Quốc nạn chìm sâu cơn Pháp nạn.
Lượng Từ Bi lòng hải hà vô hạn
Đóa Hồng Sen chiếu rạng giữa màn đêm.
Chư Phật mười phương Trí Huệ bừng lên
Đang phổ độ thêm Đại Hùng Đại Lực.
Tiếng quê hương vọng về từ đáy vực
Kêu gọi Người nhập thế cứu nhân sinh.
Tạm xa chùa cùng chuông mõ kệ kinh
Đem Đạo Hạnh hoằng dương ngàn Công Đức.
Chốn ta-bà đầy khổ đau cùng cực
Giữa trùng vây ngạ quỷ giết sinh linh.
Người đứng đấy, Hiện Hữu lẫn Vô Hình,
Thân Vô Úy với Tâm Tình Vô Lượng.
Tim Bồ Tát Vô Thanh và Vô Tướng
Hòa chung vào bể khổ kiếp tai ương.
Chốn tù lao đau nhục thể khôn lường
Người vẫn gửi Tiếng Thơ vào Tâm Nguyện. (*)
Hạnh hy sinh thành ngôn từ rung chuyển
Đòi lại Quyền Dân trong Đạo Lý Công Bằng.
Người đứng đấy, thuyền trên Bến Sông Trăng
Giờ Hoàng Đạo sáng hai bờ Nhật Nguyệt.
Thân Tâm Người luôn rạng ngời băng tuyết
Dáng hiên ngang đầy đức độ Từ Bi.
Bánh xe Thời Gian xoay chuyển lẽ huyền vi
Thân đại thụ tỏa muôn ngàn bóng mát.
Chiếc thuyền Không Gian đưa Dân về An Lạc
Cho Tình Người trẩy hội buổi Liên Hoa.
Giữa muôn trùng bạo lực với điêu ngoa
Người vẫn đứng, cạnh tòa sen Dân Tộc.
Ôm mẹ già cùng đàn con đang khóc
Hóa thân vào cộng-nghiệp cõi nhân sinh.
Đem Thiện Tâm – trong khổ nhục quên mình –
Làm vũ khí diệt bao nguồn Tội Ác.
Rồi mai đây giữa trời cao tiếng hát
Núi sông này rạng chiếu ánh Từ Tâm
Phương danh Người thơm ngát, tỏa hương trầm !
Võ Đại Tôn (Hoàng Phong Linh)
Hải Ngoại , tháng 9.2007
(*) – Thơ Tù của Hòa Thượng Thích Quảng Độ.
LỜI
VIẾT
CHO
QUÊ
HƯƠNG
Võ Đại Tôn
(Hoàng Phong Linh)
Tôi là
người dân Việt
Khi mới sinh ra
Tiếng mẹ ru cho ngủ hòa với đạn bom xa
Cùng tiếng võng đưa dìu dặt.
Dù đang khóc - nghe tàu bay của giặc
Cũng biết im hơi, ôm cổ mẹ xuống hầm.
Tôi đã quen tai nghe những tiếng nổ ầm
Mùi thuốc súng ngạt đầy hai lá phổi.
Tôi biết nhìn mẹ tôi cằn cỗi
Sữa khô vàng vì khoai sắn quanh năm.
Mắt ngây thơ tôi thấy mẹ âm thầm
Nhiều đêm tối đẽo tầm-vông cho bố.
Bố tôi đi đặt hầm chông, đào hố,
Đuổi xua Tây, chống Nhật, giữ quê nhà.
Rồi lớn lên, tôi thuộc hát hùng ca
Trước khi biết đánh vần qua chữ cái.
Đường quanh làng in dấu chân non dại
Những chiều làm lính đếm một, hai...
Đòn tre nặng trên vai
Làm súng giả, bắn quân thù ngã gục !
Nghìn đêm mơ : Tiên về ban gậy trúc
Hóa thành gươm, biến ảo phép thần thông,
Cho tôi đi giành lại cả non sông
Trong tay giặc - ôi, tuổi thơ đầy mộng !
Tôi thèm nghe chuyện ngày xưa Phù Đổng
Ngựa đồng phi, roi sắt, đuổi xâm lăng.
Chuyện quả cam trên bến nước sông Đằng
Tay bóp nát vì thù căm lũ giặc.
Từng trang sử ngời trăng sao vằng vặc
Gói hồn tôi bằng gương sáng hùng anh.
Thời gian qua ...
Kháng chiến đã công thành
Trời Tháng Tám đưa Thu vào lịch sử.
Bạn bè tôi từ rừng sâu núi dữ
Kéo nhau về - hoa gấm phủ quê hương,
Mặt trời say bừng mọc ở Nam Phương !
*
Nhưng nguồn vui chưa trọn
Non sông tôi bị trăm ngàn dao nhọn
Đâm thủng hồn, Nam Bắc xẻ chia đôi !
Bầy em thơ lại tiếp cảnh trong nôi
Nghe bom đạn từ xa về ru ngủ.
Dăm ba thằng bạn cũ
Lại ra đi - mỗi đứa một phương trời.
Hai mươi năm nội chiến mỏi mòn hơi
Sông chảy máu, núi bày xương trắng lạnh.
Mẹ tôi chết, một đời trong khổ hạnh,
Cha tôi sầu vĩnh viễn cũng ra đi.
Ngàn thê lương tiếp diễn cảnh phân ly
Sông Gianh cũ nối giòng qua Bến Hải !
Đường quê hương hóa thành bao chiến bãi
Ruộng cày lên vỏ đạn, đất cằn khô.
Đầu xanh non quấn vội giải khăn sô
Màu tang trắng phủ lên hồn thơ dại.
Tôi đã gặp - lòng bao lần tê tái -
Những em thơ bằng lứa tuổi con tôi
Nằm chết bên sông, cuối bãi, ven đồi,
Tay nắm chặt con búp-bê bằng đất.
Đất Việt Nam ! - món đồ chơi tuổi mật
Nghèo như em, nghèo như cả quê hương !
Mặt trời đau - lặn mất ở Nam Phương...
*
Rồi hôm nay
Chiến tranh không còn nữa
Lòng reo vui tưởng xa rồi khói lửa
Nhưng ngờ đâu tôi lại mất quê hương !
Vì tôi đi trên vạn nẻo đường
“Chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ” (Trần Dần)
Tình thương đâu ? Non sông tôi còn
đó
Phải đành xa !
Phải đành xa ! Khỏi thấy mưa sa
Trên màu cờ đỏ !
*
Nhưng quê hương còn đó
Tôi xin hẹn mai về !
Tôi sẽ đi trên vạn nèo đường quê
Bằng những bước chân nắng đẹp.
Tôi sẽ cho em trái tim không bằng thép
Mà bằng máu Con Người.
Trái tim tôi biết nở nụ cười tươi
Vì không nung bằng lò sản xuất.
Tôi sẽ đưa em ra khỏi công trường u uất
Cho em làm Người, biết quý thịt xương
Để em không còn là máy !
Tôi dẫn đàn con tung tăng chạy nhảy
Vào các công viên
Phá tan đi những hình tượng thiếu niên
“Anh Hùng Lao Động”.
Và dựng lên những khu vườn hoa mộng
Cho tuổi ấu thơ.
Có cung trăng với thằng Cuội ngồi mơ
Đầy chim bướm - trả con về tuổi dại.
Đồng ruộng phì nhiêu, hoa màu nông trại,
Sẽ mọc lên thay thế chốn lao tù.
Tôi sẽ ngồi nghe chú bác nông phu
Ca vọng cổ giữa hương nồng lúa mới.
Ôi tình quê hương dìu vợi
Làm sao ôm hết một vòng tay ?
Cho tôi hẹn một ngày
Trở về xin gặp lại
Gia đình, anh em, bạn bè, con cái,
Tất cả đồng bào.
Để cùng ôm nhau - ta sẽ khóc gào
Nước mắt mừng vui trôi dần thương nhớ.
Để hòa chung nhau máu tim, hơi thở,
Và để trao nhau trọn cả Tình Người !
Những bàn tay cũng biết nở môi cười
Dẫn tôi đi trở về thăm chốn cũ.
Tôi sẽ xin trải hồn ra ấp ủ,
Sẽ quỳ hôn từng kỷ niệm ngày xưa !
Và ... không bao giờ tôi thấy lại trong mưa
Màu máu tươi cờ đỏ !
Ôi ! quê hương còn đó
Cho tôi hẹn mai về
Để làm Người, và được sống nơi Quê !...,
TIẾNG CHIM BÊN DÒNG
THÁC CHAMPY
(Tưởng
niệm
hương
hồn
cố Chiến Hữu VŨ HOÀI
đã hy sinh vì Tổ Quốc trên đường cùng
tôi trở lại Quê Hương,
10/1981, tại Hạ Lào).
