Việt
Nam Văn Hiến
|
Trang
Người Việt Ưu Tú
Trang
mạng
Việt
Nam
Văn
Hiến
sưu
tầm và phổ biến những tấm gương ưu
tú cuả ngươì Việt Nam sống trên trái đất,
những tấm gương ưu tú nầy thể hiện được đức tính cuả một
dân tộc Văn Hiến: Cần cù, nhẫn nại, thông minh,
trong
sáng, thanh cao,
năng động, hiền hoà và nhân ái.
Mong mõi nhận được thêm những đóng góp xa gần cuả quý vị để trang Ngươì Việt Ưu Tú bừng sáng thêm nét đẹp Văn Hiến, vẽ vang thêm dân tộc trong niềm tin rực sáng mãi cuả dòng sinh mệnh Việt trước những cơn thử thách về dân chủ, nhân quyền và đất tổ, cũng như trước bước tiến cuả nhân loại trong thế kỷ 50 trong Việt lịch. |
Mục Lục 2- Lê Văn Hiếu 3- Dương Nguyệt Ánh 4- Phạm Ngọc Quỳ 5- Lê Thị Huỳnh Trang 6- Lương Xuân Việt 7- Cao Quang Ánh 8- Lê Bá Hùng 9- Võ Bá Ngữ (trang 2) 10- Phillip Roesler (trang 2) 11- Trịnh Xuân Thuận (trang2) 12- Võ Phi Sơn (trang2) 13- Trịnh Hữu Châu Eugene (trang2) |
Khi
ông
gia
nhập
Quân
Đội
Quốc
Gia Việt Nam, thì Việt
Nam Cộng Hòa mới phôi thai, chưa có binh chủng
Không Quân. Trong cái thử thách may mắn
đó thì không gian, vũ trụ đã chọn lựa
ông bởi duyên số ngay bước đầu. Tại sao không
là Bộ Binh hay Hải Quân, tại sao không là một
giáo chức dạy toán chuyên nghiệp hay một một y sĩ,
một dược sĩ như ông có dạo xin học, hay là
nhà văn sống với văn chương chuyên nghiệp, để rồi phần số
đã lựa chọn ông vào nghiệp bay, rồi dần dà
đưa ông tới gần gũi hơn với vũ trụ bao la trong những
nghiên cứu đóng góp cho cơ quan NASA, với lý
thuyết toán học không gian chằng chịt những chuỗi phương
trình vi phân, với lý thuyết điều khiển tối ưu
những phi thuyền không gian trong các chuyến bay giữa
vùng ranh giới quỹ đạo không gian và bầu khí
quyển,... Ông đã được mời thuyết trình về phương
pháp thay đổi qũy đạo cho các nhà Toán Học
Không Gian tại CNES (Centre National d'Etudes Spatiales)
là Trung Tâm Quốc Gia Nghiên Cứu Không Gian
của Pháp. Ông viết các sách giáo khoa
về toán học và kỹ thuật không gian như: sách
lý thuyết bay ngoài bầu khí quyển, và
sách lý thuyết bay của phi cơ siêu thanh. Ông
viết: “Về môn học Điều Khiển Tối Ưu (Optimal Control), mục
đích là người ta tìm ra những phương thức để điều
khiển tất cả những hệ thống nào đang di động và
phát triển, sao cho đạt được kết quả tốt đẹp nhất, và
hiện nay đang được áp dụng không những ở môn cơ học
mà sang cả những ngành khác như xã hội học
và kinh tế. Riêng trong môn cơ học (Mechanics),
áp dụng cho những phi thuyền không gian và những vệ
tinh nhân tạo, các nhà toán học phải
tìm ra những đường bay để làm sao cho phi thuyền
có thể tới những hành tinh muốn thám sát
mà ít tốn kém nhiên liệu nhất. Muốn đạt được
kết quả này, khi giải bài tính, nhà
toán học phải tận dụng những lực thiên nhiên như
những trọng trường của các hành tinh để tạo ra những hấp
lực làm tăng tốc độ các phi thuyền khi bay ngang qua,
và khi đã tới hành tinh muốn thám
sát, phải biết dùng sức cản cuả bầu khí quyển để
hãm tốc độ cho phi thuyền được bắt vào quỹ đạo chung
quanh hành tinh và trở thành một vệ tinh nhỏ của
hành tinh này. Tất cả những bộ môn này, bắt
nguồn từ môn cơ học thiên thể đã có từ hơn
hai trăm năm để tính những chuyển động của các
hành tinh, lớn và nhỏ trong thái dương hệ,
các vệ tinh quay chung quanh các hành tinh,
và các sao chổi, nay dùng để tính qũy đạo
của các phi thuyền không gian và các vệ tinh
nhân tạo, cộng thêm những phương pháp thay đổi qũy
đạo, điều khiển tối ưu, tất cả hợp thành môn gọi là
Toán Học Không Gian.’’
Ông
viết
về
kỹ
thuật
phóng
vệ
tinh nhân tạo do sức đẩy của hỏa
tiễn mà người Pháp ứng dụng trong chương trình
Ariane 5. Hỏa tiễn Ariane 5 trên thực tế là một công
trình của Pháp, nhưng theo chính danh thì
hoả tiễn lớn nhất thế giới này là kết quả cuả một sự hợp
tác giữa những nước Âu châu chung góp
thành European Space Agency, viết tắt là ESA để có
thể đứng ngang hàng với NASA của Hoa Kỳ. Trên thế giới
hiện nay có 5 nước có hoả tiễn đủ mạnh để phóng
những vệ tinh truyền tin vào vị thế bất di động đối với
trái đất. Đó là những nước Hoa Kỳ, Nga,
Pháp, Trung Hoa và Nhật Bản.
Là
một
giáo
sư
đã
từng
được
Đại Học Michigan tặng cả hai
giải thưởng xuất sắc về khảo cứu và xuất sắc về giáo dục,
ông đã viết nhiều bài khoa học không gian phổ
thông bằng tiếng Việt với mục đích khuyến khích
giới trẻ trau dồi tiếng mẹ đẻ. Theo ông thì lý
thuyết của môn động lực học (Dynamics) cho biết những vệ tinh ở
những quỹ đạo tròn chung quanh trái đất có chu kỳ
nhỏ khi ở dưới thấp và càng ở xa chu kỳ càng lớn
dần. Lãy tỉ dụ là không có bầu khí
quyển gây ra sức cản thì một vệ tinh bay sát mặt
đất, dùng làm đơn vị quy chiếu, sẽ có chu kỳ được
tính ra là To = 84.488964 phút = 1 giờ 24
phút 29 giây. Đó là thời gian để vệ tinh bay
trọn một vòng trái cầu. Ở cao độ lớn hơn thì vận
tốc quay chậm lại và chu kỳ để quay trọn một vòng sẽ lớn
dần lên. Theo định luật thứ ba của nhà thiên văn học
Kepler (1571-1630) thì bình phương của chu kỳ tỷ lệ với
lập phương cuả bán kính quỹ đạo. Viết thành
công thức toán học thì ta có:
(
T/
To
)2
=
(
r
/ ro )3 (1)
T
=
chu
kỳ
quỹ
đạo
trên
cao,
To
=
84.488964
phút
r
=
bán
kính
quỹ
đạo
cao
ro
=
bán
kính
trái
đất
=
6378.135 km
Muốn
giữ
cho
vệ
tinh
truyền
tin
ở một vị trí cố định đối với
trái đất để dễ dàng nhận và phóng
tín hiệu thì vệ tinh phải quay cùng với
trái đất nghĩa là phải có chu kỳ là T = 24
giờ = 24x60 phút. Như vậy thì tỷ số chu kỳ của vệ tinh cố
định so với vệ tinh quy chiếu là T /To = 17.0436. Áp dụng
định luật Kepler để tính thì tỷ số hai bán
kính quỹ đạo sẽ là r / ro = 6.6228. Tính trung
bình, bán kính trái đất là 6378.135
km. Cao độ của vệ tinh cố định sẽ bằng 5.6228 lần trị số này
nghĩa là vệ tinh sẽ ở vị trí lơ lửng trên cao
cách mặt đất 35,863 km. Muốn đưa những vệ tinh truyền tin hiện
nay nặng chừng 3 tấn tới 3 tấn rưỡi lên tới cao độ này
và còn đủ vận tốc để đi vào quỹ đạo thì
phải có hoả tiễn nặng tầm vóc như ở trên
hình cuả 5 cường quốc đang tranh nhau trên trường thương
mại phóng hỏa tiễn.
Nói
tới
tên
tuổi
của
GS.
Nguyễn
Xuân Vinh không thể bỏ
qua môn toán học được. Ông có nhiều
bài viết về các chủ đề vui đời toán học và
các danh nhân toán học như: Joseph-Louis Lagrange,
Isaac Newton, Johannes Kepler, Tycho de Brahé, Nicolas
Bourbaki,... Ông viết bài Tình Toán Học cho
thấy sự đam mê toán học như người tình. Ông
có những thao thức về văn thơ liên hệ đến toán học,
hay văn thơ diễn giải nỗi mê say toán học. Thật vậy,
toán học đem lợi ích lại cho con người từ phạm vi vũ trụ
học, thiên văn học, điện toán,... đều dựa vào
toán học để tính toán, phân tích,
hoặc giải thích.
Trong
bài
"Toán
Học
Không
Gian",
ông
nói đến
trong khoa toán học có môn Động Lực Học,
nghiên cứu những chuyển động của các vật thể và
môn này được đặt nền tảng trên một định luật của
nhà bác học người Anh là Sir Isaac Newton
(1642-1727), theo một công thức thật dản dị viết là:
m
a
=
F
Nền
tảng
của
môn
học
này
được
đặt trên nguyên
lý thứ hai của Newton, anh em chúng tôi còn
nhớ là các học sinh lớp 12 tại miền Nam trước năm 1975
đều va chạm trong môn vật lý học và định đề Newton
trên có nghĩa là tích số của trọng khối m
và vec-tơ gia tốc a thì bằng lực tác dụng F. Chỉ
căn cứ vào một công thức giản dị đó mà
mà các nhà toán học đã cấu tạo
thành môn cơ học đồ sộ giúp cho ta tính được
những chuyển động của các vật thể nhân tạo hay thiên
nhiên, không những ở trên mặt đất, mà
còn ở trên mặt biển hay dưới đáy khơi, trên
không trung và cả ra ngoài vũ trụ. Với những vật
thiên nhiên hay nhân tạo, chuyển động trong
thái dương hệ, chẳng hạn như các hành tinh, lớn
hay nhỏ, hay các vệ tinh nhân tạo và phi thuyền
không gian, thì lực tác động là tổng hợp của
các hấp lực của mặt trời và các hành tinh.