Võ Đại Tôn
(Hoàng Phong Linh)
1.
Em
cứ
nằm
yên
đấy
Bên dòng thác CHAMPY
Con đường chúng ta đi
Đã vô cùng gian khổ.
Dăm mảnh đá xanh rêu thành nấm mộ
Anh đắp lên cùng với cả tình anh.
Em đã đi qua bao thác bao ghềnh
Đường về quê nay trở thành tử lộ.
Dòng hoa trắng từ núi cao đang đổ
Xuống lòng khe cho mát tấm thân em.
Rồi từ đấy trong rừng vắng từng đêm
Hay mỗi sáng sương mờ ôm đỉnh núi
Trên cành gai vắt mình qua khe suối
Con chim buồn đứng hót tiếng cô đơn.
Tiếng chim nghe uất hờn
Lời chim tràn ai oán.
Dặm trường xa sao nửa đường đứt đoạn
Em thành chim trong tiếng hót Hoang Vu . . .
2. Con đường đầy sương mù
Rừng tre già cao vút.
Đêm mưa dầm lũng sâu ngập lụt
Ta băng mình qua tiếng mưa rơi.
Thân tím bầm run rẩy chút tàn hơi
Chân vẫn bước vì lửa lòng chưa tắt.
Anh không sợ kẻ thù trước mặt
Mà ngại tình chiến hữu sau lưng.
Anh nhìn ngọn tre cao vút giữ rừng
Như ngọn dáo lén đâm vào chiến sĩ.
Ngọn dáo của lòng ganh tỵ
Ai người vong bản bon chen ?
Ngọn dáo của kẻ ươn hèn
Vội quên mối thù vong quốc.
Đường ta đi đã lên đèo xuống dốc
Hành trang nghèo mà nặng gánh Cô Đơn.
3. Đỉnh núi cao mây vờn
Đá nghìn năm quên tuổi.
Nằm nghỉ chân, võng đong đưa bờ suối
Ta lạc loài như dã thú không tên.
Qua TCHÉ-PONE, BOLOVEN,
Về Hạ Lào thăm thẳm.
Còn bao núi xuống
Còn mấy núi lên ?
ATOPEU đường xa muôn dặm
Rừng Tây Nguyên heo hút trong tim.
Ta vẫn đi - anh thấy một đàn chim
Tung cánh bay nhanh về tổ
Nhưng còn em ?
- Còn em đâu ?
Tiếng đạn thù đã nổ
Bên dòng thác CHAMPY !
Hận cừu này anh mãi mãi còn ghi
Và nước mắt xin trở thành gươm dáo.
Anh vẫn còn nghe tiếng chim ảo não
Trong rừng vắng thâm u.
Bóng chim trong sương mù
Cô đơn đứng hót.
Đường cam go, anh không hề dừng gót
Hẹn mai về, mang trái ngọt cho em.
4. Bây giờ quá nửa đêm
Anh còn nghe tiếng suối.
Tiếng chim trong rừng núi
Vọng về từ cõi mơ.
Đường quê hương - anh ngã ngựa không ngờ
Trong phút chốc trở thành tên chiến bại.
Em là chim trên ghềnh xa hót mãi
Anh là chim trong bốn vách tù cao.
Nhưng đêm vẫn còn sao
Em cứ nằm yên đấy
Cùng gió reo nước chảy
Bên dòng thác CHAMPY.
Còn nửa đường anh vẫn quyết ra đi
Thêm tiếng hót vào hành trang bất khuất.
Nếu anh chết - linh hồn anh u uất
Cũng thành chim vang tiếng hót cùng em.
Trong rừng vắng từng đêm
Trên cành gai khe núi
Hai tiếng chim sẽ hòa theo tiếng suối
Đến muôn đời cao tiếng hót QUÊ HƯƠNG !
VÕ ĐẠI TÔN (Hoàng Phong Linh)
*
(Bài thơ này đã được hai nhạc sĩ SONG NGỌC
và TRẦN CHÍ PHÚC phổ thành hai bản trường
ca khác nhau và đã được phổ biến tại hải ngoại).
TIẾNG THÉT TỪ LƯƠNG TÂM
-
Kính
tặng
LM
Nguyễn
Văn
Lý
và
những
Nhà
Đấu
Tranh
Dân
Chủ trong nước.
-
Thân
tặng
Tuổi
Trẻ
Việt
Nam,
không
một
chế
độ
nào
có
thể bịt miệng chúng ta.
Võ Đại Tôn
(Hoàng Phong Linh)
Một bàn tay không
che nỗi Mặt Trời
Đang sáng rọi vào lương tri Nhân Loại.
Một bàn tay làm sao bóp tan Tiếng Nói
Đang khơi nguồn cho biển động muôn nơi ?!
Dã thú vây quanh, Người vẫn yên ngồi
Như bậc Thiền Sư giữa trăm nghìn bão táp.
Một Tiếng Thét làm quân thù cúi rạp,
Lòng sói lang run sợ kinh hoàng.
Tiếng Thét của Cha Ông từ thuở hồng hoang
Khắc lên đá lời tâm nguyền dựng Nước.
* Của Đằng Giang ngăn chân bạo ngược
Kiếm vạch lòng sông, tiến bước không lùi.
* Của Đống Đa, xác giặc chôn vùi,
Trên bành tượng hào quang thân lẫm liệt.
* Của Chí Linh, tụ về bao hào kiệt
Nung thép trong lòng, sấm hịch rền vang.
* Của đầu rơi Yên Bái chẳng quy hàng
Run máy chém, mặt thù xanh hoảng sợ.
* Của bao người lịm dần, khô tiếng thở
Trên quê hương không mảnh đất vùi thân.
Từ Cổng Trời cùm sắt máu hoen chân
Trong uất nghẹn vẫn gào lên Tiếng Thét.
Bao đòn thù trên thân tù đói
rét
Chung màu da sao mãi gánh oan khiên ?
* Của đàn em thơ đói khát triền miên
Thân vàng vọt thành món hàng mua
bán.
Thế hệ trầm luân, sinh phong dần khô cạn
Đời tương lai Em chống nạng về đâu ?
Ba mươi hai năm, vẫn chỉ một màu
Đen tủi nhục bao trùm lên đất nước.
Một bàn tay vẫn nguyên hình bạo ngược
Đang bịt mồm Công Lý, bóp quyền Dân.
Nhưng Hồn Thiêng Sông Núi tựa Linh Thần
Đang phù trợ cho Người luôn vững chí.
Đang kết tụ từ nghìn năm hào khí
Hòa chung thành một Tiếng Thét hôm nay.
Đại diện Toàn Dân trong bóng tối đêm
ngày
Cho Nhân Loại bừng Lương Tri, thức tỉnh.
Bao thế hệ trời Nam, ngẩng cao đầu chiếm lĩnh
Quyền Con Người chung ánh sáng phương Đông.
Ba triệu bàn tay đầy sắc máu chuyên hồng (*)
Cũng không thể che Mặt Trời thế kỷ.
Một Tiếng Thét mà vang lừng Nhân Vị
Vườn Tự Do thơm nhụy nở bừng hoa,
Nhịp liên hoàn Dân Chủ bản đồng ca !
Võ Đại Tôn
(Hoàng Phong Linh) Hải Ngoại, 15.4.2007.
(*) – Ba triệu đảng viên Cộng Sản Việt Nam.
TỔ
QUỐC
-
HÀNH
TRÌNH
BA
MƯƠI
NĂM
1975 - 2005
Võ Đại Tôn (
Hoàng Phong Linh)
(LỜI
TRẦN
TÌNH
KÍNH
DÂNG
TỔ
QUỐC).
***
- Tổ Quốc của tôi ơi
Ba mươi năm trời
Áo tôi đã rách.
Còn sợi chỉ nào, từ nguồn thiêng huyết mạch
Cho tôi xin, vá lại áo đời.
Tôi đã đi, đường gai góc mòn hơi
Xuyên rừng núi - mồ hôi pha trộn máu.
Về quê hương, nguyện lòng son chiến đấu
Nửa đường đi thành đêm tối lao tù.
Mười năm ôm hận nghìn thu
Lênh đênh chìm theo vận Nước.
Và hôm nay, vạn nẻo đường xuôi ngược
Tôi vẫn còn tiếp bước Cha Ông.
*
- Ba mươi năm - Tổ Quốc đã đau lòng
Nghe con khóc từ trùng dương sóng chuyển.
Huyền sử xưa năm mươi con theo Cha về biển
Giống Rồng thiêng mở rộng cõi bờ.
Còn hôm nay vì hai tiếng Tự Do
Trăm-ngàn thây vùi tan nơi vực thẳm.
Năm mươi con vượt rừng sâu muôn dặm
Theo Mẹ hiền - thơm nửa máu dòng Tiên.
Dựng quê hương hùng sử khắp ba miền
Nay Văn Hiến cằn khô cùng sỏi đá.
Những địa danh chôn xương tù gục ngã
Tên kinh hoàng, tủi nhục đến nghìn năm.
Hoàng Liên Sơn không nấm mộ con nằm
Cổng Trời nghe máu khóc.
Dã thú vờn quanh, xiềng gông, tang tóc,
Nghĩa “Con Người” thua chữ sắn khoai.
*
- Ba mươi năm - em bán hình hài
Tìm miếng cơm manh áo.
Đại Hàn, Đài Loan xông xáo
Mua em về làm món đồ chơi.
Năm nghìn năm dù nước lửa dầu sôi
Chưa bao giờ mẹ bán con vì đói.
Bầy trẻ thơ còm cõi
Bươi rác nghèo, rách rưới lang thang.
Nghe quanh mình loa vẫn thét "vinh quang"
Đường tương lai đá cũng tan thành lệ.
*
- Ba mươi năm tưởng chào vui thế hệ
Ngẩng cao đầu, tay vói đến năm châu.
Nhưng cội nguồn và đạo lý chìm sâu
Lo sáng tạo những đua đòi vật chất.
Mùi kim tiền thơm hơn bánh mật,
Giấc mơ vàng : - mong thoát khỏi quê hương.
Thúy Kiều xưa, rơi sóng nước Tiền Đường
Nay viết lại thành Tiền Giang, phản động ! *
Lũy tre xanh, cánh tay thần Phù Đổng
Bao anh hùng dựng Nước thuở ban khai
Còn lại đây hoang phế cả đền đài
Tên Hùng Vương đành thua tên Bill Gates. *
Túi càn khôn đã nghèo, thêm
rỗng tuếch,
Văn Hóa này còn lại tiếng "bia ôm" !
*
- Ba mươi năm : răng hổ đói đỏ ngòm
Luôn gầm thét, xé tươi hồn Dân Tộc.
Từ địa đạo ùn lên bao cơn lốc
Thành “đại gia” chễm chệ một phương trời.
Miệng “vô sản” toàn men rượu nồng hơi,
Tay “chuyên chính” ôm bao đầy châu báu.
Dinh thự nguy nga - dựng lên từ máu
Của nhân dân khổ hạnh một đời.
Người thương binh ngẩng mặt nhìn trời
Nghe tiếng khóc trong tiếng cười vang vọng.
Chiếc xe lăn bánh mòn, gãy gọng,
Lê thân tàn về cuối hẻm đơn côi.
*
- Tổ Quốc của tôi ơi
Ba mươi năm niềm đau quặn thắt.
Đàn con lưu vong lửa lòng nguội tắt
Dĩ vãng quên rồi, hiu hắt tình quê.
Lớp già nua mơ ước nẻo về
Không nhắm mắt, cuối đời lên tiếng nấc.
Còn tuổi trẻ hồn nhiên hoa mật
Nơi xứ người chấp nhận quê hương.
- Nhưng một ngày mai :
- Đường hoa nở hướng dương
Hành trình thôi cúi mặt.
Sẽ có những đàn con vòng tay siết chặt
Kéo mặt trời về lại phương Đông.
Tổ Quốc sẽ tươi hồng
Giữa hào quang Dân Tộc.
Cây Tự Do sẽ đâm chồi nẩy lộc
Lửa Nhân Quyền bừng sáng nẻo thâm u.
Mái trường vui thay thế chốn lao tù
Cho con học từ cội nguồn Nhân Bản.
Không kẻ nào được quyền mua bán
Thịt da em, nguồn sống của Rồng Tiên.
Hồn Tổ Quốc linh thiêng
Đài cao về chiếm ngự.
Cuộc hành trình từ quê hương - viễn xứ -
Chuyển xoay thành trẩy hội hoa đăng.
Từ phương Nam tung vút cánh chim Bằng
Thành Rồng Thiêng Đông Á.
Từ núi cao nghiêng mình ra biển cả
Rạng ngời soi hai chữ : VIỆT NAM.
*
- Lời trần tình ba mươi năm
Tôi viết bằng tim máu.
Từ nỗi đau âm thầm chôn giấu
Kính dâng lên Tổ Quốc hằng yêu.
Mỗi chữ-vần mong gói trọn một điều :
- Từ tâm thức xin góp chung hành động.
Đại Cuộc Toàn Dân ban tôi Lẽ Sống
Hiến dâng đời cho trọn nghĩa Quê Hương.
Tổ Quốc ơi
Dù gian lao, xin tiếp máu Lên Đường
Cho tôi về với Mẹ.
Vững chân đi, qua trăm ngàn dâu bể
Được quỳ ôm từng mảnh đất quê Cha.
Phút cuối đời xin biến lệ thành hoa
Giữa triều vui Dân Tộc.
Trong lòng tôi : - Vĩnh hằng Tổ Quốc
Huy hoàng Văn Hiến - Tự Do !
VÕ ĐẠI TÔN
(Hoàng Phong Linh)
2005.
Ghi chú :
* Văn Học
: Trong kỳ thi tốt nghiệp Trung Học tại Việt Nam năm 2004, qua dề
tài bình luận về truyện Kiều của Nguyễn Du, đã
có nhiều thí sinh nộp bài viết : Thúy Kiều
vì buồn chuyện gia đình đã tự vận tại sông
Tiền Giang, may nhờ một nữ cán bộ Cộng Sản vớt lên, cải
tạo tư tưởng phản động, Thúy Kiều giác ngộ, xin được kết
nạp vào đảng.
*Lịch sử : Trong cuộc thăm dò ý kiến sinh viên
các trường đại học ở Việt Nam về các vĩ nhân thế
giới và dân tộc, đa số sinh viên đều tuyển chọn Bill
Gates làm thần tượng số 1 của giới thanh niên hiện nay ở
trong nước. *
Nguồn:
http://www.toquocdandutrachnhiem.com
HỊCH TRUYỀN TỪ TỔ QUỐC !
(Viết
khi nhận được tin Trung
Cộng chính thức sát nhập hành chánh kể từ
ngày 2.12.2007
quần
đảo Hoàng Sa – Trung Sa - Trường Sa của Việt Nam thành
huyện Tam Sa,
trực
thuộc
tỉnh
Hải
Nam
của
Trung
Cộng,
do
đảng
Cộng
Sản Việt Nam dâng
hiến).
Võ Ðại Tôn
(Hoàng Phong Linh)
Ông Cha ta vạch kiếm chỉ
lòng sông
Chân vững thạch, tay chống Trời
ngạo nghễ.
Chí đại bàng vượt
muôn ngàn sóng bể
Thách trùng dương, đi mở
rộng cõi bờ.
Hải đảo xa xôi thêm
máu dựng cờ
Rồng tung cánh rợp Trời Nam hiển
hách.
Vó ngựa Hung Nô bao lần
quét sạch
Chặn xâm lăng qua khí
phách kiêu hùng.
Mấy nghìn năm sâu rễ
bách tùng
Gươm chém đá – đá
mòn, gươm vẫn sắc.
Gốc tre thiêng làm kinh
hoàng phương Bắc
Cọc Ðằng Giang xuyên thủng
mộng quân thù.
Từ Diên Hồng cho đến chốn thảo lư
Lời Tâm Nguyện chung lòng
lo giữ Nước.
Bành tượng uy linh chắn ngang
bạo ngược
Ðống Ða mồ, bia sử sáng
nghìn năm.
Dù phong ba theo mệnh Nước thăng
trầm
Luôn giữ vững từng dòng
sông, đỉnh núi.
Từ Ải Nam Quan đến Cà Mau đất
mũi
Là của Ta, xuyên suốt ba
miền.
Từ dảy Trường Sơn ôm ấp
khí hùng thiêng
Thân đại thụ cũng nguyên
lòng chung dạ.
Tất cả ! Tất cả !
Dù là máu xương
Khô cằn sỏi đá .
Dù là hướng dương
Hoa hồng tám ngã
Ðều là của Ta !
Không ai có quyền đem
máu của Ông Cha
Ði dâng hiến, vết nhơ
nhòe trang sử !
Lũ tội đồ khom lưng cống sứ
Làm ô danh, tủi nhục giống
Rồng Tiên.
Bọn Bắc Phương luôn ôm mộng
bá quyền
Luôn thu tóm, hả hê
cười đón nhận.
Lời Hịch Truyền hôm nay đầy uất
hận
Từ Cha Ông, từ Sông
Núi nghìn thu.
Dòng máu Thiêng từ
rừng rú thâm u,
Nơi hải đảo, kinh thành hay
xóm vắng.
Kiếp lưu vong đời tha phương trĩu nặng
Hay đọa đày trên mảnh đất
quê hương .
Hãy thét vang,
cùng truy diệt bạo cường
Ðang chễm chệ ngồi buôn
Dân bán Nước.