Những hấp lực này lại theo một định luật vạn vật hấp dẫn của
nhà toán học Newton tìm ra là hai vật thể
nào trong thiên nhiên, được coi như là hai
trọng điểm, cũng hút nhau theo tỷ lệ thuận với trọng khối
và tỷ lệ nghịch với bình phương của khoảng cách
giữa chúng với nhau. Bắt đầu từ thế kỷ 18, các nhà
toán học và thiên văn học Tây phương
đã dựa lên những định luật này, và những
tiến triển của môn giải tích học, đặc biệt là những
phương pháp giải những phương trình vi phân để
xây dựng nên môn Cơ Học Thiên Thể (Celestial
Mechanics). Sang đầu thế kỷ 20, nhà toán học ngưòi
Pháp là ông Henri Poincaré đã
làm cho môn cơ học này thành một
ngành quan trọng của toán học với những kết quả khảo cứu
thật tân kỳ của ông. Trong bộ môn mà
chúng ta thường gọi là Thiên Văn Học, có
những chuyên gia nghiên cứu về vật lý thiên
thể, nghiã là tìm hiểu về sự cấu tạo của
các hành tinh, các ngôi sao, và
các thiên hà. Những vị này thường có
căn bản về vật lý, hoá học và khoáng chất.
Một trong những người nổi tiếng nhất là nhà bác
học chuyên khoa về vật lý thiên thể gốc Ấn độ
và là giáo sư tại Đại Học Chicago tên
là Subrahmanyan Chandrasekhar (1910-1995). Ông đã
có những đóng góp quan trọng chuyên
ngành nên đã được giải Nobel về vật lý
vào năm 1983 và được lấy tên Chandra để đặt cho
kính viễn vọng mới được NASA phóng lên không
gian vào tháng Bảy năm 1999 để tìm hiểu thêm
về sự cấu tạo các thiên hà. Qũy đạo của kính
viễn vọng Chandra có hình el-lip. Những chuyên gia
tính qũy đạo thuộc nhóm nghiên cứu sự chuyển động
của các hành tinh, và các vệ tinh quay
chung quanh các hành tinh, và sự quay của
các vệ tinh và các hành tinh chung quanh
trục. Những người này là những nhà toán
học. Nếu mục đích của môn Cơ Học Thiên Thể là
để tính những sự chuyển động của các vật thể thiên
nhiên trong Thái Dương Hệ như các hành tinh
chính và các vệ tinh quay chung quanh những
hành tinh này, cùng sự chuyển động của những
hành tinh nhỏ và các sao chổi thì mục
đích này coi như là đã đạt được hoàn
toàn trong thế kỷ 20... Vào năm 1957 khi vệ tinh sputnik
là vệ tinh nhân tạo đầu tiên được phóng
vào qũy đạo thì môn cơ học thiên thể lại
thành sống động và trở thành Cơ Học Không
Gian (Spatial Mechanics) là danh từ chung để chỉ sự nghiên
cứu chuyển động của các vật thể thiên nhiên hay
nhân tạo bay trong không gian."
Trong
một
bài
viết
khác
"Học
Toán
Để Làm
Gì ?", ông đề cập về nhà bác học Albert
Einstein:
"Nhà
bác
học
vĩ
đại
của
thế
kỷ 20 là Albert Einstein đã
công bố "lý thuyết tương đối đặc biệt" của ông
vào năm 1905, và đặt ra một cơ sở để mở ra chân
trời tươi sáng cho vật lý học hiện đại. Sau đó, từ
vài giả thuyết ban đầu và dùng phương pháp
tư duy toán học chặt chẽ ông đã đi đến kết luận
rằng khi ánh sáng đi qua một thiên thể nào
đó thì do sức hút của thiên thể, tia
sáng sẽ bị bẻ cong đi. Ông viết một công
trình nhan đề "Về ảnh hưởng của trọng trường đối với tia
sáng" và công bố "lý thuyết tương đối tổng
quát" vào năm 1915. Nhưng muốn kiểm nghiệm bằng thực tế,
ta phải dùng tia sáng đến từ các vì sao
và sức hút của mặt trời là một thiên thể lớn
có trọng lượng lớn hơn của trái đất 300 ngàn lần.
Nhưng vì mặt trời lúc nào cũng sáng
chói lọi nên thường ngày ta không thể
nào quan sát những tia sáng các vì
sao mà chạy qua gần mặt trời xem có bị bẻ cong đi hay
không. Bốn năm sau, vào ngày 29 tháng 5 năm
1919, có nhật thực toàn phần và mặt trời bị mặt
trăng hoàn toàn che khuất. Lúc đó người ta
có thể quan sát những vì sao ở phía sau mặt
trời, giờ đã trở nên tối đen. Hội khoa học Hoàng
gia Anh quốc đã cử hai phái đoàn, một phái
đoàn đi Brazil ở Nam Mỹ để quan sát và một
phái đoàn thứ hai gồm nhiều khoa học gia dưới sự hướng
dẫn của nhà thiên văn học Eddington đã tới đảo
Principe ở Tây Phi châu để đo độ lệch khi đi qua mặt trời
của các tia sáng đến từ các vì sao. Kết quả
đo được là tia sáng đã bị lệch đi 0.0005 độ tức
là gần đúng với kết quả đã được tính trước
bằng toán của Einstein là 1.75 giây = 0.000486 độ."
GS.
Nguyễn
Xuân
Vinh
có
nhiều
tài
năng trong nhiều
lãnh vực khác nhau, những khả năng thiên phú
mà không có bao nhiêu người có được
như ông. Từ phạm vi không quân lái phi cơ sang
toán học, kỹ thuật không gian, rồi văn chương, ông
quán xuyến thật thành công. Trong một cuộc phỏng
vấn của báo chí, ông đã tâm sự:
"Tôi
nhớ
có
lần
đã
phát
biểu
là một ngày
mặc áo lính, suốt đời là một chiến binh. Cũng như
tôi đã mắc vào nghiệp giáo và nghiệp
văn, suốt đời tôi mang nặng những nghiệp này vào
thân".
Ông
là
người
hầu
như
hết
lòng
trung thành với những
ngành mà ông theo như quân đội, giáo
dục hay văn chương. Khởi đầu ông trúng tuyển kỳ thi
vào học trường Võ Bị ở Salon de Provence. Ông kể về
kỷ niệm ở École de l’Air là Trường Võ Bị
Không Quân Pháp:
"Tổ
chức
ở
Truờng
Không
Quân
thì
Chỉ huy trưởng
là một thiếu tướng, và dưới có mấy ông đại
tá coi các khối chuyên môn như quân sự,
kỹ thuật, phi hành ... vân vân. Chỉ huy phó
là đại tá Marchelidon; ông là anh
hùng có chiến công kỳ Đệ nhị Thế chiến vừa qua.
Có lần phi cơ bị bắn rơi, ông phải nhẩy dù
và bị thương, nay chân đi khập khễnh, nhưng vẫn là
một phi công tài giỏi. Một lần gặp tôi ở sân
bay, ông kéo tôi lên ngồi ghế sau của phi cơ
Sipa 12 là ghế của huấn luyện viên. Hình như tuần
nào ông cũng phải bay nhào lộn vài giờ mới
đỡ cơn nghiền, và theo kinh nghiệm thì có
thêm trọng lượng đặt ở ghế sau, phi cơ được cân bằng hơn
khi làm loop và Immelmann. Vì thể diện quốc gia,
tôi cố gắng để không nôn mửa. Từ đó thỉnh
thoảng tôi lại được ông lái xe Citroen tới tận lớp
học đón đi bay cùng. Mỗi lần đi như thế, đại tá
Marchelidon lại để cho tôi chừng mười lăm phút tập luyện.
Vì ngồi ở ghế sau, không nhìn thấy mũi phi cơ
mà chỉ thấy đôi cánh trên đường chân
trời, nên thường thì tôi chỉ bắt chước ông
làm thêm vài cái loop vì theo
tôi đó là kiểu bay dễ hơn cả. Từ Salon de Provence,
trên đường đi tới Arles là một thành phố cổ, nổi
tiếng vì còn có một đấu trường xây từ thời
La Mã, có một đoạn đường dài và thẳng tắp
hướng theo trục Đông-Tây, dùng làm trục bay
nhào lộn rất thuận tiện. Trong thời gian ở Trường Không
Quân Pháp, tôi đã có chừng vài
chục giờ bay Sipa 12 trên không phận trục đại lộ đó.
Nhiều năm sau, khi dậy học và làm khảo cứu ở Hoa Kỳ,
tôi có viết mấy cuốn sách và có cuốn
"Optimal Trajectories in Atmospheric Flight", do nhà xuất bản
Elsevier Scientific Publications ở Hoà Lan ấn hành, trong
đó có một chương nói về "aerobatic maneuvers"
tôi đã nhận định rằng rất khó lòng mà
có thể bay theo một vòng tròn đúng nghĩa
của nó trong mặt phẳng đứng thẳng vì lẽ tốc độ có
chiều hướng giảm đi trong phần bay lên, và ngược lại sẽ
tăng mau chóng trong phần bay xuống. Trong những giờ bay say men
không gian trên bầu trời Provence, có lẽ tôi
đã vẽ thành những hình chữ "eee" liên tiếp
trong khi tôi tưởng là đã vạch những vòng
cung tuyệt mỹ như sau này tôi thường tả trong cuốn "Đời
Phi Công" đã lôi cuốn nhiều thanh niên ưu
tú gia nhập Không Quân.
Theo
tài
liệu
của
trang
Bách
khoa
toàn thư Wikipedia
thì Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh, hiệu Toàn
Phong, sinh tháng 1 năm 1930, là giáo sư danh dự
ngành kỹ thuật không gian (professor emeritus of aerospace
engineering) của Đại học Michigan ở Hoa Kỳ. Ông ra đời tại
Yên Bái, Việt Nam.
Ông
là
nhà
toán
học,
nhà
khoa
học không
gian xuất sắc của Hoa Kỳ đồng thời cũng là cựu tư lệnh
Không quân Việt Nam Cộng hòa và là
nhà văn với bút hiệu Toàn Phong.
Từ
khi
còn
nhỏ
ông
đã
tỏ
ra là một người
có năng khiếu toán học và tham gia viết
sách từ rất sớm; trong thời gian còn là học sinh,
ông đã cho xuất bản cuốn sách giáo khoa
Bài tập Hình học Không gian. Cuốn sách
này đã trở thành tài liệu tham khảo
và học vấn quan trọng thời bấy giờ.
Năm
1951
ông
nhập
ngũ
theo
lệnh
động viên và tham gia
khóa I Trường Sĩ quan Trừ bị Nam Định và Thủ Đức.
1952-1955
theo
học
tại
Học
viện
Không
quân ở Salon-de-Provence,
Pháp (École de l'Air) và sau đó lưu
trú tại Pháp và Maroc. Trong thời gian này
ông đồng thời lấy bằng cử nhân toán ở Đại học
Marseille.