Toàn Dân Ta kẻ sau người
trước
Không cúi đầu khiếp nhược
khoanh tay.
Ta làm Chủ đất này
Ai được quyền mua bán ?
Lãnh thổ Thiêng
Liêng nghìn năm chói rạng
Là của Toàn Dân !
Dù bể dâu biến đổi phong
trần
Ta vẫn đứng trên bờ dâu bể !
Ải Nam Quan còn sôi huyết
lệ
Bản Giốc dòng khóc hận
đêm thâu.
Ðảo Hoàng Sa ngơ ngác
tủi sầu
Thay đổi chủ, sóng đen
màu uất nghẹn.
Ðất Nước ta toàn vẹn
Nào ai dám cắt chia ?
Sao giờ đây thịt xẻ xương
lìa
Giang sơn đầy vết máu ?
Ðảng vong nô, một phường thảo
khấu
Lấy máu dân tô thắm
màu cờ.
Làm nhục Cha Ông,
dâng hiến cõi bờ
Rồi ngất ngưởng nơi Ba Ðình
chuốc rượu !
Dân Tộc ta mấy nghìn năm
trường cửu
Lẽ nào đâu khuất phục lũ
sài lang ?
Lời Hịch đã rền vang
Quyện Hồn Thiêng Sông
Núi.
Hãy ngẩng đầu cao, chuyển xoay
hận tủi
Thành cuồng phong, chung Ðại
Khối Toàn Dân.
Giành lại non sông,
dù phải hiến thân
Vì Ðại Nghĩa, tâm
nguyền chung cứu Nước.
Ðá phải mềm vì
chân ta cứng bước
Và đời ta nguyên thủy vẫn
lòng son.
Trời phương Nam, đất Việt phải
còn
Ðến muôn nghìn năm nữa
!
Lời Hịch hôm nay, tiếng vang
thành lửa
Ðang soi đường dẫn hướng ta đi.
Ðòi lại quê hương,
thoát cảnh suy vi
Dân Tộc Việt, trời phương Nam : -
Tự Chủ !
Võ Ðại Tôn
(Hoàng Phong Linh)
Hải ngoại, 10.12.2007.
Nguồn: http://vnthuquan.net
Bài Tưởng Niệm của Niên
Trưởng Võ đại Tôn
Nhân dịp sắp đến
ngày kỷ niệm NGÀY QUÂN LỰC xin gởi đến các
NT và bằng hữu một bài thơ của NT Võ đại Tôn
:
BÀI
TƯỞNG
NIỆM
44
NĂM
QUÂN
LỰC
VIỆT
NAM
CỘNG
HÒA
ANH
HÙNG
(19.6.1965
–
19.6.2009)
Hôm nay,
Trước bàn thờ Tổ Quốc uy danh
Những người lính già cùng thế hệ tuổi xanh
Hợp lòng chung khấn nguyện:
Bao Anh Hùng trong cõi vĩnh hằng linh hiển
Xin về đây chứng kiến Tâm Thành.
Chúng tôi,
Giữa trời lưu vong năm châu bốn biển
Dâng nén hương lòng,
trọn Nghĩa Tình đồng đội chi binh.
Chúng tôi,
Dù phai màu áo trận
Nhưng Tổ Quốc luôn hiện hữu bên mình
Và thời gian vẫn vuông tròn Trách Nhiệm.
Đứng bên này bờ đại dương,
chúng tôi hướng lòng tưởng niệm
Về Đất Tổ Quê Cha.
BỐN
MƯƠI BỐN NĂM QUÂN LỰC CỘNG HÒA
NGÀY
KỶ
NIỆM
LỪNG
DANH
QUÂN
SỬ.
Chúng tôi,
Mang tuổi lính, và tuổi đời lênh đênh viễn xứ
Cùng vận Nước gian nan.
Từ bốn phương trời thế giới thênh thang
Vẫn còn vang bước quân hành
trên Bốn Vùng Chiến Thuật.
Theo dấu chân những Người đã khuất
Nguyện lòng son cùng với Núi Sông.
Trong ngậm ngùi chưa thỏa mộng tang bồng
Cúi xin hương linh các Anh Hùng Tử Sĩ
Phù hộ chúng tôi giữ tròn Tâm
Chí
Sát cánh cùng nhau, tiếp bước kiên cường.
Từ Địa Phương Quân đến các Binh Chủng
hùng trấn biên cương,
Từ Hải Quân vượt sóng trùng dương
Đến Không Quân cánh đại bàng tung lướt
gió,
Đã có bao người ngày đêm gian khổ
Vẫn bền gan, dù phải hy sinh.
Giữ yên Đất Mẹ, quên cả thân mình
Đem xương máu bảo toàn danh Tổ Quốc.
Xác thân gửi vào lòng Dân Tộc
Hồn còn sống mãi đến thiên thu.
Từ Thiên Thần Mũ Đỏ tung cánh hoa dù
Đến Cọp Rằn Mũ Nâu,
cùng bước chân âm thầm Biệt Kích.
Từ Cọp Biển Mũ Xanh,
cùng nhau tạo nên chiến tích
Lẫy lừng, Tổ Quốc Tri Ân.
Dù nổi trôi theo vận nước trong khổ nạn Toàn
Dân
Chúng tôi vẫn thẳng đứng, ngay hàng, hiện diện.
Quân Lực hùng anh, lừng vang bách chiến
Thỏa chí bình sinh cho vẹn ước nguyền.
Quyết xông pha trên khắp mọi miền
Thân Lính Chiến Vì Dân luôn tiến bước.
Từ Bến Hải đến Cà Mau xuôi ngược,
Cờ Vàng bay trên Quảng Trị Cổ Thành.
Hoa Dù nghiêng đồng ruộng,
Chao bóng giữa rừng xanh.
Trên chiến địa vang dậy bước quân hành
Hay âm thầm từng đêm xuyên lòng đất địch.
“An Lộc địa, sử ghi chiến tích
Biệt Kích Dù vị Quốc vong thân!”
Trọn một đời hãnh diện áo Quân Nhân
Chung góp máu, dựng Cờ Thiêng đất Mẹ.
Chúng tôi nguyện hiến dâng đời trai trẻ
Cho Tổ Quốc tồn vinh.
Đã bao người trong khói lửa hy sinh
Không lùi bước, chắn ngang biển địch.
Thành Đinh Công Tráng vang lời truyền hịch
Đem máu xương vào chiến tích nghìn thu.
Qua Miên Lào vượt đèo núi thâm u
Reo chiến thắng, trời nung Hè Đỏ Lửa!
Tết Mậu Thân, giữ nguyên từng điểm tựa
Ngạo nghễ Cờ Vàng trên Phú Văn Lâu.
Bình Giả, Đầm Dơi, Hạ Lào,
vượt qua rừng thẳm sông sâu
Ghi tên vào Quân Sử.
Truy địch Trường Sơn, Pleime, A Lưới,
thành địa danh bất tử
Hiển hách đến muôn đời.
Hôm nay,
Chúng tôi về đây xin khấn nguyện một lời
Chung tiếp sức, không bao giờ bỏ cuộc.
Cùng thế hệ cháu con giữ nguyên cờ Tổ Quốc,
Song hành đòi lại quê hương.
Chúng tôi nguyện noi gương
Từ Chiến Sĩ Vô Danh đến Anh Hùng Tướng Lãnh
Giờ phút cuối trên miền Nam bất hạnh
Đã hiên ngang tuẫn tiết, chẳng quy hàng.
Chúng tôi nguyện làm viên gạch lót
đàng
Cho Hậu Duệ ngày mai về dựng Nước.
Sát cánh, kề vai, cùng nhau tiếp bước
Cho vẹn toàn Nghĩa Khí Quân Dân.
Vì Trách Nhiệm, cuối đời mang hoài bảo góp
phần
Chung truyền thống, dựng cao Cờ Chính Nghĩa.
Chúng tôi nguyện một lòng tái xây
tuyến địa
Cùng Toàn Dân, Sử mới viết nghìn trang.
Một ngày mai trong ánh sáng vinh quang
Trên Đất Mẹ uy linh Cờ Tổ Quốc.
Dưới biểu tượng Tự Do giữa mùa Xuân Dân Tộc
Chúng tôi đây, luôn thẳng lối nghiêm
hàng.
Cúi xin hương linh Anh Hùng một thuở dọc ngang
Về đây chứng giám.
Bao thế hệ khắc sâu vào tâm khảm
Một lời chung huyết thệ giữ lòng son.
Xin giúp chúng tôi trong Đạo Nghĩa vuông
tròn
Vì Tổ Quốc thiêng liêng,
Vì hào quang Danh Dự,
Vì chu toàn Trách Nhiệm
Xin trọn đời Tâm nguyện hiến dâng!
Võ Đại Tôn
Úc
Châu,
6/2009
Nguồn:
http://hoiquanphidung.com
Ngạo Nghễ Cờ Ta Bay
Hoàng Phong Linh
|
Võ Đại Tôn
Hòang Phong Linh
Đỗ Tiến Đức
Phát biểu trong buổi sinh hoạt
“Hành trình công tâm để xây dựng lại
niềm tin” và ra mắt thơ văn của ông Võ Đại
Tôn tại nhà hàng Emerald Bay, Santa Ana ngày
12 tháng 6, 2010.
Đã có quá nhiều người
nói và viết về ông Võ Đại Tôn.
Và gọi ông bằng những danh từ đẹp nhất cho một đời người.
Cố thi sĩ Nguyên Sa gọi ông
Tôn là chiến sĩ anh hùng, so sánh ông
với một nhân vật lịch sử là Cao Bá Quát.
Thi sĩ Du Tử Lê chẳng những gọi ông
Tôn là anh hùng mà còn là “nhị
trùng bản ngã anh hùng Võ Đại Tôn.
Thi sĩ Cao Tiêu làm thơ tặng
ông Tôn, gọi ông Tôn là “đại
hùng”.
Thi sĩ Nguyễn Chí Thiện cũng gọi
ông Tôn là anh hùng. Ông còn gọi
ông Tôn là chiến sĩ.
Cố nhà văn Xuân Vũ gọi ông
Tôn là một nhà cách mạng, là lương
tâm của thời đại.
Nhà báo Nguyễn Đạt Thịnh, cựu
Trung tá Quân đội VNCH gọi ông Tôn là
“một vị anh hùng”.
Nhà báo Giao Chỉ so sánh
ông Tôn với danh tướng Trần Bình Trọng, là
chiến sĩ anh hùng, là nhà cách mạng,
là nhà thơ, là “một anh hùng còn
sống”, là “người lính với nhị trùng bản
ngã”..
Cũng theo nhà báo Giao chỉ
thì trong giai đoạn đầu của lịch sử phục quốc của người Việt tỵ
nạn cộng sản, có ba người đã dấn thân về nước.
Đó là ông Trần Văn Bá từ Âu
châu, ông Hoàng Cơ Minh từ Mỹ châu và
ông Võ Đại Tôn từ Úc châu.
Hai ông Bá và Minh đã hy sinh.
Chỉ còn ông Tôn, dù rằng ông đã
có hành động tự sát khi Việt cộng đưa ông ra
họp báo, ông đã cất cao tiếng nói bất khuất,
giữ vững lập trường diệt cộng cứu nước, y như khi xưa Trần Bình
Trọng đã dõng dạc nói vào mặt kẻ thù
“Thà làm qủi nước nam còn hơn làm vương đất
bắc”.
Cho nên ông Tôn trở
thành “một anh hùng còn sống”.
Cho nên hôm nay chúng ta
nói về ông Võ Đại
Tôn không phải trong một buổi lễ tưởng niệm, truy điệu,
mà chúng ta hân hạnh được ngồi chung với ông
bà Võ Đại Tôn trong
hội trường này.
Trở lại câu chuyện ba chục năm trước, khi
mà ông Võ Đại Tôn đã tạm bỏ, mà
nhiều phần là bỏ luôn, cuộc sống yên ấm nơi hải
ngoại, với bà vợ trẻ đẹp, để lội suối băng rừng về quê
hương chống thù cứu nước. Thử hỏi ông có mơ một
ngày ông trở thành Tổng thống chăng ? Tôi
nghĩ là ông Tôn không có ảo tưởng như
thế.
Hẳn ai cũng biết, khi Hồ Chí Minh về
hang Pắc Pó, ông ta chưa có dân, chưa
có quân đội, nhưng ông ta có cả một đế quốc
cộng sản Nga Tầu yểm trợ. Còn ông Tôn, trở về nước
chỉ với vài chiến hữu, các đồng minh cũ của Việt Nam cộng
hòa chẳng những đã không yểm trợ mà
còn tạo dư luận chống đối, cô lập ông. Họ đề cao
hình thức đấu tranh bất bạo động để trói tay kháng
chiến Việt Nam. Họ không muốn Việt Nam có một Arafat. Họ
đẩy chúng ta vào cuộc đấu tranh cho nhân quyền để
chúng ta quên đi cuộc đấu tranh giải phóng. Thế
mà cũng có một số đảng phái nghe theo, trước khi
vào cuộc đấu tranh cứ phải minh định với kẻ thù rằng,
chúng tôi chủ trương bất bạo động nghĩa là
chúng tôi không động tới người các ông
đâu, chúng tôi đã tự trói tay
chúng tôi rồi.
Rõ ràng là kẻ thù
của chúng ta không chỉ là kẻ vi phạm nhân
quyền. Giết dân, bán
dân, bán lãnh thổ của cha ông không
phải là vi phạm nhân quyền. Chúng là kẻ phạm
tội diệt chủng. Chúng là kẻ bán nước. Chúng
ta tội đồ của dân tộc.
Khi chúng ta chỉ kết án cộng sản
vi phạm nhân quyền là chúng ta đã cải tội
danh cho chúng, từ tội đại hình xuống tội vi cảnh, từ tội
mà các vua thời trước phạt chu di tam tộc, xuống
còn tội đậu xe mà quên bỏ tiền vào đồng hồ.
Ông Tôn đã xông
vào cuộc chiến rõ ràng không phải ông
muốn về Hà Nội để biên giấy phạt kẻ vi phạm nhân
quyền. Ông muốn trao cho tội đồ cộng sản một bản án phản
dân hại nước.
Nhưng có lẽ người chiến sĩ Võ Đại
Tôn cũng đã ý thức rằng sẽ phải chiến đấu rất gian
khổ mới hy vọng đạt được mục tiêu là giải phóng tổ
quốc. Cho nên ông đã khẳng định ông chỉ
là một viên gạch lót đường. Nghĩa là
ông mang mạng sống của ông để kích thích
lòng yêu nước, để mở ra cuộc đấu tranh vì đã
có viên gạch lót đường rồi, toàn dân
hãy lên đường và xốc
tới. Hơn ai hết, ông hiểu rằng vòng hoa vinh quang sau
cùng sẽ không choàng lên viên gạch
lót đường mà sẽ quàng lên cổ những người
đã nhờ viên gạch lót đường mà đi tới chiến
công.
Cái ý nghĩa “viên gạch
lót đường” còn được sáng chói trong buổi
cộng sản đưa người tù Võ Đại Tôn ra trước một cuộc
họp báo ở Hà Nội . Chúng đinh ninh sau những trận
đòn tàn bạo, sau những ngày bỏ đói, những
đêm không cho ngủ, ông Tôn đã đầu
hàng vì bản tính chung con người là tham
sinh úy tử. Ngờ đâu, trước các phóng
viên quốc tế, ông Võ Đại Tôn tuyên bố
ông sẽ tiếp tục tranh đấu cho tự do
và giải phóng dân tộc.
Chắc chắn là ông Tôn thừa
biết hậu qủa của những lời ông vừa nói. Vâng,
ngày 13 tháng 7 năm 1982 tại Hà Nội, có thể
khẳng định là ông Võ Đại Tôn đã quyết
định tự sát. Tự sát để cho trọn ý nghĩa của kẻ tự
nhận làm viên gạch lót đường. Tự sát để
làm sáng cái lý tưởng của người chiến sĩ,
lên đường tranh đấu không vì công danh
phú quí cho bản thân. Tự sát để cái
viên gạch lót đường kia sẽ có hàng vạn
gót chân của người Việt yêu nuớc bước lên tham
gia cuộc đấu tranh diệt cộng. Tự sát để sớm có một
ngày những viên gạch tinh hoa của giòng giống Việt
Nam không chỉ dùng lót đường mà sẽ được dùng để xây dựng nên một
toà nhà Việt Nam nguy nga tráng lệ.
Chính hành động tự sát của
ông Võ Đại Tôn trong buổi họp báo ở Hà
Nội ngày 13 tháng 7, 1982 đã khiến ông trở
thành một Trần Bình Trọng của thời đại. Ông xứng
đáng được vinh tặng hai tiếng anh hùng.
Nhưng, tại sao ông Võ Đại
Tôn lại có quyết định băng suối bằng rừng trở về nước,
mong dấy lên một cuộc đấu tranh chống cộng trong thời điểm
mà nhiều người khác cho rằng chưa thuận lợi ?
Câu trả lời chung chung sẽ là :
Vì ông Võ Đại Tôn yêu nước.
Tôi nói chung chung là bởi
vì lòng yêu nước trong người Việt khó
có thể biết ai hơn ai. Tại hải ngoại có biết bao
nhiêu cựu quân cán chính Việt Nam cộng
hoà, sao chỉ có vài ba người như ông
Tôn lăn mình vào công cuộc phục quốc ?