1957
được
bổ
nhiệm
chức
vụ
Tham
mưu trưởng Không lực Việt Nam Cộng
Hoà.
Tháng
2
năm
1958
được
giao
chức
Tư lệnh Không quân.
Năm
1962,
rời
bỏ
chức
vụ
Tư
lệnh để đi du học ở Hoa Kỳ.
Năm
1965,
là
người
đầu
tiên
được
cấp bằng tiến sĩ về khoa học
không gian tại Đại học Colorado.
Năm
1968,
làm
giảng
sư
(associate
professor)
tại Đại học Michigan.
Năm
1972,
được
phong
chức
giáo
sư
(professor) của viện đại học
này.
Cũng
trong
năm
1972
trở
thành
tiến
sĩ quốc gia toán học tại
Đại học Sorbonne, Paris, Pháp.
Năm
1982,
là
giáo
sư
(chair
professor)
của ngành
toán ứng dụng tại Đại học Quốc gia Thanh Hoa (National Tsing Hua
University) ở Đài Loan.
Năm
1984,
là
người
Hoa
Kỳ
thứ
ba và là người Á
châu đầu tiên được bầu vào Viện Hàn lâm
Quốc gia Hàng không và Không gian Pháp
(Académie Nationale de l'Air et de l'Espace).
Năm
1986
là
viện
sĩ
chính
thức
của Viện Hàn lâm
Không gian Quốc tế (International Academy of Astronautics).
Năm
1998,
khi
về
hưu,
được
Hội
đồng Nhiếp Chính (Board of Regents)
tại Đại học Michigan phong tặng chức Giáo sư danh dự vì
công lao đóng góp cho khoa học và
giáo dục.
Trong
nhiều
năm
ông
đã
được
tham
gia thuyết trình thỉnh
giảng tại rất nhiều đại học lớn cũng như hội nghị quốc tế khắp nơi
trên thế giới bao gồm Mỹ, Canada, Anh, Pháp, Áo,
Đức, Ý, Hoà Lan, Thụy Sĩ, Na Uy, Thụy Điển, Hungary,
Israel, Nhật, Trung Quốc, Đài Loan và Úc.
Ông
được
những
giải
thưởng
tuyên
dương
như:
1994:
"Mechanics
and
Control
of
Flight"
của
American Institute of Aeronautics
and Astronautics.
1996:
"Excellence
2000
Award"
của
Pan
Asian
American Chamber of Commerce
2006:
"Giải
thưởng
Dirk
Brouwer"
về
Cơ
học Du hành Không gian
của American Astronautical Society.
Ông
hiện
là
cố
vấn
của
Hội
Khuyến Học ở Saint Louis, Missouri, đề ra
giải thưởng hàng năm tên là giải thưởng là
"Truyền thống Nguyễn Xuân Vinh" để khuyến khích học sinh
xuất sắc tốt nghiệp Trung học tiếp tục nền học vấn và phục vụ
cộng đồng.
Về
lãnh
vực
khoa
học,
ông
đã
viết hàng trăm
tiểu luận về toán học, động lực học không gian
(Astrodynamics) và tối ưu hóa quỹ đạo (Trajectory
Optimization). Các sách viết bao gồm:
Hypersonic
and
Planetary
Entry
Flight
Mechanics.
1980.
Vinh, N. X.; Busemann, A.;
Culp, R. D. University of Michigan Press.
Optimal
Trajectories
in
Atmospheric
Flight
1981.
Vinh
N. X. , Studies in
Astronautics 2, Elsevier Scientific Publishing Company, Amsterdam.
Flight
Mechanics
of
High-Performance
Aircraft.
1993.
Nguyen
X. Vinh. Cambridge
Aerospace Series. ISBN: 052134123X
Về
văn
chương
ông
viết
các
tác
phẩm:
Gương
Danh
Tướng,
1956.
Đời
Phi
Công,
1959.
Truyện
dài,
Giải
thưởng Văn chương
Toàn quốc năm 1961 (Việt Nam Cộng Hoà)
Theo
Ánh
Tinh
Cầu,
1991.
Truyện
ký
sự.
Nói
đến
GS.
Nguyễn
Xuân
Vinh
không
thể không nói
đến tác phẩm Đời Phi Công. Tác phẩm là một
tập truyện gồm 14 bức thư, nhân vật nam trong truyện là
một thanh niên được gửi xuất dương du học ngành phi
công, người đọc có cảm nhận nhân vật chính
này là tác giả Toàn Phong Nguyễn Xuân
Vinh. Nhân vật nữ là người tác giả thương mến, sinh
viên đại học, nàng tên Phượng, họ quen nhau, nhưng
lại ít gần nhau; ngoại trừ qua những lá thư thăm hỏi, để
kể cho nàng nghe những sinh hoạt của chàng vui đời phi
công đi mây về gió. Chính tác phẩm
này đã tạo ra nhiều giấc mơ đẹp đầy tình tứ,
lãng mạn cho thanh niên chọn ngành phi hành
làm lẽ sống, nhiều thiếu nữ ấp ủ giấc mộng yêu người
tình phi công như Phượng.
Có
một
người
bạn
thân
của
chúng
tôi cắc cớ hỏi về sự
khác biệt nào giữa hai ông phi công Antoine
de Saint-Exupéry và Toàn Phong Nguyễn Xuân
Vinh hay không, thì thiển nghĩ của anh em chúng
tôi là hai ông đều là nhà văn, vừa lại
là hoa tiêu, vừa viết chuyện về sinh hoạt lái
máy bay, nhưng hai ngưòi ở hai thế hệ khác nhau.
Cả hai giống nhau là học lái phi cơ tại Pháp. Đến
đây thì hết sự trùng hợp vì một người viết
tiếng Pháp, một người viết tiếng Việt và tâm
tình trong truyện và văn phong của họ khác nhau.
Nhà
văn
Nguyễn
Xuân
Vinh
sáng
tác
"Ðời Phi
Công" vào năm 1959, nhà văn Saint Exupéry
viết các tác phẩm dính dấp đến lái
máy bay như:
-
L'Aviateur
(1926)
-
Vol
de
Nuit
(1931)
-
Pilote
de
Guerre
(1942)
-
Le
Petit
Prince
(1943)
Thời
gian
và
không
gian
của
những
cốt truyện khác nhau.
Mục đích hay hậu ý nhắn gửi của hai ông trong
các tác phẩm cũng khác nhau, mỗi cuốn sách
có những điều hay riêng. Ví dụ Toàn Phong
chú trọng vào khích lệ thanh niên Việt Nam
gia nhập phi công vì nhu cầu quốc gia. Ông
nói nhiều về tình yêu Tổ quốc và Không
gian, những từ này về sau được dùng làm tinh cầu
dẫn lộ cho Không Quân Việt Nam có thời đứng
vào hàng thứ tư trên thế giới. Khi người
Pháp rút khỏi Việt Nam, Không quân Việt Nam
mới chớm phôi thai, cần nhiều phi công lái
máy bay. Ngay khi người Pháp lui binh thì Hoa Kỳ
dấn thân vào giúp miền Nam, ông là
người giữ trọng trách hiện đại hóa Không quân
Việt Nam Cộng Hòa bằng loạt phi cơ AD-6, tức Skyraider do
Douglas Aircraft sản xuất cho Hải quân Mỹ, sau đó chuyển
giao và huấn luyện hoa tiêu Không quân Việt
Nam. Trong khi Saint Exupéry viết về những kinh nghiệm
lái máy bay ra đời từ thuở kỹ thuật còn non
kém đầu những năm 1920, ông phải tự bương chải rút
lấy kinh nghiệm lèo lái phi cơ. Không quân
Pháp được thành lập năm 1918, tình hình
chính trị thuở ban đầu ấy vẫn tranh luận về nhu cầu không
quân cho nước Pháp, khiến Saint Exupéry không
có ý định gia nhập Không quân. Saint
Exupéry thuở ban sơ theo ngành lái phi cơ
vì ý thích mạo hiểm, phiêu du trên
mây trời, sau vì cuộc sống ông lái vận tải cơ
giao hàng và thư tín. Thực ra tác giả
này được biết nhiều nhất qua truyện Hoàng Tử Bé.
Le Petit Prince là một tác phẩm rất thành
công của ông, nội dung nói về một phi công
phải hạ cánh khẩn cấp xuống sa mạc hoang vu. Anh ta gặp một cậu
bé, người đã hóa ra là một hoàng tử
từ hành tinh khác đến. Hoàng tử kể về những cuộc
phiêu lưu của em trên Trái Đất và về
bông hồng quí giá trên hành tinh của
em. Sách được dịch ra 160 ngôn ngữ khác nhau.
Những
tác
phẩm
khác
chung
qui
liên
hệ đến lái
máy bay như cuốn Người Phi Công (L'Aviateur) và Bay
Đêm (Vol de Nuit) mà nội dung nói về những chuyến
bay vận tải chuyển vận thư tín, người phi công đương đầu
với thời tiết, thiên nhiên, và kỹ thuật bay. Cuốn
Phi Công Thời Chiến (Pilote de Guerre) kể lại những chuyến bay
tuyệt vọng của ông trên không phận bị địch quân
phong tỏa, khi nước Pháp đã thực sự bị thất trận.
Vì sau khi nước Pháp chính thức đầu hàng
nước Đức ngày 25 tháng 6, năm 1940, Saint-Exupéry
mới quyết định gia nhập Không quân, thực hiện hàng
loạt phi vụ chiến đấu, mặc dù ông bị xem như là
không đủ khả năng lái máy bay chiến đấu do những
chấn thương vì tai nạn rớt máy bay trước đây. Cuối
cùng ông cũng đã mất vì rơi máy bay.
Về
nhà
văn
Toàn
Phong,
cũng
cần
nói thêm
là một trong những chương sách trong Đời Phi Công
đã được ông dịch ra Anh ngữ và đăng trên
Empire Magazine là tuần báo ra ngày Chủ Nhật của
Nhật báo Denver Post, với đề là “ The Eagle’s Wings’’.