Vài ba người đó chắc chắn là phải có
thêm một động lực mạnh mẽ nào khác.
Tôi được quen biết ông Võ
đại Tôn trên 40 năm hồi cùng làm việc ở Bộ
Thông tin, nhưng tôi vẫn phải đi tìm vì
tôi chưa được thấy điều mà tôi muốn biết. Mãi
đến khi đọc xong cuốn “Tuổi thơ và chiến tranh” hồi ký
của Võ Đại Tôn, thì tôi mới có lời
giải đáp.
Cuốn sách này có tựa
là “Tuổi thơ và chiến tranh” thì tuổi thơ
là tác giả lúc 10 tuổi, và chiến tranh
là lúc cộng sản nổi lên khống chế dân tộc
Việt Nam. Gia đình ông Tôn đang giàu
có bỗng một sớm một chiều cơm không có mà
ăn. Mẹ ông bị ho lao đã tới thời kỵ nặng nhưng không
thuốc thang điều trị, không bồi dưỡng, bị cô lập trong một
chòi lá ngoài vườn để tránh lây bệnh
cho gia đình. Là một người con muôn vàn
thương yêu mẹ, nên ông Tôn vẫn lẩn quẩn
bên mẹ, chăm sóc miếng ăn cho mẹ, ban đêm
không được nằm bên mẹ thì ông đứng trong
phòng ngủ của ông mà nhìn sang chòi
lá hiu hắt ánh đèn, nơi mà ông biết
mẹ ông cũng đang ngồi nhìn về phía đàn con...
Thế rồi, vì muốn chồng con thoát
cảnh tù túng đói khổ nên không
xá gì đang bị bệnh nặng, mẹ ông vẫn tình
nguyện vượt vòng phong tỏa của cộng sản những
mong
mở
ra
một
đường
sống
cho
chồng
con.
Chẳng may bà bị Việt cộng bắt và
Việt cộng chém bà bằng những nhát cuốc. Sau
đó Việt cộng đã chôn sống bà. Phải nhiều năm
sau, ông Tôn mới được sờ vào thân thể người mẹ
nhưng không phải là làn da mịn màng ấm
áp mà chỉ còn là những khúc xương
tàn bị chôn vùi ngoài đồng hoang cô
quạnh không một nén nhang, không một giọt nước mắt
của chồng con.
Theo tôi, chính nỗi căm thù
cộng sản giết mẹ từ tiềm thức này đã biến thành
hành động, đưa Võ Đại Tôn vào con đường
tranh đấu dù đó là một cuộc tranh đấu rất cô
đơn, mà những người cho là khôn ngoan sẽ
không làm.
Ngày xưa, trong lịch sử Việt Nam
có bà Trưng, đang là
khách má hồng bỗng phất cờ khởi nghĩa vì
thù quân Tầu đã giết chồng bà. Thư sinh Nguyễn Trãi vì thù
giặc bắt cha mà trở thành quân sư của Bình
Định Vương Lê Lợi.
Ngày nay, Võ đại Tôn từ hải
ngoại vượt rừng băng suối về quê hương mưu đồ phục quốc cũng
là do nợ nước cộng với mối thù cộng sản chôn sống
mẹ ông.
Thưa qúy vị,
Hai mươi năm trước, khi ông Võ Đại
Tôn được thả do áp lực của quốc tế, tôi đã tổ
chức tại nhà tôi buổi tiếp đón ông bà
lần đầu tiên trở lại nước Mỹ.
Với gần một trăm
người, gồm rất nhiều anh em thuộc các đoàn thể,
chính đảng khác nhau, mọi người lúc bấy giờ đều
hứng khởi với sự xuất hiện của ông Võ đại Tôn trong
cuộc trao đổi nhau về phương thức đấu
tranh. Và, điểm đầu tiên là nhiều vị đã
ân hận rằng khi ông Tôn “lên đường tranh đấu”,
bị tù không có ngày về, thì rất
ít ai ở Mỹ thăm hỏi và giúp đỡ về tinh thần
và vật chất cho bà Tôn ở
bên
Úc.
Cũng trong buổi đón tiếp ông
bà Võ Đại Tôn tại nhà tôi năm 1993,
một ý kiến được nhiều vị gật gù đồng ý là
cuộc đấu tranh chống cộng không phải là cuộc đi tìm
vàng để phải tranh giành
nhau. Các đoàn thể chống cộng nên coi nhau như một
bộ phận của cùng một cơ thể. Người này là mắt
thì người kia là mũi. Người này là tay
thì người kia là chân. Nếu
là
một
người
bình
thường
thì
tay
sẽ
không
chặt
chân, tay sẽ không đâm mù mắt. Mắt sẽ
không ích kỷ để mặc cho chân bước xuống hố. Bởi
vì những hành động hại nhau như thế đều là tự
sát.
Thế nhưng, sau đó tôi vẫn nghe
ông Võ đại Tôn than thở, dù than
thở bằng thơ : Anh không sợ kẻ thù trước mặt
mà sợ người chiến hữu sau lưng.
Đồng thời, tôi còn nhớ một số
ý kiến hôm đó là, cộng đồng chúng ta
phải lập ra một qũi gọi là qũi tranh đấu. Chúng ta
đã sẵn sàng gửi tiền về giúp một số nhà
dân chủ trong nước, nhưng những nhà đấu tranh ở hải ngoại
tại sao chúng ta không yểm trợ ? Cụ thể, với một người như
Võ Đại Tôn, tên tuổi ông được cả thế giới biết
đến, lý tưởng chống cộng của ông đã được thử
thách, tại sao chúng ta không giúp ông
giải quyết các nhu cầu cuộc sống, để ông có
toàn thời gian làm việc cho công cuộc đấu tranh
phục quốc ? Nếu ông phải đi
làm một công việc nào đó để mưu sinh
và nuôi vợ con thì thì giờ của ông sẽ
bị ràng buộc với công việc, như thế cuộc đấu tranh của
ông tất nhiên sẽ bị hạ xuống thành “part time” cuối
tuần. Tiếc rằng vì không
có qũi tranh đấu nên nhiều người dù rất nặng
lòng với quê hương cũng đành nhìn thời gian
trôi qua.
Thê thảm hơn, một số vị muốn đấu tranh
đã tự đi tìm nguồn tài trợ khác cho
mình thì chẳng những đã không được
thông cảm mà còn bị đánh phá rất trớ
trêu.
Mang chuyện cũ từ hai mươi năm trước ra
nói, chẳng qua là vì tôi rất quí
trọng và thương mến Võ Đại Tôn. Bây giờ
dù ông đã được vinh danh là anh hùng,
là liệt sĩ sống nhưng tôi biết, đó không phải
là giấc mộng của ông. Giấc
mộng của ông là được nhìn thấy quê hương
không còn màu cờ máu , không
còn cộng sản để tuổi thơ Việt Nam được sống hồn nhiên
trong sáng, để mọi người dân Việt được
sống
tự
do,
để
Việt
Nam
được
năm
châu
bốn biển nể phục..
Đó là lý do mà
ông Tôn thường quên rằng
tuổi ông đã thuộc loại cổ lai hy. Mỗi lần nghe tin
bên Úc đồng bào ta có cuộc biểu tình
chống cộng là tôi thấy
hình ảnh Võ Đại Tôn với lá cờ vàng ba
sọc đỏ đi đầu. Tháng trước, ngay khi vừa đặt chân đến Nam
Cali ông đã có mặt trong các buổi lễ tưởng
niệm Tháng Tư Đen. Ngoài ra, ông viết sách,
viết báo, làm thơ. Chữ của ông thay ông tiếp
tục làm viên gạch lót đường. Thơ của ông
là tiếng trống thúc đẩy anh em và đồng hương đừng
quên nhiệm vụ đối với tổ quốc.
Cố thi sĩ Nguyên Sa gọi Võ Đại
Tôn tức thi sĩ Hoàng Phong Linh thuộc trường phái
“thi ca ái quốc”. Thi sĩ Du Tử Lê viết rằng Võ Đại
Tôn là “tài hoa của đất nước” nên trong thơ
của ông mới có được những rung cảm đỉnh ngọn, có
nhịp đập của tổ quốc trong dòng máu Tiên Rồng.
Như thế thì, ông Võ Đại
Tôn đã đi vào lịch sử của đất nước bằng cửa chính. Và ông đang
cõng trên lưng một nhà
thơ tên là Hoàng Phong Linh bước vào lịch sừ
văn học Việt Nam. Tôi chúc
mừng sự thành công của ông.