Bài báo này cũng được họa sĩ Patrick Oliphant
trong toà soạn minh hoạ. Ông Oliphant là người
đã được giãi Pulitzer về biếm họa chính trị năm
1966 và vì cảm mến những bài viết của giáo
sư Vinh đã đăng trước đây trên báo Denver
Post mà ông đã phóng bút vẽ
hình chàng phi công Toàn Phong đang ngồi
viết thư tình. Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh cũng
không xa lạ gì với nền văn học Pháp. Khi còn
là sinh viên Võ bị Không Quân ông
đã sống nhiều năm trên đất Pháp, là tiến sĩ
quốc gia Toán học Đại học Paris, từng chấm thi tiến sĩ và
giảng dậy tại SupAéro ở Toulouse và nhất là
đã là viện sĩ trong Hàn Lâm Viện Quốc Gia
Hàng Không và Không Gian Pháp Quốc
trong đó ông có nhiều bạn đồng viện là những
nhà văn nổi tiếng như Pierre Clostermann, Michel Debré,
Albert Ducrocq, ... là những người đã đọc tiểu sử
và những sáng tác khoa học và văn chương
của ông, và bỏ phiếu bầu cho ông. Để kết luận, ta
có thể nói là một phần nào không
những giáo sư Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh đã
cho người ngoại quốc biết đến công trình đóng
góp của ông vào Khoa Học Không Gian nhưng
cũng đã giới thiệu văn học Việt Nam ra nước người.
Viết
về
GS.
Nguyễn
Xuân
Vinh,
anh
em chúng tôi viết
hoài không hết chuyện. Chúng ta hãy trở lại
tình quê hương của ông, hãy xét xem
như thế nào nhé! Văn chương của ông thắm đượm
tình yêu quê hương dạt dào chứ nhỉ? Theo lệ
thường thì càng xa xứ bao lâu có lẽ
tình sầu nhớ nhung cố hương càng nhiều bấy nhiêu.
Anh em chúng tôi đồng thuận trong ý tưởng là
Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh đã mang lại cho dân
tộc Việt Nam một niềm tự hào, một niềm hãnh diện,
vì ông là một nhân tài xuất thân
từ xứ sở Việt Nam đã góp công sức, trí tuệ
cho sự tiến bộ chung của nhân loại. Vâng, ông
là một người thành công trong cuộc đời. Trong lời
tâm tình riêng tư chia sẻ của ông về quê
hương và cuộc đời như sau:
Nguồn: http://vandandongtam.net
Australian Broadcasting Broadcast: 08/08/2007 Tonight South Australia has a new Head of State
after Olympic golden girl Marjorie Jackson-Nelson ended six years as
Governor. Her replacement, Kevin Scarce, has a very different
background to the "Lithgow flash". He's a Vietnam veteran which makes
the choice of his deputy a particularly inspired one. Hieu Van Le,
who
arrived in Australia in 1977 as one of the first Vietnamese boat
people, has overcome poverty and hardship to become a highly respected
business and community leader. Nguồn: abc.net.au
|
Bà Dương Nguyệt
Ánh, đứng đầu một toán khoa học gia Mỹ, đã
phát minh một loại chất nổ mới dùng trong việc chế tạo ra
loại bom 'áp nhiệt' có khả năng diệt các hầm ngầm
hay hang động sâu trong lòng núi mà
quân đội Hoa Kỳ sử dụng trong cuộc chiến Afghanistan.
Bà Ánh cho biết từ lúc mới còn là khái niệm, toán khoa học gia dưới sự điều động của bà đã hoàn thành bom thermobaric tạm dịch là bom 'áp nhiệt' trong một thời gian kỷ lục là 67 ngày. Khi được Xuân Hồng hỏi là võ khí tạo ra hòa bình hay chỉ tạo ra chiến tranh, bà Dương Nguyệt Ánh nói : "Chiến tranh hay hòa bình là quyết định của con người, còn võ khí chỉ là phương tiện như trăm ngàn phương tiện khác mà thôi". Bà Ánh nói tiếp: "Nếu bảo rằng không nên chế tạo hoặc phát triển võ khí, thì chẳng khác nào bảo rằng một quốc gia ưa chuộng hòa bình không cần có quân đội". Bà Dương Nguyệt Ánh đã được chính phủ Hoa Kỳ trao tặng huy chuơng ' National Security Medal' hồi năm 2007 vì công trình phát minh ra loại chất nổ mới này. Dân chủ Trên cương vị một công dân Mỹ gốc Việt, bà Ánh cho biết bà quân tâm đến các diễn biến trong xã hội của của nước mẹ đẻ và nước đã cho bà và gia đình "cơ hội thứ nhì để lập lại cuộc sống. Bà tự nhủ phải đóng góp phần nhỏ bé của mình vào sự phồn vinh và bình an của quê hương mới và để tạo điều kiện cho thế hệ con cháu cũng sẽ được sống tự do và hạnh phúc như mình, do đó, bà "rất quan tâm về tệ nạn khủng bố hiện nay". Trên cương vị một người Mỹ gốc Việt, bà Ánh cho biết : "Lúc nào cũng quan tâm tới 85 triệu người đồng hương đang sống dưới sự thống trị của đảng Cộng Sản Việt Nam, không có tự do, nhân quyền" Bà hy vọng "Chính quyền Việt Nam đặt quyền lợi của dân tộc lên trên quyền lợi của cá nhân, của đảng để cho Việt Nam được tiến bộ và phú cường" Nhìn vào Việt Nam, bà Ánh nói : "Điều tôi lo nhất là hiểm họa mất nước trước ý đồ rất rõ ràng của Trung Quốc muốn xăm lăng Việt Nam" Cao trào dân chủ khắp thế giới, theo bà Ánh là " Một điều đáng mừng vì sẽ ảnh hưởng đến suy nghĩ của giới trẻ Việt Nam giúp cho họ tự hỏi là tại sao quê hương vẫn không giàu, khôg mạnh, không tiến bộ như những nước láng giềng". Bà Ánh nói rằng " Một ngày nào đó, giới trẻ Việt Nam sẽ đứng lên đòi hỏi dân chủ và đẩy mạnh tiến trình dân chủ hóa cho Việt Nam. Kinh nghiệm Bà Ánh nói : "Không có sự thành công nào mà không có sự giúp đỡ của người khác, do đó, nếu mình thành công, thì mình phải nhớ ơn những người đã giúp đỡ mình, và cách nhớ ơn hay nhất là mình phải giúp đỡ những người đi sau mình". Bà Ánh nói tiếp: "Khả năng sáng tạo có thể được thi thố trong bất cứ môi trường nào, không cứ phải là văn chương, mà khoa học kỹ thuật cũng là môi trường để phát huy khả năng sáng tạo". "Trong trường hợp của tôi, nghiên cứu khoa học kỹ thuật là sáng tạo vì tôi đã áp dụng các nguyên tắc khoa học để sáng tạo ra môt cái gì mới" "Không phải học giỏi là yếu tố duy nhất đưa đến thành công, vì 20% là óc, 60% là mồ hôi còn lại là trái tim ". Bà Ánh khẳng định "tài phải đi đôi với đức mới đưa đến thành công". Dương Nguyệt Ánh rời Việt Nam hồi năm 1975, khi còn là một nữ sinh 15 tuổi mới học lớp 9 trường Lê Quý Đôn, Sàigòn, để cùng gia đình sang tỵ nạn tại Hoa Kỳ, với số vốn tiếng Anh chỉ có ' vỏn vẹn 50 từ '. Bà đã nghe theo lời thân phụ để theo học khoa học, mặc dù ôm giấc mộng theo văn chương từ tấm bé. Bà Ánh tốt
nghiệp trường đại học Maryland với hai bằng B.S. về hóa học
và khoa học điện toán. Đến năm 1983, bà bắt đầu
làm kỹ sư hóa học tại trung tâm nghiên cứu
võ khí diện địa thuộc Hải quân Hoa Kỳ. Nguồn:
http://www.bbc.co.uk/vietnamese
Bà Dương Nguyệt Ánh (ảnh cuả BBC) Khoa học gia Dương Nguyệt Ánh được vinh danh và huy chương “Phục Vụ Quốc Gia” (Giải Sammies Service to America Medals) Tuyết Mai và Trịnh Quốc Thiên, Sep 24, 2007
Giọt Nước Mắt… Vì Niềm Kiêu Hãnh: Người Việt NamBùi
Bảo Trúc
Tôi là người thù dai. Thù dai có cái xấu và có cái tốt. Tôi nghĩ thù dai cũng có điểm tốt. Thù dai để không quên những chuyện xấu người khác làm cho mình. Không thù dai thì làm sao Nguyễn Trãi nằm gai nếm mật suốt mười năm để trả thù nhà, để đền nợ xã tắc, giang sơn? Thù từ năm 1975 đến nay thì có dai thật Năm 1975, với đợt tị nạn đầu tiên đến Mỹ, tờ Newsweek đăng một bài viết của Shana Alexander về những người Việt được đưa sang Mỹ tị nạn. Người đàn bà này lo ngại là những người Việt Nam tị nạn chưa biết sử dụng cái máy giặt, cái máy sấy, không biết Michael Angelo là ai, thì làm sao sống được ở Mỹ. Ðó là những câu nhục mạ những người Việt quá nặng. Nhưng chuyện không biết dùng cái máy giặt thì cũng dễ hiểu. Kìa, như thái tử Naruhito của hoàng gia Nhật, mãi đến khi sang học tại Merton College ở Oxford, ông hoàng tử này mới biết dùng cái máy giặt để khoe nhắng lên. Vậy thì dùng cái máy giặt không phải là chuyện đáng kiêu hãnh. Không biết dùng cái máy giặt thì cũng không phải là điều xấu xa gì như bài báo ngu xuẩn của Shana Alexander đã úp mở. Từ đó, năm nào, cứ đến tháng Tư là tôi lại nhớ đến bài báo của Shana Alexander, và cứ nghĩ đến những câu nhục mạ ấy là lại run người lên vì giận. Nhưng người Pháp vẫn nói là trả thù cũng như thức ăn nguội, ăn lạnh mới ngon. Shana Alexander nghỉ viết từ lâu, không biết đang ở đâu để rảnh rang kiếm nàng, mời nàng đi đến thăm vài ba đại học Mỹ, ghé lại Little Saigon chơi cho bỏ những ngày cơ cực và để cho nàng thấy tận mắt những người nàng khinh bỉ ấy đã sống như thế nào. Ðó là cách trả thù vậy. Nhưng chưa bao giờ tôi thấy hả dạ được như cuối tuần qua, khi nhận được tờ Newsweek, tờ báo 32 năm trước từng đăng bài báo của Shana Alexander, tôi đọc được bài viết của George Will trong mục The Last Word ở trang 84 số báo NewsWeek đề ngày 17 tháng 12 năm 2007. George Will dùng nguyên một trang để nói về đóng góp của một người Việt Nam , một phụ nữ Việt, một trong những người Việt lếch thếch kéo nhau sang Mỹ và bị Shaan Alexander đem ra nhục mạ trong bài báo. Tôi có thể nói là chưa bao giờ tôi đọc được một bài báo viết về một người khác như George Will đã viết. Nếu bài báo ấy do một cây bút Việt Nam viết thì người đọc cũng dễ dàng coi đó là chuyện hai con mèo khen nhau có những cái đuôi dài. Nhưng bài viết này là của George Will một trong những cây bút bình luận chính trị bảo thủ, lỗi lạc nhất của báo chí Mỹ, thì nó là một bài báo giá trị. Mười lần Shana Alexander cũng không thể bác được điều đó. Bài báo của George Will viết về Dương Nguyệt Ánh, mẹ đẻ ra một loại bom mói tên là Thermobaric. Chương trình nghiên cứu được hạn cho ba năm để hoàn thành, nhưng chỉ sau 67 ngày, bà Ánh đã thành công , chế ra được loại bom mới để dùng cho mặt trận Afghanistan. Loại bom mới này công hiệu hơn tất cả các loại bom khác của thế giới. Bom ném vào hang đá ở Afghanistan không công phá ngay như các loại bom cũ, mà sức nóng và sức nổ của bom ở lại lâu, tiến sâu vào các hang hốc khiến khả năng công phá và hủy diệt của bom hơn hẳn mọi loại võ khí khác. Nước Mỹ đã phải cám ơn bà Dương Nguyệt Ánh về loại võ khi mới này. Tờ Washington Post mới đây có viết một bài khá dài về bà Ánh nhân dịp bà được trao tặng một huy chương về những thành quả và đóng góp của bà cho nước Mỹ. George Will kể lại cảnh bà tiến ra trước máy vi âm, không đọc một bài viết sẵn, mà ứng khẩu trước một cử tọa rất đông đảo smoking, nơ đen trang trọng. Bà Dương Nguyệt Ánh nói rằng 32 năm trước, bà tới nước Mỹ với tư cách một người tị nạn, hai bàn tay trắng và một túi hành trang đầy những ước mơ tan nát. Nhưng nước Mỹ, với bà, là một thiên đàng, không phải vì vẻ đẹp và tài nguyên phong phú, mà vì người dân Mỹ vị tha, rộng lượng đã giúp gia đình của bà khi mới tới Nước Mỹ và giúp hàn gắn những thương tích trong tâm hồn, đem lại lòng tin vào con người và cảm hứng cho công việc của bà. Bà muốn tặng lại danh dự của tấm huân chương bà nhận được cho 58 ngàn người Mỹ đã tử trận tại Việt Nam và hơn 260 ngàn chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh để cho những người như bà có được cơ hội sống trong tự do. Bà xin Thượng đế ban phúc cho những người sẵn sàng chết cho tự do, và nhất là những người sẵn sàng chết cho tự do của những người khác. Bà cám ơn nước Mỹ. George Will kết bài viết của ông bằng mấy câu này: Cám ơn Dương Nguyệt Ánh. Xin cô hiểu là cô đã trả món nợ mà cô nói cô nợ của nước Mỹ, cô đã hoàn trả đầy đủ, không thiếu một chút nào. Cô đã trả hết món nợ đó, và luôn cả tiền lời nữa. Tiền lời, là đóng góp rất lớn của Dương Nguyệt Ánh cho tự do và an ninh của nước Mỹ, quốc gia đã mở cửa đón gia đình của bà. Shana Alexander ở đâu, có đọc bài báo này chưa ? Bùi Bảo Trúc Nguồn : Saigon Echo |
Ở khu vực biển phía Bắc của Canada có rất nhiều dầu. Nơi đây được gọi là Hibernia. Trong nhiều năm, chính phủ Canada đã cố gắng tìm rất nhiều tổ hợp quốc tế chuyên xây cất dàn khoan dầu trên thế giới để mong sao đặt được một dàn khoan dầu tại đây.
Thế nhưng, không một ai có thể xây được dàn khoan nào cả vì hễ cứ xây xong thì bị băng tuyết tàn phá. Trước sự tiến bộ khoa học vượt bực của nhân loại, chính phủ Canada vẫn không nản lòng và quyết định kêu gọi đấu thầu.
Cuối cùng, tổ hợp NODECO gồm hãng Doris
của Pháp và nhiều hãng xây cất của Anh,
Canada họp lại trong đó, Doris là đứng đầu, đã
được chọn. Dự án của Doris đưa ra để tham dự đấu thầu do một kỹ
sư người Việt sáng chế và sau này trở thành
công trình xây dựng dàn khoan dầu vĩ đại nhất
thế giới.
Ông cụ xây nhà cửa thành ra tôi thỉnh thoảng cũng giúp ông cụ tính toán. Tôi tới Pháp du học, tôi thích làm việc trong môi trường tự do, tranh đua, ở các nước tiên tiến, thành ra tôi may mắn khám phá ra nhiều phương thức xây cất không có trong sách vở
Kỹ sư Phạm Ngọc Quỳ
Tác giả đề án xây dựng dàn khoan dầu vĩ đại Hibernia là kỹ sư Phạm Ngọc Quỳ. Ông hiện đang sinh sống tại vùng ngoại ô Paris. Sinh năm 1935 tại Hà Nội, thân sinh ông làm nghề thầu khoán. Có lẽ vì ảnh hưởng của cha nên ngay từ khi còn nhỏ, ông đã rất thích thú việc xây cất nhà cửa. Ông kể lại;
Ông cụ xây nhà cửa thành ra tôi thỉnh thoảng cũng giúp ông cụ tính toán. Tôi tới Pháp du học, tôi thích làm việc trong môi trường tự do, tranh đua, ở các nước tiên tiến, thành ra tôi may mắn khám phá ra nhiều phương thức xây cất không có trong sách vở cho nhiều công trình to lớn như Platform Hibernia tại Canada , hay làm Chief engineer cho những công trình xây cất nổi tiếng khác như Mở Hải cảng Condamine ở Monaco (Extension du Port de Monaco), Hai cây cầu trên sông Rhone (Détournements de Vienne), xây tường bảo vệ dàn khoan dầu ở Norway (Ekofisk protective Barrier) v..v..nhiều công trình lắm.
Với tài năng và niềm say mê,
tìm tòi học hỏi không ngừng, kỹ sư Qùy
đã thành công và nổi tiếng với nhiều
công trình xây cất lớn trên thế giới.
Chính vì thế, ông được hãng Doris, một
công ty chuyên xây cất dàn khoan dầu nổi tiếng
rất trọng dụng.
Khi chính phủ Canada mở cụôc đấu thầu
tìm tổ hợp quốc tế có khả năng xây dàn khoan
tại Hibernia, công ty Doris lập tức giao trách nhiệm cho
kỹ sư Qùy thành lập phần chính xây cất của
dự án để tham dự đấu thầu. Tuy thật vinh dự nhưng cũng
không kém phần lo lắng vì chuyện xây dựng
dàn khoan làm thế nào để chống lại sự tàn
phá hàng giờ của băng tuyết, bão tố, sóng
lớn tại vùng biển phía Bắc của Canada không phải
là dễ dàng. Sau hơn 3 tháng nghiên cứu,
tìm hiểu và với kinh nghiệm sẵn có, kỹ sư Quỳ
đã sáng chế ra được giải pháp chống băng tuyết rất
mới lạ. Ông kể lại:
Theo sách Guiness, nơi có dầu đó ở địa thế khó khăn nhất thê giới, biển sâu 80m, sóng to 30m, thường có bão lớn, sương mù dầy đặc, nhiệt độ cực lạnh và nhất là có nhiều băng tuyết rất lớn (Icebergs) đi qua.
Lúc đó
có cuộc thi quốc tế, hãng cử tôi làm design,
làm dự án để đấu thầu. Chuyện là
thế này, ở bờ biển phía Đông của Canada có
rất nhiều dầu, nhưng nơi đây có rất nhiều băng tuyết đi
qua, thành ra việc xây platform (dàn khoan
dầu) để lấy dầu thì quả là một vấn đề nan
giải. Theo sách Guiness, nơi có dầu ở địa thế khó
khăn nhất thê giới, biển sâu 80m, sóng to 30m,
thường có bão lớn, sương mù dầy đặc, nhiệt độ cực
lạnh và nhất là có nhiều băng tuyết rất lớn
(Icebergs) đi qua.
Tuy biết là khó khăn như thế nhưng chính phủ Canada muốn khai thác dầu thành ra đi tìm những tổ hợp trên thế giới để xây dựng dàn khoan dầu ở Hibernia. Hibernia khác với các Platform thường thấy trên thế giới, là phải design làm sao không những chống với bão, với sóng to mà còn có thể chống với sức đập của băng tuyết (Icebergs) vì nó chạy nhanh vô cùng, tới 2m một giây và và nặng tới 2 triệu tấn. Nó đụng vô cái gì là tan vỡ đến đấy.
Thực vậy, nếu như xây dựng
xong dàn khoan dầu mà không chịu nổi sự va chạm của
băng tuyết, chẳng may bị đổ thì dầu sẽ đổ ra biển, sẽ mang lại
tai họa cho khắp biển Bắc Mỹ. Chính vì thế, kỹ sư
Qùy quyết định xây cất vỏ ngoài của dàn
khoan là hình tròn với 16 múi gọi là
dents để làm giảm đi rất nhiều sức tàn phá của
băng tuyết. Ông cho hay:
Hibernia khác với các Platform thường thấy trên thế giới, là phải design làm sao không những chống với bão, với sóng to mà còn có thể chống với sức đập của băng tuyết (Icebergs) vì nó chạy nhanh vô cùng, tới 2m một giây và và nặng tới 2 triệu tấn. Nó đụng vô cái gì là tan vỡ đến đấy.
Làm công trình rất lớn ở ngoài biển, tôi làm cái “ răng” đưa lên, làm hình tròn, trong đó có 16 cái hình tam giác để lúc băng tuyết đập phải thì cái sức nó yếu hơn, vẫn không ăn thua gì, như tôi đã nói là dàn khoan ở Hibernia phải là 7.83 tức là 78o tấn trên một mét vuông, diện tích là phải 200 đến 300 mét vuông. Sức mạnh tất cả là phải đến 150 ngàn tấn, phải tính làm sao để chịu đựng được, đó là cái khó khăn và đó chỉ là cái vỏ ngoài của platform (dàn khoan dầu). Nếu không có cái răng mà chỉ làm tròn như các platform khác thì sức đập sẽ lên đến 1/3. Tuy vậy cũng rất khó khăn vì sức đập quá lớn, thành ra phải làm các bức tường phía sau để nó giữ các răng cho thật chắc để có thể chịu đựng hoàn toàn hết cho plat form (dàn khoan dầu) nếu không thì vỡ ngay.