Đỗ
Tiến Đức
Nguồn: http://www.banmeonline.org
BUỔI NÓI CHUYỆN TÂM
TÌNH CỦA CHIẾN SĨ ĐẤU TRANH BẤT KHUẤT VÕ ĐẠI TÔN
VÀ GIỚI THIỆU TẬP HỒI KÝ:
TUỔI THƠ & CHIẾN TRANH
TẠI
SACRAMENTO THÀNH CÔNG RỰC RỠ
Trần Văn tường
thuật
Chiều chủ nhật 16.05.10, tại phòng họp của cơ quan
Stockton Boulevard Partnership, số 5625 Stockton Blvd trang
hoàng uy nghi đẹp đẽ với cờ Việt Mỹ và những biểu ngữ
lớn, nội dung giới thiệu chiến sĩ đấu tranh Võ Đại Tôn với
đồng hương Sacramento và Stockton. Phòng họp quá
tải đủ sức chứa 150 người nay số người tham dự vượt xa, một kỷ lục mới
khi tổ chức Ra Mắt Sách tại thành phố Sacramento, người
Việt còn khiêm nhường hơn nhiều thành phố
khác của TB Cali như San Diego, Santa Ana. San Jose…
Dù tuổi cao sức yếu, nhưng chiến sĩ đấu tranh Võ
Đại Tôn vẫn còn bầu nhiệt huyết của người lính
chiến QLVNCH năm xưa, ông muốn quang phục lại quê hương
đang còn oằn oại dưới bàn tay sắt máu của kẻ
ác cộng sản VN. Bằng một giọng rạt rào tình cảm
khi nói về tình mẫu tử và giọng hùng hồn
đanh thép như truyền hịch khi là chiến sĩ đấu tranh
nói về cái ác của chế độ cộng sản và
kêu gọi những bậc thức giả, giới trẻ tiếp tục con đường đấu tranh
mà các chiến sĩ đàn anh của ông và
chính ông cũng còn đang dở dang, chưa hoàn
thành sứ mạng. Vì thế, cần phải có thế hệ tiếp nối
quyết tâm tranh đấu giựt sập chế độ công sản bạo tàn
để đưa quê hương Việt Nam đến cảnh thanh bình thịnh trị,
dân giàu nước mạnh…
Chiến sĩ đấu tranh Võ Đại Tôn luôn giữ
khí tiết bất khuất dù ông đang bị tù biệt
giam hơn 10 năm tại Hà Nội (BTC có chiếu 1 đoạn phim ngắn
khoảng 10 phút do đài TV Nhật quay được cuộc họp
báo lịch sử của ông Võ Đại Tôn tại Hà
Nội ngày 13 tháng 7 năm 1982 lên án chế độ
tàn bạo CSVN). Những lời tâm huyết của một “chiến sĩ
già” nhằm truyền lại con cháu noi theo gương hào
hùng của các bậc tiền bối, cha anh đi trước dù
chưa đạt nguyện ước quang phục lại quê hương. Ông nhấn
mạnh, thế hệ trẻ kế thừa – truyền thống hào hùng
dân tộc hãy tiếp tuc con đường đấu tranh cho một quê
hương Việt Nam ấm no hạnh phúc và không còn
chế độ cộng sản tàn ác sắt máu nữa. Đó
là Tâm Tình Của chiến sĩ Võ Đại Tôn
vào chiều chủ nhật trời quang đẹp đẽ và mát mẻ vừa
qua tại Sacramento sau khi ông Nguyễn Trung Cao, Kiến trúc
sư Nguyễn Hồng Hà, Giáo sư Lại Quốc Hùng lược
trình những điều mà quý vị đó biết về chiến
sĩ đấu tranh Võ Đại Tôn và cũng là
nhà văn nhà thơ Hoàng Phong Linh qua tác
phẩm mới nhất Tuổi Thơ & Chiến Tranh.
Buổi Tâm Tình và Giới Thiệu Tác
Phẩm mới nhất Tuổi Thơ & Chiến Tranh của nhà văn nhà
thơ Hoàng Phong Linh tức chiến sĩ đấu tranh không mệt
mõi Võ Đại Tôn quy tụ đông người tham dự chật
kín cả phòng họp và có nhiều vị phải đứng
suốt buổi tổ chức này để nghe diễn giả Võ Đại Tôn
với tuổi đời 75, hơn 10 năm trong trại tù biệt giam Thanh Liệt –
Hà Nội nói những lời tâm tình có chứa
lửa đấu tranh.
Với giọng rạt rào tình cảm của một người con
yêu thương mẹ với tất cả tấm lòng và ông cũng
yêu Mẹ Việt Nam với chân tình của một người
dân yêu nước. Chiến sĩ đấu tranh Võ Đại Tôn
đã cất tiếng thiết tha gọi Mẹ Việt Nam và hứa với Mẹ Việt
Nam: Mẹ Việt Nam Ơi! Chúng Con Vẫn Còn Đây (thơ của
Hoàng Phong Linh, nhạc của Nguyễn Ánh 9) được Ban Hợp Ca
của Hoàng Mộng Thu từ San Jose lên trình bày
làm cho phòng họp sôi động và khởi hứng.
Giới thiệu chiến sĩ đấu tranh Võ Đại Tôn
là ông Nguyễn Trung Cao từ Oakland lên để
chào mừng người anh 30 năm trước cùng với nhiều chiến hữu
cùng ý chí đi đó đây dọc ngang
tìm đường cứu nước và 30 năm sau anh Nguyễn Trung Cao gặp
lại người anh Võ Đại Tôn trước sau như một, vẫn với giọng
đanh thép quyết tâm phục vụ đất nước và truyền thừa
gương tranh đấu cho thế hệ mai sau. Phần giới thiệu tác giả tập
hồi ký Tuổi Thơ và Chiến Tranh, Kiến trúc sư
Nguyễn Hồng Hà tức là nhà thơ Nguyên Hạ đưa
chúng ta về nguồn cội và lai lịch của ông Võ
Đại Tôn, vốn sanh trưởng tại Quảng Nam-Đà Nẵng với những
năm tháng phục vụ trong QLVNCH, trong cơ quan công quyền
dân sự và sứ mạng đấu tranh chống chế độ toàn trị
cộng sản bằng chính trị và bằng văn học…
Kế đến, Giáo sư Lại Quốc Hùng đã long
trọng giới thiệu tập hồi ký của chiến sĩ đấu tranh Võ Đại
Tôn qua ngòi bút của một nhà văn, nhà
thơ Hoàng Phong Linh với những áng văn trác tuyệt
tả về tình mẫu tử. Khi ông Võ Đại Tôn
còn bé, 10 tuổi, đã chứng kiến cảnh chiến tranh
giết chốc tàn ác của Việt Minh Cộng Sản và
chính mẹ của cậu bé Võ Đại Tôn đã bị
Việt Minh giết bằng cách dùng cuốc đập vào xương
sống, dù chưa chết cả 3 chị em (2 ông chú của VĐT)
đều bị chôn sống chỉ vì bà mẹ của cậu bé
Võ Đại Tôn yêu thương con muốn đưa con về Đà
Nẵng để học hành nên người. Mãi 17 năm sau mới
tìm được mộ mẹ và 2 ông chú dưới 1 đụn
cát ở làng quê. Câu chuyện thương tâm
này, giáo sư Lại Quốc Hùng thuật lại làm
cho nhiều người phải rơi lệ.
Rất lâu lắm, tại Thủ Phủ Sacramento mới có được
chiều chủ nhật đông đảo chật kín cả hội trường người tham
dự một buổi tâm tình về cuộc đời đấu tranh gian khổ,
tù đày của một chiến sĩ bất khuất Võ Đại
Tôn. Đồng thời, giới thiệu 1 tập hồi ký mới đầy ắp kỷ niệm
Tuổi Thơ đối với người mẹ hết lòng yêu thương con phải bị
chết thảm và Chiến Tranh tàn bạo đã dày
xéo quê hương VN suốt hơn 30 năm đọa đày đói
khổ.
Thành phần tham dự có đông đủ các
hội đoàn, tổ chức chính trị, truyền thông
báo chí và đặc biệt có 1 số qúy vị
giáo sư đại học, trung học, nhà văn, nhà thơ, ca
nhạc sĩ và đủ thành phần, khuynh hướng, đại diện cho
nhiều thế hệ từ cao niên đến trung niên và hậu duệ
còn rất trẻ. Đây là buổi tổ chức cho người từ
phương xa Úc Châu nói chuyện tâm tình
với đồng hương và Ra Mắt Sách thành công lớn
của Ban Tổ Chức liên thành phố Sacramento và
Stockton với quý ông Nguyễn Hữu Hiến, ông Phạm
Hoàng Trung – Stockton và nhà báo Trần Văn
Ngà – Sacramento.