Sau khi trúng thầu, tổ hợp NODECO qua hãng Doris đã giao cho kỹ sư Quỳ trực tiếp điều khiển trên dưới 100 kỹ sư giỏi và 300 hoạ viên thực hiện chi tiết kỹ thuật quan trọng. Vì công việc qúa lớn nên một phần nhỏ không quan trọng lắm thì đựơc giao cho 50 kỹ sư khác phụ trách. Theo lời kỹ sư Quỳ cho biết thì công trình này được xây dựng trong 6 năm, từ năm 1990 đến năm 1996 thì hoàn tất, tổng số nhân viên kỹ thuật và xây cất Hiberia là 5000 người. Theo lời ông cho hay, vì dàn khoan Hibernia ở giữa biển xâu và hiểm trở, nên việc xây cất công trình này được thực hiện rất đặc biệt. Trước hết, họ phải kiếm một ven biển gần, đào sâu độ 20m rồi làm đập ngăn nuớc, sau đó rút nước ra để có môt công trường bằng phẳng trên cạn. Tại đây, bắt đầu xây đáy dàn khoan với tường vỏ bê tông cao 30m bao quanh.
Hãng Doris đã giao cho kỹ sư Quỳ trực tiếp điều khiển trên dưới 100 kỹ sư giỏi và 300 hoạ viên thực hiện chi tiết kỹ thuật quan trọng. Vì công việc qúa lớn nên một phần nhỏ không quan trọng lắm thì đựơc giao cho 50 kỹ sư khác phụ trách và tổng số nhân viên kỹ thuật và xây cất Hiberia là 5000 người. .
Khi hoàn tất đáy dàn khoan xong thì phá đập cho nước vào để phần đáy nổi lên, rồi sau đó kéo ra biển sâu gần đó để xây tiếp phần tường ngoài và nhiều phần khác cho đến khi tạm đủ, để có thể lắp phần trên của dàn khoan vào. Phần trên của dàn khoan được làm bằng sắt, và đươc đặt xây sẵn từng phần tại nhiều nước trên thế giới như Canada, Korea, Italy…Các phần này, sau khi hoàn thành sẽ được kéo tới bờ biển gần công trường, rồi đựơc đặt lên tàu để mang ra chỗ xây cất. Sau khi gắn phần trên vào, dàn khoan vẫn trống ở giữa và vẫn nổi. Tới lúc này thì bắt đầu kéo dàn khoan ra vị trí ngoài biển có dầu, cho nước vào để dàn khoan chìm xuống, nằm trên đáy biển đã được san bằng. Sau đó, mới bơm đầy xi măng lỏng vào giữa đáy của dàn khoan và đáy biển để giữ dàn khoan nằm cố định vĩnh viễn tại vị trí lựa chọn. Sở dĩ phải làm như thề vì dàn khoan sẽ có sức nặng và cứng cáp đủ để chống băng tuyết cũng như sẽ không bị hư hại nếu có đông đất tại đáy biển. Cách xây cất và chuyển vận này được gọi là Marines Operations.
Thực là một công trình vĩ đại mà theo báo Times lúc bấy giờ đã cho là một trong 8 công trình lớn nhất thế giới.
Thưa qúi vị, trở lại với kỹ sư Phạm Ngọc Quỳ, nhân đây, khi hỏi thăm ông về ngành xây dựng với giới trẻ tại Pháp hiện nay, ông cho biết:
Không nhiều lắm vì lương bổng không nhiều lắm nên họ chọn những ngành khác . Tôi học trường Ponts et Chaussées , thỉnh thoảng tôi có tham dự các cụôc hội họp của cựu sinh viên và các sinh viên ra trường. Cái số người càng ngày càng ít đi. Ngày xưa, mỗi một năm trường có 5 sinh viên trẻ theo học, bây giờ chỉ còn 2 hay 3 mà thôi.
Ngành xây cất Việt Nam rất kém, vì xây rất ít và nhiều công trình nhỏ mà xây còn bị đổ vỡ. Lúc tôi vào Sàigòn chơi, có một anh kỹ sư công chánh, mời tôi đi xem một cái cầu xây xong mà bị lún, tôi có giúp anh một chút.
Được biết, kỹ sư Quỳ cũng đã dịp về Việt Nam thăm thân nhân nhiều lần, khi hỏi về ngành xây dựng tại Việt Nam, ông phát biểu:
Ngành xây cất Việt
Nam rất kém, vì xây rất ít và nhiều
công trình nhỏ mà xây còn bị đổ vỡ.
Lúc tôi vào Sàigòn chơi, có
một anh kỹ sư công chánh, mời tôi đi xem một
cái cầu xây xong mà bị lún, tôi
có giúp anh một chút. Việt Nam vấn đề xây
cất kém lắm. Nhà xây nhỏ, ít công
trình, tôi không thấy công trình
nào lớn cả.
Tôi về Hà Nội, rất ít nhà cao tầng, nhà cổ hết. Thỉnh thoảng tôi đến Bangkok chơi, nhà cao tầng kín mít hết. Trong khi đó, Việt Nam mình có lơ thơ, tôi không hiểu tại sao Việt Nam mình xây ít như vậy. Vân đề là dân cần có nhà để ở, nếu xây nhà thấp thì được rất ít người . Xây nhà 20 tầng thì cái số người để ở được nhiều hơn. Đó là vấn đề mà Việt Nam cần phải giải quyết.
Riêng đối với các chuyên viên, kỹ sư xây dựng, ông có nhận xét rằng:
Theo ý tôi
thì Việt Nam xây ít nên kỹ sư ở Việt Nam
không có kinh nghiệm. Mọi sự đều khó ở lúc
đầu. Nếu mình không xây thì làm sao
có kinh nghiệm. Ở Việt Nam chỉ học sách vở mà
không thực hành, nhất là xây cất, mình
phải học và hành, chứ mình chỉ học không
thôi, không thực hành thì ít lâu
sau quên hết. Học sách vở là một chuyện, lúc
xây cất mới thấy hoàn toàn khác. Nhiều chi
tiết mà học sách vở không nói. Rất
khó để mà tìm được người giỏi ở Việt Nam, cần phải
ra ngoại quốc, có kinh nghiệm nhiều về xây cất mới được.
Ngoài kỹ sư ra, thợ thuyền phải biềt xây, tất cả
cái nọ nối cái kia, mình phải làm từ từ,
nhất là băt đầu xây cất.
Theo ý tôi thì Việt Nam xây ít nên kỹ sư ở Việt Nam không có kinh nghiệm. Mọi sự đều khó ở lúc đầu. Nếu mình không xây thì làm sao có kinh nghiệm. Ở Việt Nam chỉ học sách vở mà không thực hành, nhất là xây cất, mình phải học và hành, chứ mình chỉ học không thôi
Có thể nhờ một hãng ngoại quốc, học hỏi của họ, bắt chước làm theo. Muốn làm việc gì thành công thì phải có người chịu trách nhiệm. Tất cả các hãng tôi làm, muốn làm công chuyện gì , phải có một người chịu trách nhiệm, và người đó chịu trách nhiệm hết cả và người đó phải có quyền định những ai làm việc nọ việc kia và kiểm soát tất cả mọi sự.
Vấn đề khó khăn là ở Việt Nam sinh viên rất nhiều, nhưng giáo sư dậy phải có kinh nghiệm, chứ nếu mà chỉ có sách vở thôi thì không đúng. Việt Nam mình xây cất ít, giáo sư không có kinh nghiệm thì học trò còn ít kinh nghiệm hơn,vậy thì mình làm sao xây cất đựơc. Cho nên tiềm năng là phải học có cái hành, chứ học không thì khó khăn lắm,. Người Việt Nam rất chăm chỉ, chịu khó học, nhưng vấn đề là không có cơ hội để học và phát triển thêm.
Quí vị vừa nghe một số thông tin về kỹ sư Phạm Ngọc Qùy, tác giả công trình xay cất dàn khoan dầu Hibernia lớn nhất thế giới tại vùng biển phía Bắc Canada. Mục Đời Sống Người Việt Khăp Nơi xin ngừng nơi đây. Hẹn gặp quí vị vào kỳ sau.
California State University của Fullerton ở Nam California đang lập chương trình cử nhân bốn năm có tên Vietnamese Language And Culture, Việt Học, và những lớp Việt ngữ cấp đại học đang được xúc tiến trong giai đoạn này.
Qua hai năm thông báo tuyển dụng với nhiều đơn nhận được từ ngoài này cũng như trong nước, người sau cùng hội đủ tiêu chuẩn và đáp ứng yêu cầu tuyển dụng để phụ trách môn Việt Học tại California State University Of Fullerton là giáo sư Lê Thị Huỳnh Trang.
Từ 1975, California University Of Fullerton rất gần với khu Little Saigon của người Việt, lại nằm trong hệ thống đại học tiểu bang có nhiều sinh viên Mỹ gốc Việt theo học nhất. Chương trình cử nhân tiếng Việt mà Cal State University Of Fullerton đang xúc tiến còn bao gồm cả môn International Business, Kinh Doanh Quốc Tế, không chỉ nhắm vào sinh viên Mỹ gốc Việt mà cả sinh viên chính gốc, vào khi Việt Nam dần hòa nhập vào thị trường toàn cầu và cũng là một thị trường đang lớn mạnh ở Châu Á.
Tiến Sĩ Nguyễn Lâm Kim Oanh, giám đốc điều hành Chương Trình Ngôn Ngữ Chiến Lược của hệ thống đại học California, ủy viên hội đồng quản trị học khu Garden Grove, giải thích lý do giáo sư Lê Thị Huỳnh Trang được Cal State Of Fullerton chọn là vì cô từng dạy Anh ngữ ở đại học Việt Nam và đại học ở Hoa Kỳ, có kinh nghiệm điều hành đồng thời nói tiếng Việt trôi chảy, trong lúc đa số những người ra trường ở Mỹ thì tiếng Anh vững hơn tiếng Việt, còn người bên Việt Nam mà nộp đơn thì tiếng Việt mạnh nhưng tiếng Anh lại yếu.
Mục Đời Sống Người Việt Khắp Nơi hôm nay xin được giới thiệu giáo sư Lê Thị Huỳnh Trang đến quí vị qua cuộc trao đổi sau đây. Trước hết giáo sư Huỳnh Trang nói sơ qua về mình:
GS Huỳnh Trang: Trang học đại học Huế, chuyên ngành tiếng Anh. Năm 1978 khi tốt nghiệp thì được giữ lại dạy tại trường luôn. Năm 1993 Trang được học bổng đi học ở Úc một năm. Năm 1997 thì được một học bổng khác đi Úc để học Master. Năm 2001 Trang được học bổng qua học về Phát Triển Giáo Dục Quốc Tế tại College của Columbia University, 2006 thì Trang ra trường và dạy ESL tại một số đại học cộng đồng ở Sacramento và dạy tiếng Việt ở UC Davis.
Thanh Trúc: Thưa giáo sư, sau khi đã qua những lần phỏng vấn và những vòng thử thách tại đại học California của Fullerton thì giáo sư nhìn thấy cái điều kiện của họ là như thế nào?
GS Huỳnh Trang: Họ yêu cầu tiếng Việt phải rất nhuần nhuyễn, phải biết về văn hóa, văn chương, lịch sử, tuy không quá sâu nhưng phải biết hết. Mặt khác phải có kinh nghiệm về giảng dạy đại học, biết tiếng Anh rành rọt để có thể phát triển chương trình.
Thanh Trúc: Xin cho biết bao giờ thì giáo sư bắt đầu dạy môn Việt Học này?
GS Huỳnh Trang: Bây giờ đang trong giai đoạn viết giáo trình. Trước mắt ở đây chỉ có vài lớp tiếng Việt thôi. Cái chương trình mà Trang đang xây dựng thì phải viết thêm nhiều môn học khác nữa để xây dựng cái minor tức là chuyên nghành phụ, rồi sau một thời gian người ta mới bắt đầu phát triển lên major.
Thanh Trúc: Trước khi đi lên những chương trình chính?
GS Huỳnh Trang: Đúng rồi, bởi vì ở đây chỉ có trình độ sơ cấp mà thôi, thì Trang phải xây dựng chương trình dạy tiếng Việt trình độ trung cấp rồi dạy tiếng Việt trình độ cao cấp, rồi một số những môn học đặc biệt ví dụ như là chuyên đọc hiểu tiếng Việt, văn chương tiếng Việt, viết tiếng Việt.
Tuy nhiên chương trình này không chỉ nhắm đến sinh viên Mỹ gốc Việt mà cũng nhắm đến các sinh viên Mỹ khác nữa.
GS Huỳnh Trang
Trước khi xây dựng chương trình thì tôi cũng có làm một cuộc điều tra thì cái phần mà các em cảm thấy khó khăn nhất chính là đọc và viết. Vì vậy phải xây dựng những môn đặc biệt chuyên về đọc hiểu hoặc chuyên về viết. Sau đó những môn tiếp theo sẽ là văn hóa Việt Nam, văn minh Việt Nam, tiếng Việt thương mại, rồi Việt Nam dành cho thương mại quốc tế. Đó là những môn mà chúng tôi dự định phát triển cho chuyên nghành phụ. Sau khi viết xong phải trình cho ủy ban về xây dựng chương trình ở đại học Fullerton, rồi sau đó sẽ phát triển lên major. Nội dung chương trình tôi đều có tham khảo ý kiến của tiến sĩ Janet Irene, chủ tịch Khoa Ngôn Ngữ Và Văn Chương Hiện Đại của trường Fullerton và những người điều hợp của các chương trình khác như là tiếng Tây Ban Nha, tiếng Pháp, tiếng Trung Quốc, tiếng Nhật vân vân...
Thanh Trúc: Thưa giáo sư Huỳnh Trang, khi dạy ngôn ngữ như một sinh ngữ cho một em nhỏ thì nó tiếp nhận nhanh hơn những em lớn, nhất là những sinh viên Mỹ gốc Việt lớn lên bên này, nói tiếng Mỹ như người Mỹ và tiếng Việt là sinh ngữ phụ. Giáo sư có lường trước mức độ khó khăn như thế nào không?
GS Huỳnh Trang: Có hai loại sinh viên tiếng Việt ở đây. Một là các em sinh ra ở đây hoặc qua đây lúc còn rất nhỏ thì các em nói tiếng Mỹ như tiếng mẹ đẻ, còn tiếng Việt chỉ vài câu rất đơn giản thôi. Đối với các em đó cái khó khăn nhất là tất cả bốn kỹ năng nghe nói đọc viết mà khó nhất chính là đọc và viết.
Còn loại sinh viên thứ hai là qua đây lúc độ mười tuổi cho đến mười ba mười bốn tuổi. Các em có thể nói tiếng Việt cũng khá rồi, cũng có thể viết và đánh vần được nhưng viết và đọc vẫn còn khó khăn.
Thành ra đối với các em sinh ra ở đây thì toàn bộ phải luyện cho các em cả bốn kỹ năng luôn, còn đối với các em đã biết sơ sơ tiếng Việt rồi thì luyện thêm rất nhiều về kỹ năng đọc và viết.
Tuy nhiên chương trình này không chỉ nhắm đến sinh viên Mỹ gốc Việt mà cũng nhắm đến các sinh viên Mỹ khác nữa. Thành ra chương trình nói chung là chúng tôi viết cho toàn bộ tất cả các sinh viên như vậy.
Thanh Trúc: Cảm tưởng của giáo sư khi được chấp nhận dạy môn Việt Học trong chương trình cử nhân của viện đại học California ở Fullerton?
GS Huỳnh Trang: Rất là vui, thứ hai là cảm thấy hãnh diện, là vì còn nhiều ngôn ngữ khác nữa mà bây giờ người ta lại chú tâm đến ngôn ngữ tiếng Việt mình cũng nhờ vào cộng đồng người Việt ở đây rất là nhiều, và cái ảnh hưởng của cộng đồng người Việt đối với nền giáo dục của Mỹ nói chung và nền giáo dục của đại học Fullerton nói riêng. Mình có thể đóng góp một chút gì đó rất là nhỏ để giới thiệu văn hóa Việt đến những sinh viên Mỹ, những người Mỹ, bảo tồn và duy trì cái văn hóa cho những sinh viên Mỹ gốc Việt. Tuy công việc trước mắt đòi hỏi nhiều thử thách, thời gian và khó khăn nhưng Trang thấy mình phải cố gắng hết sức để xây dựng chương trình này.
Thanh Trúc: Mình là người Việt mình yêu thương tiếng mẹ, làm sao để trao truyền lòng yêu thương đó cho những người trẻ Mỹ gốc Việt, làm sao để cho người trẻ biết cái cao quí cái đẹp đẽ của ngôn ngữ Việt thưa giáo sư?
GS Huỳnh Trang: Ngôn ngữ và văn hóa luôn luôn đan quyện với nhau. Khi xây dựng chương trình thì Trang cố gắng đem vào những chủ đề về văn hóa, về cội nguồn, về truyền thống Việt Nam, về lịch sử cha ông như thế nào. Rồi thì cái đẹp cái hay trong văn trong thơ ca Việt Nam.
Trang dự định sẽ dùng hai cuốn sách vừa mới xuất bản trong series book về ngôn ngữ và văn hóa. Trình độ trung cấp thì Trang sẽ dùng của tác giả là tiến sĩ Trần Chấn Trí và cô Trần Minh Tâm. Và một cuốn rất tập trung vào chủ đề văn hóa và văn chương của tác giả Quyên Di. Hai bộ sách này mở rộng cho các em nhiều vấn đề về văn hóa, lịch sử và con người Việt Nam. Chỉ qua những điều như vậy các em mới cảm thấy yêu thương tiếng của mình, văn hóa của mình đất nước của mình. Và khi mà các em yêu thương như vậy các em không quên được nguồn cội của mình.
Sau đó những môn tiếp theo sẽ là văn hóa Việt Nam, văn minh Việt Nam, tiếng Việt thương mại, rồi Việt Nam dành cho thương mại quốc tế.
GS Huỳnh Trang
Thanh Trúc: Nhưng nếu chỉ tiếp xúc với giáo sư thì không thể nào có kết quả bằng chính các sinh viên đó được gởi về Việt Nam để tiếp xúc tìm hiểu cuộc sống, tìm hiểu sinh hoạt kinh tế xã hội để vừa học hỏi vừa thực hành tiếng Việt của mình. Thường các trường đại học hay có những tương quan những sự liên lạc với nhau để giúp cho sinh viên giống phương pháp dạy sinh viên Mỹ học tiếng Trung Quốc vậy. Thì không thể nào sinh viên Mỹ gốc Việt học tiếng Việt mà không đi qua những chương trình đó?
GS Huỳnh Trang: Sau khi các em đã học qua những lớp bậc trung cấp và cao cấp rồi thì đó là điều kiện lý tưởng nhất để các em thực tập. Chuyện đưa các em về rồi kết hợp với các trường đại học bên kia chắc chắn không có gì trở ngại. Bởi ngay cả đại học Huế mà trường Trang dạy trước kia là đại học ngoại ngữ thì như là hè này thì Trang biết vì Trang có nói chuyện với ông viện trưởng tức là tiến sĩ Trần Văn Phước thì ông đã nhận một đoàn sinh viên của Mỹ từ đại học Washington. Những sinh viên này học về Châu Á Học và Lịch Sử tức Asian Study And History. Họ đã về thực tập ở Huế và họ đã liên lạc với trường đại học của Trang. Vì vậy Trang nghĩ khi liên hệ để đưa các em về thì chắc chắn tiến sĩ Trần Văn Phước cũng như ban giảng huấn bên đó sẽ rất là ủng hộ.
Ngoài ra Trang cũng có nhiều bạn ở đại học Cần thơ, đại học Sài Gòn, cũng như đại học Hà Nội. Chuyện đưa các em về thực tập Trang tin sẽ rất là dễ dàng. Đó là điều quá tốt để các em học hỏi thêm.
Thanh Trúc: Cảm ơn giáo sư Lê Thị Huỳnh Trang và thời giờ dành cho buổi nói chuyện hôm nay.
Mục Đời Sống Người Việt Khắp Nơi đến đây tạm kết thúc. Thanh Trúc sẽ trở lại cùng quí vị tối thứ Năm tuần tới.
Nghị sĩ Mỹ gốc Việt đầu tiên đến Hà Nội
Trưa nay, Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Thanh Sơn đã tiếp luật sư Joseph Cao (Cao Quang Ánh), người gốc Việt đầu tiên được bầu vào Hạ viện Mỹ, nhân chuyến thăm và làm việc tại Hà Nội.
Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Thanh Sơn và ông Joseph Cao (phải). Ảnh: Tiến Dũng. |
Sau khi chúc mừng ông Joseph Cao trở thành người Việt đầu tiên được bầu vào Hạ viện Mỹ, Thứ trưởng Nguyễn Thanh Sơn tin tưởng rằng chuyến thăm này sẽ giúp thắt chặt mối quan hệ giữa hai nước.
Trao đổi với báo chí, nghị sĩ Joseph Cao cho biết, trong chuyến thăm Hà Nội, TP HCM, ông sẽ tìm hiểu tình hình phát triển của Việt Nam. "Dù còn bất đồng ý kiến trong một số vấn đề, nhưng tôi hy vọng hai bên sẽ hiểu nhau hơn và cùng làm việc cho tương lai của hai nước", ông Joseph Cao nói.
Thứ trưởng Nguyễn Thanh Sơn tiếp đoàn đại biểu nghị viện Mỹ. Ảnh: Tiến Dũng. |
Ông Cao Quang Ánh sinh ra tại Việt Nam, năm lên 8 tuổi rời Sài Gòn. Ông lấy bằng triết học ở ĐH Fordham, sau đó chuyển đến Louisiana năm 1992. Ông tiếp tục lấy bằng luật sư tại ĐH Loyola ở New Orleans. Năm 2005, nhà ông bị ngập chìm trong bão Katrina và Gustav.