Người viết có nhận xét là phần giải
đáp thắc mắc đứng đắn của nhạc sĩ Phiêu Bồng nêu
lên cũng là dự luận chung đồn đoán của một số người
trước đây hay hiện nay vẫn còn tiếp tục bôi lọ
đánh phá chiến sĩ đấu tranh Võ Đại Tôn
là “Võ Đại Bịp” vì chống cộng “cuội”…Qua tâm
tình từ đáy lòng của một chiến binh già
suốt đời dấn thân đấu tranh cho công lý và tự
do tại quê nhà, ông đã trải qua bao gian lao
tù đày và may mắn không chết thảm ở trong
nước. Chế độ lao tù của CSVN vốn là tàn bạo
và khắc nghiệt đứng vào hàng đầu của thế giới.
Điều quan trọng nữa, chúng còn có quyết tâm
trả thù, triệt hạ chiến sĩ Võ Đại Tôn trong lao
tù nghiệt ngã gần 100 lần tra tấn dã man. Nhưng,
với ý chí bất khuất và sự linh hiển của Mẹ
ông và hồn thiêng sông núi đã
che chở phù trợ ông thoát qua bao cảnh hiểm
nghèo nhất, dở sống dở chết. Chỉ vì ông dám
mượn cơ hội bằng vàng trong buổi họp báo quốc tế tại
Hà Nội ngày 17 tháng 3 năm 1982 mà
các nhà lãnh đạo chóp bu thuộc giới
lãnh đạo Bộ Chính Trị CSVN đạo diễn, dàn dựng
nhiều tháng để có cuộc họp báo quốc tế lịch sử
này.
Đến phần phát biểu của ông, ông nói
vòng vo 1 chút rồi đi thẳng vào vấn đề, ông
nhận tội vì tội yêu nước chống lại chế độ độc tài
bạo ngược của cộng sản. Thế là buổi họp báo quốc tế chấm
dứt ngang và bị bịt miệng, còng tay đưa vào khu
biệt giam của trại tù Thanh Liệt ở Hà Nội suốt 10 năm,
nhưng ông không chết mới là chuyện lạ. Vì
vậy, mới thành chuyện khó tin nhưng có thật xảy ra
ở Việt Nam năm 1982 . Nhờ sự can thiệp mạnh mẽ và triệt để của
thế giới nên ông không bị chết thảm trong tù
và sau cùng CSVN tống xuất ông trở lại Úc
Châu . Đó là thành quả của những sự can
thiệp nhiệt tình , tích cực của nhiều tổ chức nhân
quyền, nhân đạo quốc tế và nhiều chính phủ
yêu chuộng tự do dân chủ mà ông vô
cùng trân trọng biết ơn.
Khi được trở ra lại hải ngoại, chiến sĩ đấu tranh bất khuất
Võ Đại Tôn chẳng may bị những người bạn cùng chiến
tuyến chống cộng suy diễn từ không ra có qua bàn
tay phù thuỷ tuyên truyền của cộng sản đánh
phá, mạ lỵ không thương tiếc. Thay vì vinh danh
người bạn chiến sĩ đấu tranh bất khuất Võ Đại Tôn
mà phe ta có 1 số người hay tổ chức lại triệt hạ phe
mình một cách nhẫn tâm.
Nhân cơ hội này chiến sĩ đấu tranh Võ Đại
Tôn khẳng định lý do ông trở về nước qua đường
Thái Lan, Cao Miên và Lào để xâm nhập
vào vùng Pleiku chỉ có mục đích liên
lạc với LM Nguyễn Văn Vàng. Chẳng may, toán võ
trang 25 chiến sĩ kháng chiến của Tướng Lào Vang Pao theo
bảo vệ nổ súng vì một chuyện ngộ nhận với toán
làm đường của Lào. Bị lộ diện , bị bao vây
và sau cùng ông và 1 chiến hữu bị bắt, 1
chiến hữu khác hy sinh tại chỗ, còn 25 anh em
kháng chiến Lào tìm đường tẩu thoát
không biết chết sống ra sao?. Chiến sĩ đấu tranh Võ Đại
Tôn nhấn mạnh với tuổi đời của ông , cộng với sự
giáo dục nhân bản, dân tộc và khai
phóng của chế độ VNCH. Hơn nữa, ông còn được trui
rèn qua sự huấn luyện chiến đấu chống cộng sản của quân
đội cùng với những kinh nghiệm phục vụ trong Quân Đội hay
trong chính quyền mà ông “ngu xuẫn“ đến độ chỉ đi
theo có 2 chiến hữu nữa mà ông liều lĩnh “điếc
không sợ súng”dấn thân đấu tranh trực diện với một
tập đoàn hùng hậu nhứt về lực lượng quân sự,
chính trị cộng sản của 3 nước Đông Dương Việt Miên
Lào. Lúc này là thời điểm cực thịnh của
chúng (năm 1981). Toán xâm nhập của ông chỉ
nhằm mục đích liên lạc, bắt đầu cầu với Linh mục Nguyễn
Văn Vàng tại Cao Nguyên Trung Phần và sẽ trở ra lại
hải ngoại. Lúc bấy giờ LM Nguyễn Văn Vàng là trong
những lãnh tụ phục quốc có tiếng tăm nhất trong nước
và hải ngoại.
Nhân cơ hội sang Hoa Kỳ lần này, đánh dấu
sau 35 năm quốc nạn từ khi CSBV chiếm trọn miền Nam để ông
có dịp giải bày hết tâm tư tình cảm
và ông quyết ký thác, truyền thừa những kinh
nghiệm đấu tranh không ngơi nghỉ của ông trong suốt lộ
trình tìm con đường tốt nhất giải phóng quê
hương đến thế hệ trẻ kế thừa. Chiến sĩ Võ Đại Tôn tin rằng
giới trẻ Việt Nam với sự thông minh và phương tiện sẵn
có sẽ làm nên lịch sử mà cha ông,
đàn anh của chúng chưa hoàn thành sứ mạng.
Chiến sĩ đấu tranh bất khuất còn nhấn mạnh, ông và
2 chiến hữu can trường của ông từ hải ngoại xâm nhập
vào VNCS đầu tiên.
Người viết xin mở dấu ngoặc và đóng dấu ngoặc
một chút hiểu biết của mình: Đến năm 1984, tổ chức phục
quốc của các ông Lê Quốc Túy-Trần Văn
Bá-Mai Văn Hạnh…xâm nhập vào Việt Nam với quyết
tâm kháng chiến lật đổ chế độ bạo quyền cộng sản bằng lực
lượng chính trị, võ trang kháng chiến trường kỳ
và có sự nội ứng ở trong nước của các tổ chức
kháng chiến chống cộng như các tín hữu Cao
Đài, Hòa Hảo…Chẳng may, tổ chức của anh Trần Văn
Bá bị phản gián cộng sản cài vào và
những lãnh tụ của tổ chức quy mô này đều bị bắt
và hầu hết bị xử tử hình. Ba năm sau đó, như
là có sự trùng hợp ngẫu nhiên và
thiên định, cứ 3 năm tái diễn một cuộc xâm nhập VN,
từ năm 1981 của ông Võ Đại Tôn, 3 năm sau , 1984 của
anh Trần Văn Bá, nhưng đều thất bại. 3 năm sau đó nữa,
năm 1987, cũng thất bại lại là sự thất bại nặng nề hơn với nhiều
chiến sĩ kháng chiến hy sinh hơn và cộng sản BV đã
đánh gục ý chí xâm nhập đấu tranh bằng vũ
lực của những người Việt quốc gia yêu nước ở hải ngoại muốn sớm
lật đổ chế độc độc đảng, tàn bạo của CSBV. Xin nhắc lại, năm
1987, tổ chức kháng chiến của Phó Đề Đốc Hoàng Cơ
Minh với nhiều người nhiều toán trang bị vũ trang đầy đủ,
xâm nhập từ Thái Lan vào đến đất Lào an
toàn và trên đường từ Lào về Cao
Nguyên Việt Nam cũng sa vào cạm bẫy của CSBV và qua
một cuộc tử chiến với quân thù CSBV, tướng Hoàng Cơ
Minh đã anh dũng hy sinh tại chiến địa và những chiến sĩ
còn sống sót cũng bị bắt tù đày và
nhiều chiến sĩ anh hùng đó đã bỏ mình trong
lao tù nghiệt ngã của CSBV.
Buổi nói chuyện tâm tình của chiến sĩ đấu
tranh bất khuất Võ Đại Tôn và ra mắt tập hồi
ký: Tuổi Thơ & Chiến Tranh thành công và
thành công lớn tại Thủ Phủ Sacramento./.
Trần
Văn
Nguồn:
http://nguoivietboston.com
Trang mạng Việt Nam Văn Hiến
Trang Võ Đại Tôn
www.vietnamvanhien.net
email: thuky@vietnamvanhien.net
Trang
mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi bảo tồn di sản văn hóa của
Việt tộc
và phục hồi nền An Lạc
& Tự Chủ.
|