Sau cơn bão, với tư cách luật sư, ông dẫn đầu một chiến dịch rất ấn tượng nhằm đóng cửa một bãi rác thải chứa các phế liệu của đống đổ nát sau Katrina.
Cuối năm 2008, luật sư Joseph Cao (41 tuổi) đảng Cộng hòa, đã thắng cử và trở thành người Việt đầu tiên được bầu vào Hạ viện Mỹ.
|
|||||||||||
By Rick
Jervis, USA TODAY
NEW ORLEANS — Anh "Joseph" Cao was
taken from war-ravaged Vietnam as an 8-year-old boy, leaving his
parents for the safety and hope of America.
On Sunday, 33 years later, leaders at Mary Queen of Vietnam Church in east New Orleans introduced Cao (pronounced GOW), a Republican, as the first Vietnamese American elected to Congress. The congregation stood and applauded. "Never in my life did I think I could be a future congressman," Cao, 41, said at a victory party Saturday after he beat out nine-term Democratic incumbent William Jefferson. "The American dream is well and alive." Cao's victory represents not only a stronger voice for Vietnamese in America but payoff for generations of hard work and sacrifice by Vietnamese immigrants, said Luke Nguyen Hungdung, a pastor at the main church in east New Orleans. "The older Vietnamese generation is especially proud to see a Vietnamese enter Congress," he said. Cao, a newcomer, won the 2nd Congressional District race, 50% to 47%. The win could be the final blow to the political career of Jefferson, who is charged in a 16-count federal bribery and money-laundering indictment. Prosecutors allege Jefferson took more than $500,000 in bribes, including $90,000 that investigators found in his freezer. "People are innocent until proven guilty," said Faye Leggins, 54, a Democrat who voted for Jefferson on Saturday. Cao capitalized on low turnout in the mostly black and Democratic district. The election schedule was delayed because of Hurricane Gustav this summer. Only 66,846 people voted Saturday for the general election, compared with 164,000 for the Nov. 4 Democratic runoff, state figures show. "I think people just ran out of gas a bit," Jefferson said Saturday. Cao was born in Saigon (now Ho Chi Minh City), the fifth of eight children, as the country's civil war was ramping up, according to his website. Shortly after Saigon was overrun by North Vietnamese troops, he came to the USA with two siblings. His father was in a North Vietnamese prison, and his mother stayed behind to raise five children. Cao earned a bachelor's degree in physics from Baylor University in Texas. He also has a master's degree in philosophy and a law degree. He and his wife, Hieu "Kate" Hoang, have two daughters, Sophia, 5, and Betsy, 3. His parents now live in New Orleans. After Hurricane Katrina, Cao, an immigration lawyer, fought the utility companies and helped return power to and rebuild the Vietnamese community. His victory is still sinking in, spokesman John Tobler said. "It's still a major adjustment to his life and what he represents not only to the Vietnamese community here but throughout the country," Tobler said. Contributing: Associated Press |
Nguồn: http://www.wikipedia.org |
Trung Tá Lê Bá Hùng Gia Minh, phóng viên RFA2009-11-07Chiến hạm USS Lassen của Hoa Kỳ cập cảng Tiên
Sa,
Đà Nẵng trong khuôn khổ chuyến thăm hữu nghị đến Việt Nam.
Chỉ huy chiến hạm này là một người Mỹ gốc Việt, trung
tá Lê Bá Hùng, một người sinh ra tại Huế
và di tản khỏi Việt Nam hồi năm 1975 lúc mới lên
năm tuổi.
Khi chiến hạm USS Lassen vừa rời Nhật Bản và trên đường đến Việt Nam, Gia Minh có cuộc nói chuyện điện thoại ngắn với trung tá Lê Bá Hùng về chuyến đến Việt Nam trên chiến hạm USS Lassen. Do xa quê hương đã lâu nên trung tá Lê Bá Hùng cho biết quên quá nhiều từ Việt Nam để có thể trả lời bằng tiếng Việt một cách trôi chảy nên ông xin lỗi quí thính giả và xin trả lời bằng tiếng Anh. Đây là chuyến trở về Việt Nam lần đầu tiên sau hơn 34 năm, nên trước hết trung tá Lê Bá Hùng chia xẻ một số cảm xúc như sau: TT Lê Bá Hùng: Tôi
thật
sự hết sức háo hức
trước cơ hội được đến
thăm
Việt Nam sau bao nhiêu năm. Đội
ngũ sĩ quan và thủy thủ trên chiến
hạm của tôi cũng hết sức
náo
nức đối với cơ
hội mà tôi có thể
nói chỉ có thể xảy
ra một lần trong đời người
như thế này mà chúng
tôi mang trọng trách đại diện
cho
Hoa
Kỳ
đến với đất nước
Việt Nam và con người Việt
Nam.
Gia Minh: Hẳn nhiên gia đình của trung tá trong những năm qua cũng kể cho ông nhiều điều về Việt Nam, vậy những hình ảnh hiện vẫn in sâu trong trí trung tá là gì? TT Lê Bá Hùng: Dĩ nhiên bố mẹ tôi nói với tôi về ông bà, những người sống ở Huế và đã qua đời. Đương nhiên trong quá trình lớn lên tôi đã trải nghiệm qua nền văn hóa Việt Nam, hằng năm gia đình tôi đều đón mừng Tết với những sinh hoạt và ăn những món truyền thống như bún bò Huế, bánh canh, bánh lọc, phở. Bản thân tôi thực sự cũng có thể nấu nhiều món đó. Tôi vô cùng tự hào về nguồn gốc truyền thống Việt Nam của tôi, và một lần nữa tôi xin nói là tôi rất náo nức trước cơ hội được đến Đà Nẵng. Một số thân nhân tôi trong những năm qua có trở về Việt Nam, mẹ tôi về nghĩ ở Việt Nam mấy kỳ, các anh chị lớn của tôi cũng đều có về Việt Nam. Riêng bản thân tôi chưa về Việt Nam vì từ năm 18 tuổi tôi đã vào Học viện Hải quân, học ở đó bốn năm, sau khi ra trường thì làm sĩ quan đến 17 năm và rất bận rộn nên không có dịp về Việt Nam chơi. Nay thì thật là may tôi có cơ hội để trở về Việt Nam. Tự hào về nguồn gốc VN Gia Minh: Khi đến Việt Nam trong một dịp như thế này, trung tá sẽ gặp những quan chức quân sự Việt Nam, nhiều thành phần khác nhau ở Việt Nam, vậy thông điệp mà trung tá sẽ chuyển đến cho họ là gì? TT Lê Bá Hùng: Tôi sẽ nói với họ là tôi rất tự hào vì mình là một công dân Hoa Kỳ đồng thời cũng tự hào mình được sinh ra ở Việt Nam và mang trong mình những di sản Việt Nam. Tôi lớn lên, học hỏi trong một gia đình với nền văn hóa Việt Nam mạnh mẽ với mối quan hệ gia đình bền chặt, người trẻ tôn trọng người lớn và dĩ nhiên có những món ăn truyền thống Việt Nam. Tôi xin nhắc lại
là
tôi rất hãnh diện về
truyền thống Việt Nam của
gia
đình;
tóm
lại tôi tự
hào là công dân Hoa Kỳ và tự
hào mình là người Mỹ gốc
Việt.
Gia Minh: Trong lần đến Việt Nam này , nếu có người nhắc lại với Trung tá về cuộc chiến Việt Nam mà Hoa Kỳ tham gia, thì trung tá sẽ nói gì với người đó? TT Lê Bá Hùng: Theo tôi thì có thể điều đó có khả năng xảy ra, tôi cho rằng có thể ở Đà Nẵng thì không ai hỏi nhưng nếu tôi ra Hà Nội thì chắc sẽ gặp một số người nói về quá khứ chiến tranh đó; nhưng lần này thì tôi không đi Hà Nội. Tuy vậy nếu có người nhắc đến cuộc chiến đó thì tôi sẽ nói với họ rằng chiến tranh là điều đáng buồn nhất: nhiều người đã phải bỏ mạng,những đồng bào cùng một quốc gia phải hy sinh trong một cuộc nội chiến, thế rồi nhiều binh sĩ Hoa Kỳ cũng phải bỏ mình và như thế là một điều rất đáng buồn. Tuy nhiên trong những năm qua quan hệ Hoa Kỳ và Việt Nam đã có cải thiện và tôi mong muốn sự hợp tác đang gia tăng sẽ tiếp tục. Gia Minh: Kể từ khi nhận nhiệm vụ chỉ huy chiến hạm USS Lassen hồi tháng tư năm nay, trung tá đã đến viếng thăm những quốc gia nào trong khu vực? TT Lê Bá Hùng: Từ tháng tư cho đến nay khi ở trong vai trò chỉ huy chiến hạm tôi đã đưa tàu đến thăm Hàn Quốc, Singapore và một số thành phố khác ở Nhật Bản. Chuyến đến Việt Nam lần này có điểm đặc biệt đối với chúng tôi vì hầu hết các thủy thủ trên tàu chưa hề bao giờ đến đó, nên chúng tôi mong được ngắm xem những cảnh trí đẹp, thưởng thức các món ăn địa phương, và gặp những người dân tại đó. Gia Minh: Chiến hạm USS Lassen thuộc hạm đội 7 của Hoa Kỳ tại khu vực Thái Bình Dương, và nhiệm vụ được nói giúp duy trì ổn định trong khu vực, vậy trung tá có nhận định về tình hình an ninh tại vùng Đông Á hiện ra sao? TT Lê Bá Hùng: Hải quân Hoa Kỳ đã hoạt động tại khu vực Tây Thái Bình Dương hơn 150 năm nay Sự hiện diện của chúng tôi giúp duy trì ổn định và giúp cổ xúy những biện pháp hòa bình khi có xảy ra những khác biệt như tình hình tranh chấp lãnh hải mà chúng tôi biết được. Chúng tôi tiến hành những cuộc tập trận, đến thăm các cảng khác, thảo luận cũng như thực hiện những công tác nhân đạo với gần hai chục quốc gia khác nhau trong khu vực. Những hoạt động đó giúp thiết lập nên quan hệ đối tác trên biển mà có thể đưa đến tình hình an ninh hơn, cũng như quan hệ thân thiện chung. Gia Minh: Cám ơn Trung tá về cuộc nói chuyện vừa rồi và chúc chuyến đến Việt Nam thành công. TT Lê Bá Hùng: Trước hết xin cám ơn vì cho tôi cơ hội lên tiếng trên Đài Á châu Tự do. Tôi lặp lại là mình hết sức vinh dự được làm hạm trưởng một chiến hạm của Hoa Kỳ và rất tự hào về di sản Việt Nam. Đây là vài lời của tôi đối với thính giả Việt Nam: Xin cám ơn nhiều! |